Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chuyển Mà Bất Chuyển

18 Tháng Mười Hai 202018:04(Xem: 4167)
Chuyển Mà Bất Chuyển

CHUYỂN MÀ BẤT CHUYỂN

Chân Hiền Tâm

Con Đường Chư Phật Đã Dạy

Thời tiết xoay vần xuân lại thu
Xăm xăm tuổi trẻ đã bạc đầu
Giàu sang nhìn lại một trường mộng
Năm tháng ôm suông một hộc sầu

Xuân, hạ, thu, đông rồi xuân, hạ, thu, đông. Bốn mùa thay đổi. Xuân đến là xuân sinh. Xuân đi là xuân diệt. Đông đến là đông sinh. Đông đi là đông diệt. Sinh sinh diệt diệt xoay vần. Con người sinh ra rồi chết. Khoảng giữa ấy là bệnh và lão. Cũng có những khoảng lão bệnh không hiện hành, chỉ thấy sống và chết vội vả.

Chết thật nhiều mà sinh cũng không ít. Cứ theo nghiệp lực mà đi, từ dạng này sang dạng khác, từ con người sang súc sinh, lên thiên đường rồi xuống địa ngục. Cảnh giới theo đó mà thay đổi. Thiên đường dù đủ bốn mùa, hạ cũng mát mẻ, đông chẳng cô hàn. Địa ngục dù đủ bốn mùa, cũng loang quanh với hàn lạnh và nóng bức. Chỉ cõi người là pha trộn mọi thứ. Một chút thiên đường. Đủ để lôi người đời tham sống sợ chết. Một chút địa ngục. Đủ để người đời dừng lại và quay đầu. Rất nhiều thứ đang rục rịch để biết sự sống đang hiện diện. Sinh rồi diệt, diệt rồi sinh, như bồn mùa xuân, hạ, thu, đông, mưa rồi nắng.

Sinh và diệt, sống và chết là hai trạng thái bắt đầu và chấm dứt của một hiện tượng hay một sinh vật. Khoảng giữa ấy là trụ và dị. Sinh ra và tồn tại đó, là trụ. Một sự tồn tại luôn biến dịch, không trạng thái nào giống trạng thái nào, là dị. Người đời chỉ thấy sinh, trụ rồi diệt. Ít ai nhận được mặt biến dịch liên tục này trong đời sống con người. Song đời người là thế. Các sinh vật khác cũng như thế. Biến dịch thay đổi lên tục. Chết, nhưng không phải ngay lúc chết ấy mới chết, mà đang chết từng giờ, từng phút, từng giây, trên từng sát na. Chính cái chết trong từng sát na đó mà con người trưởng thành, lớn lên, già và … chết.  

Trong hội Lăng Nghiêm, khi được hỏi về thân thịt của mình là kim cang hay hoại diệt, vua Ba-tư-nặc trả lời: “Bạch Thế Tôn! Thân con hiện nay rồi cũng hoại diệt”. Phật hỏi: “Ông chưa từng diệt, sao biết sẽ diệt?”. Ông không trả lời nhìn thiên hạ thì biết. Có ai sinh ra mà không chết? Sống thọ như Bành Tổ rồi cũng chết. Đạo lực như Phật rồi cũng chết. Dù tôi đòi cùng kiếp hay tôn quý tột bực, có sinh là có diệt, chỉ là sớm hay muộn, trẻ hay già. Chết thì thân hoại mạng chung... Ông trả lời, thân vô thường biến hoại của con đây, tuy chưa từng diệt, nhưng con thấy hiện tiền mỗi niệm dời đổi mãi không dừng, như lửa thành tro dần dần tiêu mất. Vì dứt mãi không dừng, nên con biết thân này nhất định phải theo đó mà hoại diệt. Một cái thấy không như người đời. Biết thân này sẽ diệt vì hiện tại thân này đang dời đổi. Như lửa nương củi mà cháy. Củi thành tro, lửa cũng dừng. Nếu thân này không có sự biến dịch, ắt con nít không thành người lớn, người lớn không thể già đi, và người già cũng không thể chết. Song con người sinh ra, lớn lên, già và chết. Mọi thứ thay đổi không dừng. Phật nói: “Niệm trước diệt làm duyên cho niệm sau sinh[1]. Cái trước phải diệt, cái sau mới sinh. Niệm trước không diệt, không đủ duyên để niệm sau sinh. Qui luật phủ định của phủ định mà các nhà Duy vật biện chứng đã nói cũng có cái nhìn tương tự. “Một sự phủ định làm tiền đề tạo điều kiện cho sự phát triển, cho cái mới ra đời thay thế cái cũ. Đó là sự phủ định biện chứng”[2].

Thân tâm mình không phải là một khối bất di bất dịch. Nó là một dòng chuyển biến liên tục, nhưng mình không thấy được điều đó. Mình không thể thấy thân mình trước hai giây và sau hai giây không còn như nhau. Mình không có thời gian để chiêm nghiệm như vua Ba-tư-nặc từng chiêm nghiệm. “Tuy thấy cái già thay đổi giới hạn trong mười năm, nhưng xét kỹ con thấy không những nó thay đổi trong mười năm hay hai mươi năm mà thực nó thay đổi từng năm. Chẳng những nó thay đổi từng năm mà thay đổi từng tháng. Chẳng những nó thay đổi từng tháng mà thay đổi từng ngày. Chẳng những nó thay đổi từng ngày mà xét kỹ là thay đổi từng sát-na. Trong khoảng một niệm không dừng...”[3]. Trẻ con, trưởng thànhgià nua, tướng chúng không như nhau. Không phải chỉ ba tướng đó mà tất cả tướng ở thế gian đều đang biến đổi trên từng sát-na. Tướng của sát-na trước không phải là tướng của sát-na sau, chúng khác nhau. Đã có một sự chuyển dịch, âm thầm, vượt ngoài cái thấy thường tình của người đời.  

Tuy vậy, Trung luận nói:

Không sinh cũng không diệt
Không thường cũng không đoạn
Không một cũng không khác
Không đến cũng không đi  

Đọc thì ai cũng đọc được, nhưng hiểu thì không mấy người hiểu. Hiểu thì có thể hiểu được, nhưng không mấy ai có thể thực nghiệm để họa thành thơ như Trúc Lâm Đại Đầu Đà:

Ngày nay, khám phá mặt Đông hoàng
Thiền bản, bồ đoàn, ngắm hồng rơi

Bộ mặt Đông hoàng, tánh thực của vạn pháp. Tánh đó không sinh cũng không diệt... Xuân, thu thấy có đến đi mà thật là không đến đi, thấy có sinh diệtthật khôngsinh diệt. Thân này thấy có sống chết mà thật là không sống chết, thấy có chuyển biếnthật khôngchuyển biến. Nói “mà thật…” là muốn nói tướng thấy có đó mà bản chất thì không, như ngủ rồi mộng, mọi thứ thấy diễn biến như thật nhưng chỉ là mộng, ngay trong mộng chúng đã không, không đợi tỉnh mộng mới thành không. Tướng thấy chuyển mà không lìa tánh bất chuyển. Tướng thấy sinh mà không lìa tánh bất sinh. Tướng thấy diệt mà không lìa tánh bất diệt. Nên sinh mà không sinh, diệt mà không diệt, đi mà không đi, đến mà không đến. Tướng thì thấy có mà tánh thì không. Nói không, chẳng phải cái không đối với có mà là cái không vượt ngoài có và không, chỉ tùy duyên hiện có hay không. Tuệ Trung Thượng Sĩ nói kệ:

Đoán rằng không hữu chẳng khác nhau
Sinh tử vốn từ mạch sóng cao
Trăng sáng tối qua, nay trăng sáng
Hoa cười năm mới, năm cũ hoa

Không và có, tướng thấy khác nhau mà tánh thật không khác. Sinh tử hiện tiền do bởi vọng tưởng trào dâng, chẳng có gốc thật. Sóng mòi dù lăn tăn hay ồn náo vẫn không ngoài biển cả mênh mông. Một niệm bất giác tâm động, theo đó lưu chuyển mà có chúng sinhthế giới. Vọng dừng thì sinh tử dứt. Chẳng theo vọng tưởng thì trăng sáng tự hiện. Qua hay nay, trăng vẫn không khác. Nở hay tàn vẫn chỉ là hoa. Nơi những lưu chuyển không dừng, vẫn hiện diện ở đó một dòng bất chuyển.    

Đại sư Hám Sơn, khi còn trẻ, đọc được bài kệ trong Triệu luận, khởi nghi tình đối với nghĩa “bất chuyển” trong nhiều năm. Đến khi khắc lại luận đó, đọc lại bài kệ, hoát nhiên đại ngộ. Đứng lên lễ Phật thì thấy thân mình không có tướng lễ xuống hay đứng lên. Nhìn trời, thấy gió thổi lá rơi mà lá không có tướng nào động. Tiêu tiểu nhưng không thấy nước có tướng lưu chuyển, mới nhủ với mình rằng: “Nếu chỉ dùng cái tri thức đây để hiểu, mà không phải là chân tham ngộ, thì không thể không khỏi nghi”. Đúng là không có sự trải nghiệm thì không thể hiểu những gì xảy ra không theo lối thường tình. Rồi như nhắn nhủ với mọi người: “Động tịnh đến cùng cực không dễ gì nói cho người khác tin. Những lời nói ấy, chỉ cốt người lìa ngôn nhận ý, không chấp theo ngôn từ mà đánh mất ý chỉ[4]. Những lời nói ấy, chỉ cho bài kệTăng Triệu nói về nghĩa bất chuyển.

Gió bão bay núi mà thường tịnh
Nước sông đổ gấp mà chẳng trôi
Bụi trần lăng xăng mà chẳng động
Trăng qua bầu trời mà chẳng đi

Mấy ai trong cõi nhân gian thấy được gió bão bụi trần lăng xăng mà không động? Chỉ thấy xuân, hạ, thu, đông rồi xuân, hạ, thu, đông. Xuân đến rộn ràng, bướm lượn chim ca. Đông sang u ám, gió lạnh cô lòng. Tình cảm theo đó như nước thủy triều, lênh lênh láng láng. Bầu rượu túi thơ nương đó ngút ngàn, vui buồn theo cảnh vật đổi dời. Tĩnh lặng bên trong nhường chân cho niệm tưởng lăng xăng. Cảnh động bên ngoài, thêm đầy vơi được mất. Không có chỗ để tĩnh mặc. Không còn chỗ cho tâm yên. Bởi đó, không thể nào nhận được ngay cái động, động mà vẫn tịnh. Trong cái tịnh, tịnh không lìa động. Tịnh động làm duyên cho nhau cùng sinh khởi. Thực nghiệm được mặt duyên khởi này của pháp thì sống được với bộ mặt Đông Hoàng. Tịnh duyên động còn chưa có phần, bộ mặt Đông Hoàng làm sao nhận được?

Nghiệp thức của phàm phu, chỉ thấy được mặt lưu chuyển của vạn pháp. Xuân đến, xuân đi, thu tàn, đông đến. Mọi thứ luôn rộn ràng nhộn nhịp. Thánh Nhị thừa, nhận được mặt không tịch của vạn pháp, an trú trong Niết-bàn tịnh lạc, không còn thấy đổi dời, không còn thấy thu đông, chỉ một trời an lạc bình yên. Phàm phu đuổi theo cái sinh. Nhị thừa trú trong cái diệt. Chỉ bậc “không thánh không phàm” mới nhận được mặt động tịnh không hai, sinh tử tức Niết-bàn, gió bão bay núi mà thường tịnh, trăng qua bầu trời mà chẳng đi. Đi đi đến đến mà chưa từng đi đến. Sinh sinh tử tử mà chưa từng tử sinh. Bởi vậy, vào trong sinh tử mà không nhuốm màu sinh tử, được mất dẫy đầy mà không vướng mắc buồn vui. Chỉ biết nhắn lại với hậu sinhGiàu sang nhìn lại một trường mộng/ Năm tháng ôm suông một hộc sầu”. Bận tâm chộn rộn cả đời, ra đi cũng hai bàn tay trắng. Lẫn mộng thành thực, đuổi theo hư vọng, vui, buồn, sầu, bi, khổ, não theo đó mà sinh. Sinh rồi huân, tích tụ mà thành chướng. Phàm phu, phiền não sở tri hộc nào cũng đủ. Thánh nhân chưa hết phân biệt, chưa thể thoát hộc sở tri. Sinh tử nương đó mà triền miên. Phàm phu, bị cái khổ của Phần đoạn tử. Thánh nhân, Biến dịch tử chẳng thể không.   

Thánh Nhị thừa chứng nghiệm cõi này vô thường tạm bợ. Không đợi thánh Nhị thừa mới chứng nghiệm được điều đó. Những kẻ lang thang phố chợ bây giờ cũng thấu được như ai. Không có gì còn hoài. Không có gì đứng yên. Sinh ra, lớn lên rồi chết. Chỉ là sớm hay muộn, lâu hay mau. Cuộc đời quả vô thường! Ừ, không thường chút nào! Không thường nhưng không đoạn. Chỉ là sự thay hình đổi dạng. Chết, để có một đời sống khác. Bởi vòng nghiệp lực vẫn còn. Thành đừng nghĩ chết là hết mà buông trôi rồi … hối tiếc. Chết, chưa hết. Mọi thứ đang tiếp diễn. Vòng nghiệp lực vẫn đang xoay. Bởi thế, đông dù u ám bao nhiêu cũng đừng chơi dại mà tự tử. Khổ đau một trời không thể thoát. Tránh vỏ dưa lại gặp vỏ dừa, muôn kiếp lầm than. Bởi không thường mà không đoạn. Ngay cái không thường không đoạn ấy, bộ mặt Đông Hoàng vẫn đầy đủ. Sao chẳng lìa đoạn lìa thường mà nhận lấy?  

Ba-tư-nặc sau khi giải trình xong thân con không chỉ biến đổi từng năm, từng tháng, từng ngày mà biến đổi trên từng sát-na, liền được hỏi: “Ông thấy sự thay đổi không dừng nên nhận ra sự hoại diệt nơi thân ông. Nhưng ông có biết trong tấm thân hoại diệt ấy, có cái gì không hoại diệt?”. Nhà vua trả lời không biết. Không biết do vô minh, chẳng phải nhờ hết sở tri phân biệt. Phật nói: “Nay tôi chỉ cho ông tánh chẳng sinh chẳng diệt”. Phản phất đâu dó hơi hướm của Trung luận, Bát-nhã, Lăng-già...

- Đại vương! Như ông nói, khi hai mươi tuổi đã già hơn mười tuổi. Đến sáu mươi tuổi, năm tháng ngày giờ niệm niệm đổi dời. Vậy khi ông ba tuổi thấy sông Hằng, so với khi sáu mươi thấy sông Hằng, cái thấy ấy thế nào?

- Bạch Thế Tôn, ba tuổi hay sáu mươi đều không khác.

- Nay ông cảm thương tóc bạc da nhăn, mặt ông nhất định nhăn hơn trước, nhưng cái thấy sông Hằng lúc lên ba và khi sáu mươi, có già có trẻ?

- Bạch Thế Tôn, không vậy.

- Đại vương! Mặt ông tuy nhăn mà tánh thấy chưa từng nhăn (Phật nói tánh thấy, chẳng nói cái thấy). Bị nhăn thì biến đổi mà không bị nhăn thì chẳng biến đổi. Biến đổi thì phải chịu sự hoại diệt. Chẳng biến đổi vốn không sinh diệt. Vì sao trong ấy lại chịu cái sinh tử của ông, mà ông dẫn lời của nhóm Mạt-già-lê bảo rằng thân này sau khi chết hoàn toàn mất hẳn? 

Thân này không thường nhưng không đoạn, không có gì mất hẳn. Sinh, diệt, đến, đi, một, khác… đều không lìa bộ mặt Đông hoàng không sinh, không diệt, không đến, không đi, không một, không khác… Nghĩa là, “Trong thân sinh diệttánh không sinh diệt. Hiện tiền sinh diệt như kia, chẳng sinh chẳng diệt như đây. Chân tại vọng, thật tại hư, phân biệt tùy duyên, biết bóng ngựa đâu phải vật khác. Vô thượng bí mật chỉ tại trước mắt, do bất giác đổi dời mà trôi nổi trong nhiều kiếp. Xét về con mắt, nhất định có cái thấy, lỗ tai nhất định có cái nghe, một người phản quan, ngàn thánh đồng một con đường, liền đó tự tin thì mười đời chẳng đổi. Đâu cần đợi bỏ thân này sinh đời sau mới biết chẳng sinh chẳng diệt? Một phen nhận nghĩa dời đổi, niệm niệm chẳng dừng, há chẳng phải là tâm sinh diệt? Tâm mê, lầm thân tâmthế giới thì theo đó nổi trôi chẳng an trụ. Chính khi ấy gặp mặt theo nhau, nếu tự chẳng phải túc trí, chưa dễ gì rõ biết. Nên Thế Tôn vẫn hỏi, ngày nay xem sông Hằngxưa kia, có già có trẻ? Chân tánh đã bày, chẳng rơi vào suy nghĩ, tùy thấy, tùy biết, xưa nay đâu khác. Là Thế Tônchúng sinh trong mê mà lựa ra cái không mê. Một chỗ tự giác thì toàn thể đều rõ. Cho nên nói, hiện lượng của năm căn, cùng với thức thứ tám đồng công, thường tại trước mắt mà chẳng tự biết, một phen gặp được liễu duyên, liền đồng bổn đắc[5]. Hội chăng?

Ánh thu đen trắng tùy duyên hiện
Sen nở hương nồng chẳng dính nhơ
Khúc nhạc xưa nay nên gẩy hát
Chớ tìm nam bắc với đông tây [6]            


[1] Luận Trung Quán.

[2] Triết học Mác Lê-nin

[3] Kinh Thủ Lăng Nghiêm.

[4] Thiền Đạo Tu Tập - Hám Sơn Ngữ Lục - Trương Trừng Cơ.

[5] Lời bàn của thiền sư Hàm Thị trong Thủ Lăng Nghiêm Trực Chỉ - Bản dịch của TT Thích Phước Hảo. 

[6] Kệ thị chúng (Tuệ Trung Thượng Sĩ) – Thiền Sư Việt Nam – HT Thích Thanh Từ.  

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 22130)
Thử nghĩ xem, chúng ta được gì, mất gì khi cứ luôn chạy theo những thứ mãi mãi không thuộc về mình, luôn chờ đợi những gì không dành cho mình?
(Xem: 15962)
Tuyết rơi từ vào khuya, mặt trời vừa mọc, tuyết đã ngập trắng vườn sau. Tôi đẩy thêm một khúc củi vào lò. Nhìn lửa bốc ngọn, nhớ lại mấy vần thơ cũ...
(Xem: 18949)
Mộng thân của nó là một đứa bé gái bảy tuổi. Nó nằm trên một cái bè chuối khô chảy ngược dòng trên dòng sông nhỏ. Khung cảnh thật êm đềm với hai hàng cây rủ lá ven sông.
(Xem: 17206)
Không biết Linh đã chạy qua bao nhiêu quãng đường, bao nhiêu dãy phố… khi tiếng rao đêm vẫn còn văng vẳng, cho đến lúc mọi hoạt động đều ngưng bặt...
(Xem: 18309)
Đã mấy canh giờ đi qua, vị sư già xả thiền với tiếng tằng hắng khẽ, Ngài không hề ngạc nhiên về sự hiện diện của người khách lạ trong am cốc.
(Xem: 17781)
Bình thức giấc, ngạc nhiên thấy mình nằm ngủ trong nhà thằng Phi. Chưa kịp nghĩ gì thì mùi thức ăn xộc thẳng vào mũi làm nó nghe dạ dày nhói lên quặn thắt.
(Xem: 17803)
Vậy là sau bốn năm lăn lộn ở chốn phố thị phồn hoa này, cuối cùng thì Hải cũng đã trở về quê, một chuyến về ngoài dự kiến.
(Xem: 17651)
Cầu xin quả tốt lành mà không chịu gieo nhân tốt lành, sợ hãi quả xấu, sợ hãi tai họa xảy đến, mà không dừng tay tạo nhân xấu, sự cầu xin ấy chỉ là việc hoang tưởng.
(Xem: 17623)
Niềm hạnh phúc lớn nhất trong đời tôi chính là giây phút đầu tiên tôi đặt chân vào tòa nhà chánh Pháp. Một luồng rung cảm lâng lâng niềm hỷ lạc...
(Xem: 16858)
Trên đường trở về nhà, con gái cứ luôn ngọng ngọng nghịu nghịu hỏi tôi: “Bố ơi, mấy con cá bị người ta bắt đi thật là tội nghiệp!”...
(Xem: 16169)
Tôi thấy một sự thinh lặng trong một khu vườn thiền, zen garden, ngay gọn không tì vết. Tôi thấy sự thinh lặng nơi một kệ sách với những quyển sách thẳng hàng...
(Xem: 18489)
Từ lâu, tình thương là chất liệu ngọt ngào không thể thiếu trong cuộc sống của con người. Chất liệu đó đã là nhịp cầu nối tâm linh...
(Xem: 15562)
Trời bắt đầu vào thu với những ngày mưa thường xuyên hơn. Không gian se lạnh về theo những ngày nhiều mây và len sang cả những ngày có nắng.
(Xem: 16531)
Ái dụcyếu tố quan trọng đưa đến luân hồi sanh tử trong cõi Dục này. Chúng sanh đã đầu thai vào cõi Dục nghĩa là nghiệp ái dục rất nặng.
(Xem: 16965)
Tôi đã từng lên chùa Ông Núi. Nghe chuyện người tu hành ngày xưa thấy rõ là bậc chân tu. Và thêm một lần nữa, tôi yêu mến những ngôi chùa trên núi.
(Xem: 16431)
Ngay từ khi Thế Tôn còn hiện hữu giữa cuộc đời, những vị Tỳ-kheo đã từng được diện kiến đức Thế Tôn trong những buổi pháp thoại tại tịnh xá Kỳ Hoàn, hay tịnh xá Trúc Lâm.
(Xem: 17901)
Với nhãn căn, chỉ mở mắt ra là lập tức thấy cảnh vật quanh ta, có hoa là thấy hoa, có bướm là thấy bướm, không cần vận dụng một suy nghĩ quanh co nào.
(Xem: 15344)
Cà phê chậm rãi nhỏ giọt, cái màu đen đặc sánh gợi một nỗi đau nhưng nhức. Bản Serenat của F.Schubert từ góc quán cất lên, bản nhạc mà thời còn đi học anh rất thích.
(Xem: 16773)
Con sông Ni Liên Thiền, tên gọi đó đã gắn liền với sự chứng đắc của một bực Thánh nhân xuất thế - Thái tử Tất-đạt-đa, Người đã đến bên dòng sông này sau sáu năm tu khổ hạnh.
(Xem: 21248)
Hãy niệm câu “thần chú” ấy mỗi ngày đi, rồi bạn sẽ thấy “đời rất đẹp”. Đời không phải là rác rưởi, đáng chán, là muộn phiền, âu lo đầy dẫy như bạn từng mặc định.
(Xem: 29875)
Vở Cải Lương Phật giáo đấu tiên được ra đời từ những tâm nguyện ấy ,đó là vở “THÁI TỬ A-XÀ-THẾ”. Soạn giả Dương Kinh Thành
(Xem: 22186)
Người xưa đã cỡi hạc vàng bay xa, Nơi này chỉ còn trơ lầu Hoàng Hạc, Hoàng hạc bay xa không trở lại...
(Xem: 17098)
Tôi say sưa ngắm nhìn cảnh tượng sáng ngời trước mắt tôi, những cành cây trơ trụi của mùa đông bây giờ đã khóac lên mình những hoa lá trắng mềm mại.
(Xem: 17027)
Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận, Đình tiền tạc dạ nhất chi mai. - Dương Kinh Thành
(Xem: 16483)
Một buổi sáng rằm, đầu mùa đông ngoài trời se lạnh, nhưng trong căn phòng khách cửa mở ra hướng Nam không bị gió thổi xốc vào nên cũng khá ấm áp.
(Xem: 15103)
Mất cũng phải hết một ngày đêm suy nghĩ đến nhức đầu mệt óc, cắn trụi móng của ngón tay cái, thằng Thạch mới tìm ra được cách giải cho bài toán hóc búa...
(Xem: 16476)
Không giống cô giáo cũ, khi còn nằm trên giường biết mình đã thức dậy – Tôi luôn có niềm vui đầu tiên là “nhận biết mình còn sống! Tôi còn có mặt trên cõi đời này.
(Xem: 15556)
chúng ta có một cuộc sống may mắn hay rủi ro thì điều ấy đã được quyết định bởi tâm thứchành nghiệp của chính chúng ta. Điều này được biết đến như là định luật nhân quả.
(Xem: 17062)
Chủ quanlạc quan đều là hai thái độ dẫn đến việc người ta sống vô tư, nhưng xét về bản chất thì một bên là không lường trước mọi việc còn một bên thì biết rõ mọi việc và chấp nhận…
(Xem: 16068)
Không gì tuyệt đẹp hơn hình ảnh của mùa xuân, khi hoa đào hoa mai hé nở, khi những mầm xanh đang e ấp chờ đợi trăng nước tháng ngày...
(Xem: 18308)
Con thật may mắn đã đến được với Đạo Pháp bằng tâm chí thành. Tinh hoa của Đạo Pháp được gói trọn trong hai Bồ- Đề Tâm.
(Xem: 16193)
Nhận ra, và xóa sạch được bụi vô minh thì chúng sanh “sẽ thành Phật” đó, lập tức là “Phật đã thành”... Huệ Trân
(Xem: 15302)
Ngày tôi nhận ra con đường đích thực của cuộc đời mình, em đã khóc rất nhiều. Em muốn tôi vẫn là tôi của những ngày mới quen nhau.
(Xem: 14475)
Bản chất của mùa xuânchuyển hóa. Nó có khả năng chuyển hóa đối với những gì đang có mặt nơi nó để nó trở thành mùa xuân cho chính nó...
(Xem: 15474)
Em hãy trở về nhìn sâu vào tâm em bằng đôi mắt thiền quán, với ý chí quyết liệt, với hướng đi cao khiết, với tấm lòng thanh bạchmở rộng...
(Xem: 17888)
Thử tắt điện thoại một ngày… Một cuộc “biến mất” không dự báo trước, đối với nhiều người. Đó là một cách biểu hiện của vô thường, dành tặng cho những người thân-thương.
(Xem: 18036)
Mỗi lần đi qua những cánh đồng đang mùa gặt, tôi lại nhớ về những ngày thơ ấu êm đềm ở làng quê. Cái hương quê ngai ngái mùi lúa mới ấy như cứ mãi vấn vít lòng tôi...
(Xem: 15349)
Nhân dịp đầu năm, đi chùa lễ Phật, nhìn thấy muôn hoa đua nở, vẻ đẹp tao nhã của thiên nhiên như lời chúc phúc tốt lành đến với tất cả mọi người.
(Xem: 14878)
Nói đến Tết, chúng ta thường nghĩ tới một dịp vui đầu năm mới - Tết Nguyên đán (còn gọi là Tết cả).
(Xem: 15551)
Quãng đời ấy, là quãng đời của tôi có thật, nhưng xin quý vị đọc mà đừng tin, vì sự kiện ấy là của một thời gian đã đi qua, nó đã trở thành nắng mưa, sương gió,...
(Xem: 13540)
Cuối năm, trời trở nên rét hơn. Những cơn gió từ sông thổi vào mang theo hơi nước lạnh buốt. Con sông mùa này trông mênh mông, quạnh quẽ.
(Xem: 13381)
Gió thổi làm những chiếc lá lay động, làm nhánh cây, cành cây bâng khuâng, làm rừng xanh, đìu hiu xao xuyến. Con chim đang ngủ trong tổ giật mình thức giấc...
(Xem: 15675)
Em mới mười một tuổi, mẹ bỏ em lại bên chân núi. Ruộng dưa mênh mông, em ngơ ngác như con bù nhìn rơm giữa nắng và gió.
(Xem: 16881)
Về quê vào những ngày cuối năm mới thấy sao yêu đến vậy cái đồng đất quê mình, thương biết mấy những chị, những mẹ một nắng hai sương trên ruộng đồng.
(Xem: 12097)
Sau giờ thiền toạ sáng nay, lắng nghe lại lòng, hình như có dòng sông nào đó tuôn chảy qua đời, bắt được tiếng hơi thở thánh thót của vũ trụ...
(Xem: 13540)
Phật của ngoại nhỏ xíu, chỉ cao hơn gang tay tôi một chút - dĩ nhiên, đó là gang tay của một cậu bé mười tuổi. Phật cũng không đẹp chi lắm...
(Xem: 18139)
Tự do chính là quyền cơ bản của một con người. Do vậy ai tước đi tự do của người khác đều là hành vi vi phạm nhân quyền.
(Xem: 16425)
Khái niệm về thảnh thơi có lẽ nó đơn giản hơn nhiều khi ta đừng gắng thêm cho nó, cái “mốt”, cái danh, cái lợi và cái lòng kiêu hãnh hơn người… Có ai cấm ta những thứ đó đâu...
(Xem: 14390)
Nói về mùa xuân, ai cũng hình dung đến những điều tốt đẹp đang chờ đón mình trong năm mới. Nhưng rồi mùa xuân cũng đi qua, xuân năm nay trở thành xuân năm trước.
(Xem: 12881)
Hạnh phúc vĩnh hằng là sự tự do bình yên nội tại, sự tĩnh lặng nơi tâm thức, không bị khuấy động bởi những tranh đua, nhiễu nhương của cuộc đời.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant