Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Vài Suy Nghĩ Về Thiền Phái Trúc Lâm Trong Bức Tranh Phật Giáo Việt Nam

10 Tháng Hai 202017:34(Xem: 4778)
Vài Suy Nghĩ Về Thiền Phái Trúc Lâm Trong Bức Tranh Phật Giáo Việt Nam
Vài Suy Nghĩ Về Thiền Phái Trúc Lâm
Trong Bức Tranh Phật Giáo Việt Nam

Thích Trung Hữu

Vài Suy Nghĩ Về Thiền Phái Trúc Lâm Trong Bức Tranh Phật Giáo Việt Nam

Khi có một hiện tượng mới ra đời thì sẽ có nhiều ý kiến, nhận định khác nhau về hiện tượng đó. Những nhận định này có khi rất trái chiều, tùy theo nhận thức và thậm chí là tình cảm của từng người. 

Điều này cũng xảy ra đối với việc Hòa thượng Thích Thanh Từ khôi phục lại dòng thiền Trúc Lâm. Khi Hòa thượng Thanh Từ từ bỏ nếp sống và cách hành trì của các chùa Bắc tông (chỉ cho đại đa số các chùa tu theo Tịnh độ hoặc Thiền, Tịnh, Mật kiêm tu) đương thời để lên núi tu thiền và sau đó là khôi phục lại dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử do Phật hoàng Trần Nhân Tông sáng lập ở thế kỷ XIII thì có một số người đồng tình và một số người không đồng tình. Những người không đồng tình thì cho rằng Hòa thượng làm như vậy là chia rẽ mối đạo, gây ra sự phân biệt giữa Bắc tôngThiền tông và nhiều ý kiến khác không tiện nêu ra nơi đây. 

Thật ra, mỗi người đều có cách nhận định, đánh giá của riêng mình, cho nên chúng tôi cũng không muốn đánh giá nhận định nào đúng nhận định nào sai, mà chúng tôi chỉ nêu lên nhận định của cá nhân mình về vấn đề mà thôi. Tôi thấy rằng việc Hòa thượng Thích Thanh Từ lui về núi ẩn tu theo cách riêng của ngài cho thấy ngài là một người tu có nhiều tâm huyết với Phật pháp và đường hướng tu hành nói chung. Ngài không đồng tình với cách tu hànhsinh hoạt của Phật giáo đương thời, mà theo ngài là quá hướng ngoại, cho nên muốn làm cái gì đó khác biệt và hiệu quả hơn. Nói cách khác, ngài cho rằng mục đích của người tu là phải giác ngộ, phải minh tâm kiến tánh, nhưng nếu tu theo cách mà đại đa số mọi người đang làm bấy giờ thì không thể nào đạt được mục đích đó. Chính ngài cũng đã nhiều lần bày tỏ về điều này, ví dụ như trong bài “Lý tưởng tối hậu”, ngài viết:

Tại sao tôi đã tuyên bố: “Thiền viện Trúc Lâmlý tưởng tối hậu trong đời tu của tôi?” Bởi vì trước kia tôi đã từng ở tại các Phật học đường, và sau này cũng đi dạy ở các Phật học đường, giao tiếp với chư Tăng, chư Ni mọi nơi. Tôi thấy rõ, trong giới tu sĩ Phật giáo chúng ta thường có cái bệnh là thiếu hòa hợp. Bởi thiếu hòa hợp, cho nên ở nơi nào cũng thường xảy ra những chuyện vui buồn đáng tiếc. Vì vậy, tôi thấy đó là một nỗi buồn! Lại nữa, tôi nhìn thấy Tăng Ni ở các Phật học viện cũng như các nơi, phần lớn bị vấn đề kinh tế chi phối. Vì phải lo cho có ăn, có mặc và có những phương tiện học tập, mà Tăng Ni không còn đủ thời gian để tu, để học. Tôi lại thấy Tăng Ni chúng ta, vì những việc bên ngoài lôi cuốn rồi phải chạy theo; bị chi phối rất lớn bởi những đám tiệc của Phật tử, bởi những lễ lược trong chùa và khách khứa từ thân nhân huynh đệ qua lại tới lui với nhau, làm mất hết bao nhiêu thời gian quý báu trong lúc tu hành cũng như học tập. Vì vậy mà tôi rất đáng tiếc… Khi thiền viện Trúc Lâm đã thành tựu, có Tăng Ni tụ họp tu hành thì tôi lập bản Thanh quy (hay Nội quy); trong đó điều kiện tiên quyết, là tôi bắt Tăng Ni ở đây phải thực hiện cho được phép sống Lục hòa. Bởi vì chúng ta là người tu, là người hướng dẫn, chỉ dạy cho Phật tử tu hành… Nếu nội bộ mình không hòa thuận, không có vui vẻ với nhau thì chúng ta dạy ai, hướng dẫn ai để họ tu hành? Cho nên tôi lấy Lục hòa làm cái then chốt trong cuộc sống của người tu sĩ. Đó là điều thiết yếu. Vì vậy, tôi yêu cầu Tăng Ni hai bên phải cố gắng thực hiện cho được pháp Lục hòa mà tôi cho là tối quan trọng.
 
Kế đó là tôi thấy rằng, Tăng Ni vì bận sự sống mà mất thời gian tu. Cho nên khi thành lập thiền viện Trúc Lâm tôi đòi hỏi Tăng Ni phải dồn hết thời giờ trong sự tu hành. Muốn được như vậy, thì mọi nhu cầu về ăn, mặc, thuốc men… thiền viện chúng tôi chịu trách nhiệm hết: lo cho Tăng Ni đủ ăn, đủ mặc, bệnh hoạn có thuốc thang… để cho Tăng Ni không còn bận tâm về tài chánh. Nhờ không bận tâm về tài chánh nên yên ổn tu hành, mới mong có những tiến bộ. Đó là điều thứ hai.
 
Thứ ba là, tôi biết sự giao thiệp qua lại tới lui sẽ chiếm mất thời gian tu hành của Tăng Ni. Cho nên tôi quyết tâm ngang đây, những vị nào phát nguyện vào thiền viện tu hành, thì phải gìn giữ điều kiện không được đi nơi này nơi kia, chỉ một hai trường hợp đặc biệt mới được đi, đó là hạn chế sự đi lại. Hơn nữa, ở đây Phật tử cúng kính, cầu nguyện chỉ tới ghi tên, rồi chư Tăng chư Ni trong buổi sám hối nguyện cầu cho, chứ không đi đám chỗ này chỗ kia mất thời gian tu của Tăng Ni. Đó là điều thứ ba…
 
Đó là những điều mà trước kia tôi thấy nó làm trở ngại cho Tăng Ni tu hành khó tiến bộ. Cho nên, khi thành lập thiền viện Trúc Lâm, những trở ngại đó tôi quyết tâm vượt qua, để tạo điều kiện cho Tăng Ni tu đến nơi đến chốn. Khi thành lập thiền viện Trúc Lâm, tôi tin rằng sẽ tạo đủ điều kiện cho Tăng Ni tu hành được tiến bộ, thì đó là mãn nguyện của chúng tôi. Vì vậythiền viện Trúc Lâm, tôi cho là lý tưởng tối hậu ở chỗ đó. Lý tưởng tối hậu không phải đời tôi tới đây là chấm dứt, không truyền bá, không làm Phật sự, mà tối hậu là vì những hoài bão ôm ấp từ trước đến đây tôi thực hiện được. Tôi làm được những gì mà trước kia tôi thấy còn thiếu sót nơi tôi, tôi bổ túc lại cho đầy đủ. Đó là cái mãn nguyện của tôi”.1

Điều trăn trở của Hòa thượng Thanh Từ cũng chính là điều mà một bộ phận Tăng Ni đang mong đợi. Điều này có thể thấy ở việc ngay sau khi thành lập Thiền phái Trúc Lâm thì có rất nhiều người theo Hòa thượng tu học. Điều này chứng tỏ pháp môn thiền của Hòa thượng đã đáp ứng đúng nguyện vọng và khát khao tu tập của nhiều Tăng NiPhật tử. Hòa thượng Thanh Từ có lần tâm sự rằng lúc đầu ngài nghĩ rằng sẽ chỉ có vài ba chục người theo tu thiền mà thôi, không ngờ lại có rất nhiều người ham thích tu thiền như vậy. Chính vì thế mà Hòa thượng phải thành lập nhiều thiền viện làm nơi giáo hóa và hướng dẫn tứ chúng tu hành:


- Thiền viện Chân Không, núi Tương Kỳ - Vũng Tàu, thành lập tháng 4-1971; dời về Thường Chiếu năm 1986, được phép tái thiết năm 1995.
- Thiền viện Thường Chiếu, Long Thành, tỉnh Đồng Nai, thành lập tháng 8-1974.
- Thiền viện Viên Chiếu, Long Thành, tỉnh Đồng Nai, thành lập tháng 4-1975.
- Thiền viện Huệ Chiếu, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, thành lập tháng 4-1979.
- Thiền viện Linh Chiếu, Long Thành, tỉnh Đồng Nai, thành lập tháng 2-1980.
- Thiền viện Phổ Chiếu, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, thành lập tháng 6-1980.
- Thiền viện Tịch Chiếu, Long Hải, thành lập tháng 7- 1987.
- Thiền viện Liễu Đức, Long Thành, tỉnh Đồng Nai.
- Thiền viện Trúc Lâm, Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng, thành lập tháng 4- 1993.
- Chùa Lân - Thiền viện Trúc Lâm Yên Tử, tỉnh Quảng Ninh thành lập 2002.
- Thiền viện Tuệ Quang, Linh Trung, Thủ Đức, thành phố Hồ Chí Minh.
- Thiền viện Hương Hải, Long Thành, tỉnh Đồng Nai.
- Thiền viện Đạo Huệ, Long Thành, tỉnh Đồng Nai.
- Thiền viện Tuệ Thông, Long Thành, tỉnh Đồng Nai.
- Thiền viện Đại Đăng, Bonsall, California, Hoa Kỳ, thành lập năm 2001.
- Thiền viện Quang Chiếu, Forthworth, Texas, Hoa Kỳ, thành lập năm 2000.
- Thiền viện Bồ Đề, Boston, Hoa Kỳ, thành lập năm 2002.
- Thiền viện Diệu Nhân, Sacramento, Hoa Kỳ, thành lập năm 2002.
- Thiền tự Ngọc Chiếu, Garden Grove, California, Hoa Kỳ.
- Thiền tự Vô Ưu, San Jose, California, Hoa Kỳ.
- Thiền tự Đạo Viên, Québec, Canada, thành lập năm 2002.
- Thiền tự Thường Lạc (Pháp).
- Thiền tự Pháp Loa (Úc).
- Thiền tự Hiện Quang (Úc).
- Thiền tự Hỷ Xả (Úc).
- Thiền viện Tiêu Dao (Úc).
- Thiền tự Tuệ Căn (Úc).

Còn số lượng Phật tử tại gia quy y với Hòa thượng thì lại càng nhiều hơn nữa. Tổng số Phật tử phát tâm quy y trong và ngoài nước là 184.860 người (trong nước: 175.260 người, nước ngoài: 9.600 người.2 Điều này cho thấy con đường Hòa thượng đi là đúng đắn và có hiệu quả

Tuy nhiên, nếu như chê bai là một cực đoan thì việc thổi phồng vấn đề lại là một cực đoan khác. Những người ủng hộ Thiền phái Trúc Lâm không những cho rằng việc phục hưng lại dòng thiền Trúc Lâmcần thiết, vì đó là dòng thiền của người Việt Nam, do người Việt Nam sáng lập mà còn cho rằng Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử mới là Phật giáo Việt Nam chính thống, còn những thiền phái hay tông phái khác là của ngoại quốc. Cho nên người Việt Nam thì phải tu theo Thiền Trúc Lâm mới là tu đúng. 

Bản thân tôi rất đồng tình với việc Hòa thượng Thanh Từ chủ trương tu thiền và khôi phục thiền phái Trúc Lâm, việc làm đó đã đem lại luồng sinh khí mới cho Phật giáo cũng như đem lại lợi ích cho rất nhiều người, những người có nhu cầu tu thiền. Tuy nhiên, cho rằng Thiền phái Trúc Lâm mới là Phật giáo chính thống của người Việt thì tôi cho rằng đó là một quan niệm cực đoan hoặc cái nhìn phiến diện. Chúng ta biết rằng sự ra đời của Thiền phái Trúc Lâm mang tính lịch sử cụ thể, vừa thể hiện tinh thần độc lập tự chủ tự hào dân tộc, cũng vừa đáp ứng nhu cầu thống nhất, đoàn kết của dân tộc lúc bấy giờ. 
Có thể nói từ khi Ngô Quyền đánh đuổi quân Nam Hán vào năm 938 thì nước ta mới có khái niệm độc lập thật sự. Từ đó ý thức về chủ quyền đất nước, tinh thần độc lập, tự cường của dân tộc ngày càng phát triển và đến triều đại nhà Trần thì đạt đến đỉnh điểm sau ba lần chiến thắng quân Nguyên - Mông. Nếu chỉ có sự độc lập về lãnh thổ thì chưa phải là độc lập hoàn toàn. Muốn độc lập hoàn toàn thì phải có sự độc lập trên những lĩnh vực khác thuộc thượng tầng kiến trúc, trong đó tôn giáovai trò vô cùng quan trọng. 

Đến thời nhà Trần thì nước ta có ba dòng thiền là Tì-ni-đa-lưu-chi, Vô Ngôn ThôngThảo Đường. Cả ba dòng thiền này đều có nguồn gốc từ nước ngoài là Ấn Độ và Trung Hoa. Để thực hiện/thể hiện tinh thần độc lập dân tộc đối với nước ngoài, nhất là với Trung Quốc, cũng như thống nhất về mặt tư tưởng, tạo nên khối đại đoàn kết dân tộc để xây dựng đất nước vững mạnh, Trần Nhân Tông với tư cách là một quân chủ và là một Thiền sư đã giác ngộ, đã thành lập Giáo hội Trúc Lâm để thực hiện sứ mệnh lịch sử của dân tộc lúc bấy giờ. Nói về sự ra đời và vai trò của Thiền phái Trúc Lâm, các nhà nghiên cứu đã có những nhận định như sau: 

Chúng ta nhìn lại lịch sử Phật giáo Việt Nam hẳn thấy nổi bật một nét đột phá vô cùng thú vị - Một Thiền phái mang tên Việt Nam, với ông Tổ người Việt Nam, lại là một vị vua anh hùng của dân tộc. Đây là một chấm son trên lịch sử dân tộc nói chung, Phật giáo Việt Nam nói riêng. Đặt trong tương quan giữa Phật giáovăn hóa dân tộc, dòng Thiền Trúc Lâm Yên Tử có một vị trí đặc biệt, sự ra đời thiền phái đã góp phần cổ vũ tinh thần người dân nước Việt về khả năng phát triển những giá trị văn hóa bản địa, nội sinh trong lòng dân tộc. Nhưng đồng thời cũng có thể tu chứng trên cơ sở nền tảng giáo giáo pháp của Phật”.3

Thiền phái Trúc Lâm đã nhập thế cùng dân tộc trong sự nghiệp phát triển đất nước. Điều này không chỉ tạo ra bản sắc Thiền tông Đại Việt mà còn tác động mạnh mẽ vào đời sống chính trị văn hóa xã hội nước nhà. Việc định hướng bảo vệ chủ quyền dân tộc, mở rộng biên cương, chấn hưng văn hóa Đại Việt của nhà Trần đều mang dấu ấn quan điểm Phật giáo, nhất là tư tưởng tùy duyên mà vui với đạo của Thiền phái. Sự thành công của nhà Trần là nhờ các ông vua lãnh đạo đất nước biết vận dụng tư tưởng “Cư trần lạc đạo” của Trần Nhân Tông để huy động sức mạnh đoàn kết toàn dân. Tiềm lực dân tộc trước hết nằm ở lòng yêu nước của toàn dân để xây dựng Đại Việt thành một quốc gia hùng cường mà không có một thế lực nào ngăn cản được.4

Hơn nữa chúng ta nên nhớ rằng Thiền phái Trúc Lâmtiếp nối và tổng hợp những tính chất phù hợp với thời đại của ba thiền phái đương thời chứ không phải toàn bộ tính chất của ba thiền phái ấy. Mà cho dù Thiền phái Trúc Lâm bao hàm tất cả tính chất của ba thiền phái thì cũng không thể nào gọi là bao hàm tất cả Phật pháp, vì ba thiền phái Tỳ-ni-đa-lưu-chi, Vô Ngôn ThôngThảo Đường cũng chỉ là những chi nhánh thiền của Ấn Độ và Trung Hoa mà thôi. Mà chúng ta biết, Thiền cũng chỉ là một pháp tu trong vô lượng pháp tu trong Phật pháp và một tông phái trong nhiều tông phái của Phật giáo


Phật giáo bao la rộng lớn vô cùng chứ không phải chỉ có Thiền. Mỗi tông phái hay pháp môn nhấn mạnh vào một khía cạnh tu tậphành đạo theo chủ trương của tông phái hay pháp môn đó. Cho nên hẳn nhiên pháp môn hay tông phái nào cũng có hiện tượng “được cái này thì mất cái kia”, và do đó cũng hẳn nhiên là thích hợp với người này thì không thích hợp với người kia về mặt tu học, cũng như làm được cái này thì không làm được cái kia về mặt xã hội. Riêng ở nước ta, trước và sau triều đại nhà Trần có rất nhiều pháp môn tu học và dòng thiền khác nhau. Chúng ta đừng quên rằng Thiền phái Trúc Lâm chỉ truyền thừaba đời, từ Trần Nhân Tông, đến Pháp Loa rồi sau đó là Thiền sư Huyền Quang thì không còn truyền nữa trên thực tế.Vậy chẳng lẽ trước và sau Phật giáo Trúc Lâm thì Phật giáo không mang tính dân tộc cũng như sau khi Phật giáo Trúc Lâm không còn thì Phật giáo Việt Nam cũng không còn nữa? Cho nên nếu cho rằng Thiền phái Trúc Lâm mới là Phật giáo Việt Nam chính thống, đại diện cho toàn thể Phật giáo Việt Nam là cái nhìn cực đoanthiếu sót

Chúng sinh đa bệnh, Phật pháp đa phương. Ngay tại Ấn Độ, khi Đức Phật còn tại thế hay sau khi Ngài nhập diệt đều có nhiều phương pháp tu và tông phái khác nhau rồi. Khi Phật giáo truyền sang các nước thì mỗi nước đều có thành lập tông phái mới để thích ứng với thời đạicon người. Mỗi tông phái ra đời để đảm nhận một vai trò lịch sử cụ thể cũng như đại biểu cho một phương pháp tu tập nhất định, nhưng không có tông phái nào có thể thay thế, bao hàm hay đại diện cho tất cả những tông phái khác. Nếu có một tông phái như vậy thì tông phái đó phải mang tên là tông phái Phật giáo mà người sáng lậpĐức Phật Thích Ca Mâu Ni. Và sự ra đời của Thiền phái Trúc Lâm Yên TửViệt Nam cũng nằm trong xu hướng đó. Chúng ta đồng tình và tự hào mình có một thiền phái mang tên Việt Nam với ông Tổ là người Việt Nam

Sự ra đời của Thiền phái Trúc Lâm cũng như sự phục hưng của thiền phái ấy đã đem lại lợi ích cho không biết bao nhiêu người con Phật đang tu học trong thời hiện đại. Tuy nhiên chúng ta cũng không nên phóng đại, cho rằng chỉ có Thiền phái Trúc Lâm mới là Phật giáo chính thống của người Việt, là đại diện duy nhất của Phật giáo Việt Nam, rằng người Việt thì phải theo Phật giáo Trúc Lâm mới là yêu nước, mới có tinh thần dân tộc. Phật giáo Việt Nam, ngoài Thiền phái Trúc Lâm còn có những thiền phái và tông phái Phật giáo khác, đều mang hương vị giải thoát của Phật pháp và đều vô cùng quan trọng và cần thiết cho dân tộc và đạo pháp nói chung.

Nói tóm lại, sự ra đời của Thiền phái Trúc Lâm “như một chấm son trên dòng lịch sử dân tộc nói chung và Phật giáo Việt Nam nói riêng”, góp phần tạo nên bức tranh Phật giáo Việt Nam hoàn chỉnh vậy. 
Thích Trung Hữu
_____________
(1) http://www.thuongchieu.net/index.php/component/content/article?id=454
(2) PGS.TS Đỗ Văn Trụ, Hòa thượng Thích Thanh Từ: Người phục hưng Thiền phái Trúc Lâm Việt Nam thế kỷ XX-XXI (https://phatgiao.org.vn/hoa-thuong-thich-thanh-tu-nguoi-phuc-hung-thien-phai-truc-lam-viet-nam-the-ky-XX-XXI-d35709.html). 
(3) Hương Lam, Tổng lược về Thiền phái Trúc Lâm (https://nghiencuulichsu.com/2018/11/02/tong-luoc-ve-thien-phai-truc-lam/). 
(4)  Lan Anh- Đặng Khanh, Thiền phái Trúc Lâm - sự ra đời của Phật giáo Việt Nam (https://vov.vn/van-hoa-giai-tri/thien-phai-truc-lam-su-ra-doi-cua-phat-giao-viet-nam-294798.vov).
(5) Sau khi Tổ Huyền Quang mất (1334), không tìm thấy tư liệu nói về Thiền phái Trúc Lâm. Đến thế kỷ XVII, mới có tài liệu nói rằng ngài Hương Hải (1625-1715) là một Thiền sư thuộc Thiền phái Trúc Lâm. Ngài đã tạo ra một âm hưởng lớn cho thiền phái sau mấy trăm năm trầm lắng. Vào nửa cuối thế kỷ XVII, xuất hiện Thiền sư Chân Nguyên Tuệ Hải. Ngài vốn đắc pháptông Lâm Tế nhưng lại là người muốn làm sống lại tinh thần Thiền phái Trúc Lâm. Ngài là tác giả cuốn Thiền tông bản hạnh, kể về cuộc đời tu hànhngộ đạo của năm vị vua Trần. Sau thời kỳ này, một lần nữa lịch sử thiền phái lại rơi vào giai đoạn trầm lắng cho đến cuối thế kỷ XX với sự xuất hiện của Hòa thượng Thanh Từ, người có tâm huyết muốn khôi phục Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử. Hay như trong quyển Đại Nam Thiền uyển truyền đăng tập lục của Hòa thượng Thích Phúc Điền ở Bồ Sơn (Bắc Ninh) khắc in vào đầu năm Kỷ Mùi (1859) có liệt kê đến mười mấy thế hệ truyền thừa của Thiền phái Trúc Lâm sau ngài Huyền Quang, nhưng đây cũng chỉ là “những điều ông nghe về việc truyền thừa của Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử đời Trần” (Nguyễn Lang, Việt Nam Phật giáo sử luận, Tập 1, NXB.Văn Học, Hà Nội, 1992, tr.102) chứ không có chứng cứ lịch sửchính xác. Các thế hệ đó là: 
- Trúc Lâm Trần Nhân Tông
- Tổ sư Pháp Loa
- Tổ sư Huyền Quang
- Quốc sư An Tâm
- Quốc sư Phù Vân (hiệu Tĩnh Lự)
- Quốc sư Vô Trước
- Quốc sư Quốc Nhất
- Tổ sư Viên Minh
- Tổ sư Đạo Huệ
- Tổ sư Viên Ngộ
- Quốc sư Tổng Trì
- Quốc sư Khuê Thám
- Quốc sư Sơn Đằng
- Đại sư Hương Sơn
- Quốc sư Trí Dung
- Tổ sư Tuệ Quang
- Tổ sư Chân Trú
- Đại sư Vô Phiền.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 9120)
Dù có gặp phải các khó khăn to lớn đến đâu, thì cũng không nên thối chí, không được tránh né, mà phải phát huy sức mạnh của tâm thức mình.
(Xem: 9031)
Hiến tặng bộ phận cơ thể là một sự thực hành rất quan trọng của Phật Pháp.
(Xem: 8191)
Sau khi Đức Phật thành đạoBồ đề đạo tràng, Ngài đến Lộc Uyển giáo hóa năm anh em Kiều Trần Như và cả năm vị này đều đắc Thánh quả A la hán.
(Xem: 12037)
“Tháng cô hồn” chính là quan niệm dân gian. Phật giáo Bắc tông gọi tháng Bảy là mùa lễ hội Vu lan-Báo hiếu.
(Xem: 10411)
Người ta thường nói, làm ra tiền mới khó còn tiêu tiền thì chẳng khó chút nào. Sự thật thì không phải như vậy, làm ra tiền đã khó, tiêu tiền đúng pháp lại càng khó hơn.
(Xem: 8877)
Chữ nghiệp trong nhà Phật không có nghĩa là một chiều ác không, mà là lẫn lộn tốt và xấu. Kỳ thật, nghiệp cũng có lành, dữ, tốt xấu, hay nghiệp chung và nghiệp riêng.
(Xem: 10359)
Có một cuộc sống hạnh phúcước mơ của tất cả mọi người. Tuy nhiên, ý nghĩa hạnh phúc tùy thuộc vào trình độ nhận thức hay quan điểm về cuộc sống của mỗi cá nhân.
(Xem: 10943)
Ta cần phải luôn luôn quán chiếu về lẽ vô thường, bởi ta sẽ không mãi mãi vui hưởng trạng thái hiện tại để tự do thực hiện như ta mong muốn.
(Xem: 12061)
Sau khi thành đạo dưới cội Bồ đề, Phật đã giác ngộ-giải thoát hoàn toàn, biết được cách dứt trừ sinh tử khổ đau và sau đó Người đi vào đời hoằng pháp độ sinh.
(Xem: 8717)
Hằng năm cứ vào giữa hè, hoa, lá ngoài đường trỗ đầy, và trên không có nhiều đám mây bàng bạc, lòng tôi cứ nô nức rộn ràng nghĩ đến Khoá Tu Học Âu Châu.
(Xem: 9315)
Kinh đô ánh sáng, thành phố mộng mơ của Pháp quốc vào mùa hè năm nay đã là điểm hẹn của những người con Phật đa số là tỵ nạn từ bốn châu kéo về.
(Xem: 10060)
Sống ở đời tham lam ham hố Cuối cùng rồi cũng xuống lỗ mà thôi, Tranh danh đoạt lợi hại người Bạc vàng tích trữ lâu đài ngựa xe,
(Xem: 11336)
Ăn chay theo Phật giáo là một chế độ ăn uống chỉ gồm những thực phẩm có nguồn gốc từ thực vật (trái cây, rau quả, v.v...), có hoặc không ăn những sản phẩm từ sữa, trứng hoặc mật ong...
(Xem: 9870)
Nhân quả là nói tắt của tiến trình nhân-duyên-quả. Nhân là tác nhân chính, duyên là những nhân phụ, quả là kết quả.
(Xem: 9395)
“Báo oán hạnh” là gì? Đó là hạnh chấp nhận những khổ đau, những chướng duyên như là những cuộc báo oán tự nhiên của luật nhân quả.
(Xem: 10114)
Xuất gia vốn đã khó, làm tròn bổn phận của người xuất gia lại càng khó hơn. Nhiều người nghĩ rằng đã đi tu, là Tỷ kheothanh tịnh, giải thoáthoàn thiện.
(Xem: 10145)
Nếu ý thức được tầm quan trọng của cuộc sống của mình, thì cũng phải hiểu rằng cuộc sống của kẻ khác cũng quan trọng như thế.
(Xem: 9304)
Pháp tu cho Tam quả lại đơn giản đến không ngờ, chỉ cần tu tập trọn vẹn ba pháp “các căn tịch tĩnh, ăn uống biết tiết độ, chẳng bỏ kinh hành” là có thể thành tựu ngay trong hiện đời.
(Xem: 13340)
Trong khi hiến tặng, ta tiếp nhận được biết bao nhiêu tặng phẩm của đất trời. Một giọt sương đầu ngọn cỏ, một bông hoa nở bên vệ đường, một ngôi sao lấp lánh buổi sáng khi ta mở
(Xem: 10210)
Sự khác nhau trong đường lối giữa Phật giáo và Vedanta trong trường hợp này thể hiệncon đường tu đạo, và cái đích của tu đạo.
(Xem: 10516)
Khi nhóm năm ẩn sĩ[i] rời bỏ Đức Thế Tôn, Ngài thấy đấy là điều hay vì từ bây giờ Ngài có thể tiếp tục thực tập không còn cản trở nào.
(Xem: 10962)
Đức Thế Tôn bảo “bình an thật sự” không cách xa, nó đang ở bên trong chúng ta, nhưng chúng ta thường không nhận ra nó.
(Xem: 9146)
Tất cả mọi loài sống là để đi tìm hạnh phúc. Bản năng gốc của mọi loài là tìm kiếm hạnh phúc.
(Xem: 10327)
Theo lời Phật dạy, chuyển một cái xấu – ở đây là gian dối- trở thành cái tốt, tức chân thật, là chuyển nghiệp. Nhưng chuyển nghiệp như thế nào đây?
(Xem: 10270)
Trong lộ trình nương tựa nhau để tu học, mỗi người cần nhanh chóng nhận ra ai là thiện tri thức để thân gần và ai là ác tri thức để tránh xa.
(Xem: 9373)
Đã làm người và được sống, bất cứ ai cũng đều có cảm giác khoái lạc hay khổ đau. Cảm giác có thể sảng khoái hay dễ chịu hoặc không nằm trong hai điều đó.
(Xem: 11067)
Tất cả các pháp hữu vivô thường. Đây chính là lời dạy của đức Phật và được Ngài lập lại nhiều lần. Lời dạy này cũng là một trong những lời di huấn cuối cùng của Ngài.
(Xem: 15098)
Tuổi trẻ không tu, già hối hận, Thân bệnh tật, tai điếc mắt mờ, Gối mỏi lưng còng, giờ suy yếu, Cuộc đời gây tạo, bao ác nghiệp
(Xem: 11834)
Chịu đựng sự nhục nhã và lời thóa mạ là đức tính quan trọng nhất mà mỗi ngươi có thể rèn luyện, bởi vì sức chịu đựngvô cùng mạnh mẽ
(Xem: 10152)
Sống đồng nghĩa với hành trình, hành trình với hành trang và phương tiện chính mình, hành trình đến những mục đích.
(Xem: 12693)
Câu ‘Tâm bình thường là Đạo’ phát sinh từ câu chuyện ngài Triệu Châu đến hỏi đạo ngài Nam Tuyền. Ngài Triệu Châu hỏi: “Thế nào là đạo?” Ngài Nam Tuyền đáp “Tâm bình thường là đạo”
(Xem: 10913)
Khi trong đầu hiện ra tình cảm về ‘Tôi’, nhiều tế bào trong nhiều vùng khác nhau của não bộ trở nên năng động cùng một lúc và làm dao động hàng ngàn các tế bào não khác.
(Xem: 10455)
Kinh sách Phật Giáo thường so sánh Đức Phật như một vị Lương Y. Điều này hiển nhiên cho thấy việc chữa trị bệnh tật là tâm điểm của Phật giáo.
(Xem: 10792)
Có nhiều người nhận lầm học Phật, hiểu đôi điều về giáo lý Đức Phật là tu rồi, đây là một sai lầm lớn trong nhận thức, vì tu và học là hai phạm trù khác nhau.
(Xem: 10724)
Theo thuyết nhà Phật, có duyên mới tạo ra nghiệp, trả nghiệp sẽ có duyên cao hơn, cứ theo thế mà thoát ra khỏi luân hồi.
(Xem: 10586)
Mỗi ác nghiệp là tờ giấy nợ Trả hiện tại hoặc trong tương lai Vay nhiều thì nợ càng nhiều Nhân quả theo ta như hình với bóng
(Xem: 10018)
Thời gian qua nhanh, tháng ngày hối hả, đời người ngắn ngủi, thoáng chốc đã già, cái chết sẽ đến, không biết về đâu?
(Xem: 9399)
Hạnh nguyện độ sinh của Bồ tát Quán Thế Âm trong cõi Ta Bà giúp cho tất cả mọi người “quán chiếu cuộc đời” để đạt được giác ngộ, giải thoát.
(Xem: 9371)
Cuộc sống viên mãn của con người cần hội đủ hai phương diện vật chấttinh thần (tâm linh). Chúng phải song hành tồn tại nhằm hỗ tương lẫn nhau, giúp con người thăng hoa cuộc sống.
(Xem: 11383)
Với hành nguyện lắng nghe tiếng khổ, để đem niềm vui xoa dịu cho chúng hữu tình nơi thế giới hành đạo của Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni. Chúng con, trên bước đường tìm cầu sự giác ngộ, cũng xin được học đòi đức tính thù diệu ấy.
(Xem: 9719)
Lòng tham con người như giếng sâu không đáy không bao giờ biết chán, biết đủ, biết dừng. Người có quyền cao chức trọng thì lợi dụng chèn ép, bóc lột kẻ dưới.
(Xem: 13100)
Bài này để nói thêm về tương quan giữa Phật học và nghệ thuật – các bộ môn như âm nhạc, thi ca, hội hoạ, tiểu thuyết, kịch, phim …
(Xem: 12643)
Ai cũng thích được tán dương, khen ngợi, ai cũng thấy dễ chịu với những lời khen, dù bản thân không đúng hoặc đúng rất ít với lời khen đó.
(Xem: 9200)
Khi được khen ta cũng chớ vội mừng và khi bị chê ta cũng chớ vội buồn. Nếu ta vội mừng hay buồn như vậy thì tâm mình rất dễ bị dao động, khi bị dao động ta sẽ bất an.
(Xem: 9599)
Từ Thứ Năm tới Thứ Hai, ngày 6 tới 10 tháng 8 năm 2015, Khóa Tu Học Phật Pháp Bắc Mỹ Lần Thứ 5 sẽ diễn ra tại Khách Sạn Town and Country Resort Hotel, Thành Phố San Diego
(Xem: 9637)
Thiền sư xuống núi. Một túi vải đơn sơ với y áo và dăm cuốn kinh đã lật nhăn cả giấy...
(Xem: 9665)
Ý nghĩa tích cực của giải thoát là sống ràng buộc giữa các mối quan hệ nhưng ta có tự dotự tại.
(Xem: 9220)
Sân hậnthù oán là hai trong số những người bạn gần gũi nhất của chúng ta. Khi còn trẻ, tôi đã có một mối quan hệ rất gần gũi với giận dữ.
(Xem: 9033)
Bồ-tát Quán Thế Âm luôn hiện thân trong mọi trường hợp để tùy duyên giúp đỡ, cứu khổ cho người. Đã làm người trong trời đất, ai không một lần lầm lỗi, vấp ngã, khổ đau.
(Xem: 10422)
Giảng Pháp và thính Pháp là những Pháp sự không thể thiếu trong chương trình tu học của các tự viện đúng nghĩa.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant