Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chân Lý

19 Tháng Mười Hai 202018:20(Xem: 3994)
Chân Lý
CHÂN LÝ 

Phan Bá Cầm

Hiệu quả của Thiền Tỉnh Thức áp dụng trong học đường Hoa Kỳ


Không có tôn giáo nào không có chân lý.
Đó là câu mà nhiều người đề cập tới, khi nói đến chân lý.
Nhưng chân lý là gì?
Thế nào mới gọi là chân lý?
Căn cứ theo định luật thông thường thì chân lý có nghĩa là sự thật của nó. Tuy nói xét nghiệm được nhưng chưa hẳn là không còn lẫn lộn, nếu ta chỉ ngộ một phương diện hay mang phải cặp mắt thành kiến vọng hoặc.

Vật hữu hình có thể quan sát mà ta còn thấy khó khăn trực kiến cái thật tướng của nó thì nói chi đến vật vô hình hay những lý siêu hình ngoài tầm tai nghe mắt thấy của mọi người, mới khó khăn làm sao nữa.
Như vậy đủ thấy muốn nhận thức chân lý không phải là việc dễ. Bởi không thể kiểm soát một cách cụ thể được nên ai cũng có thể cho những nhận thức củ mình là dúng với chân lý cả. Như trong Bách dụ kinh có một người trong phái ngoại đạo đến hỏi đức Phật rằng: “Bạch Thế Tôn! Các thầy Bà-la-môn đến thăm chúng tôi, người nào cũng bảo rằng chỉ có lời nói của họ mới đúng chân lý mà thôi. Bạch Ngài, chúng tôi lấy làm phân vân, không biết phải tin bên nào.”

Nếu không có cách trực nhận chân lý hay những tiêu chuẩn để nhận ra chân lý thì ai cũng có thể như mấy thầy Bà-la-môn kia bảo rằng lời nói của mình là chân lý được cả.
Nhưng làm thế nào để phân biệt được mắt cá và hạt châu?

Trước hết ta nên biết rằng, nhất là ở địa hạt siêu hình, chân lý tuyệt đối ở ngoài ngôn ngữdanh tự, ở trên các giới hạnKinh Di Đà cớ sao có nói: “Lý viên ngôn thông, ngôn sinh lý tán.” Chân lý viên dung thật tướng, khi dùng lời nói mà cho là chân lý thì chắc thiên lẹch và làm mất chân lý đi. Vì rằng chân lý tuyệt đối thuộc về pháp vô vi, bản thể vốn trạm nhiên thường trụ, chỉ có thể trực nhận chứ không thể giải bày. Cho được trực nhận những chân lý phải là bậc giác ngộ, khai mở cái trí Bát nhã như bực Thánh, mới có cái chân kiến, nhìn thấy thật tướng của vạn hữu.
Đến như kẻ phàm phu, vì bị các chướng phiền não và chướng sở tri ràng buộc, màn vô minh che ngăn cho nên những điều của mắt thấy chỉ là những vọng kiến điên đảo mà thôi, cũng hư kẻ nhắm mắt nhìn đèn với một cái bóng đỏ. Thật ra, ngọn đèn không có quang đó, chỉ vì con mắt nhắm nên mới thấy như vậy. Cái vọng kiến điên đảo cũng khiến chúng sinh nhận lầm sự vật như kẻ nhắm mắt nhìn đèn. Chỉ khi nào diệt hết chướng phiền não và chướng sở tri, đạt được cái trí Bát Nhã, chính biến trí mới được cái thấy chân thật hay chân kiến?

Thế thì, chúng sinh làm như thế nào thấy chân lý khi chưa có được chân kiến?
Để giúp chúng sinh đạt đén chân lý, đức Phật phải cậy vào những quyền pháp tức những phương tiện tạm dìu dắt chúng sinh từ chỗ giả đến chỗ chân. Chẳng hạn, như muốn cho chúng sinh thấy mặt trăng, đức Phật phải dùng ngón tay mà chỉ để cho chúng sinh nương theo đó mà thấy. Ngón tay chỉ là phương tiện để thấy mặt trăng chứ không phải mặt trăng; thế nên đừng lầm nhận ngón tay là mặt trăng.
Kinh điển của Phật chính là những phương tiện để chỉ bảo chân lý cũng như ngón tay dùng để chỉ mặt trăng vậy. Nếu y theo kinh điển tìm chân lý thì cũng đồng một nghĩa tìm mặt trăng ở ngón tay, như vậy là không bao giờ thấy chân lý. Nhưng nếu không nương vào kinh điển thì do đâu mà tìm thấy chân lý?

Trong kinh có nói: “Thật tướng bản ly văn tự, dần bất tú văn tự, bất năng thuyên thật tướng”. Thật tướng vốn ngoài văn tự, nhưng mượn văn tự để giải bày biết được thật tướng.

Hơn nữa, đạo Lão cũng có nói: “Đạo nan thuyết, tu đương tự ngộ, pháp khả truyền, đạo bất khả truyền dã” Đạo, tức là cái chân lý tuyệt đối khó nói ra được, cốt phải tự tỏ lấy tự tính của mình, chỉ có Pháp mới có thể truyền, chớ đạo không thể truyền được.
Chữ “Pháp” của đạo Lão dùng đây có nghĩa là những phương tiện tùy duyên để giải bày chân lý, tức là những ngôn ngữ, văn tự,kinh điển vậy.
Đã là phương tiện tùy duyên thì có thể giải bày cái ảnh hưởng của chân lý, chứ không phải là chân lý. Mặc dù không phải chân lý, nhờ có phương tiện tùy duyên ấy, những “ngón tay chỉ mặt trăng” ấy làm hướng đạo mà kẻ học đạo mới đạt đến chân lý, không lạc vào các tà thuyết.
Như thế trong lúc chưa có Bát nhã trí mà muốn đạt đến chân lý thì không có cách nào khác hơn là nương vào pháp Phật.
Nhưng từ hai ngàn trăm năm trở lại đây, trải qua bao nhiêu biến thiên, các giáo điển vị tất đã chẳng “tam sao thất bản” và hõn tạp một phần nào với kinh sách ngụy tạo hay thất truyền, chẳng nguy hại lám ru? Huống chi đức Phật đã căn dặn : “Đừng vội tin tưởng điều gì dù điều đó có bút tích của Thánh nhân xưa để lại. Đừng tin tưởng điều gì dù điều đó là luật lệ đặt dưới thế lực của ông thầy hay nhà truyền giáo.”

Vậy thì, ta dựa vào đâu để phân biệt chân ngụy?
Đức Phật sau khi căn dặn: “Tất cả những gì hợp với lý trí xét định, hãy tin.”
Đành rằng: Đứng trước mọi sự vật, cần “phải  suy xét cho minh lý”, nhưng xét định sáng suốt, chẳng phải là việc dễ, vì rằng phải có chánh kiếntrí diệu minh lột hết những phiền não chướng và chướng sở tri. Ví bằng dùng cái trí phàm phu, đầy điên đảo vọng hoặc hoặc hay cái thế trí biện thông mà xét nghiệm chân lý thì không khỏi sa vào lối suy diễnbiện chứng pháp thế gian, chẳng hững không giúp cho sự tìm cầu chân lýtrái lại còn gây thêm vô minh loạn tưởng.

Thế thì làm thế nào để xét nghiệm chân lý mà không đến nỗi lạc vào lối suy luận điên đảo ? Cần phải tìm ra những tiêu chuẩn để nương lấy đó đi vào chân lý cho khỏi sai lầm, cũng như kẻ đi đêm nương vào định tinh để khỏi lạc hướng.
Đã đành khi còn dùng tiêu chuẩn là còn ở trong vòng so sánh, nhưng nếu không dùng nó thì không sao phân biệt chân ngụy được.
Vậy lấy những yếu tố nào để thành lập tiêu chuẩn cho sự tìm cầu chân lý mà không sợ lầm lạc?

Căn cứ theo giáo điển, ta thấy chân lý có những căn bản sau đây

1. LUẬT NHÂN QUẢ — Nguyên lý căn bản của giáo pháp nhà Phật là luật nhân quả báo ứng. Đó là đặc điểm của đạo Phật,siêu thắng hơn các giáo phái khác.
Đức Phật chủ trương rằng: Hễ có gây ra nghiệp nhân thì sẽ có nghiệp trả lại. Không bao giờ có cái quả mà không có cái nhân hay có cái nhân mà không có cái quả. Cái luật báo ứng ấy, dù ở thời nào cũng không hề sai chạy. Nó diễn ra có ba hình thức: hoặc gây nhân trong đời này, thọ quả trong đời này, qua nhiều đời sau mới thọ quả. Quá khứ là nhân của hiện tạihiện tại là nhân của vị lai; nhân quả nối chuyền nhau không gián đoạn. Muôn loài vạn vật không ở ngoài cái lý ấy. Người gây nhân lành chắc chắn sẽ hưởng quả lành, kẻ gây nhân ác không khỏi chịu quả ác; sự báo ứng như bóng theo hình; đó là chân lý đã được chứng minh từ trước đến nay chẳng biết bao nhiêu đời sắp tới.
Thế nên, một hiện tượng hay một ý tưởng mà ta xét ra không đúng với luật nhân quả hay trái ngược lại, thì không thể nhận là đồng loại với chân lý được.

2. LUẬT BÌNH ĐẲNG — Cứ lấy luật nhân quả mà xét, ta thấy rằng sự báo ứng chẳng những không sai chạy mà còn cân xứng giữa nhân và quả. Như trồng lúa ít khi gặt phải ít; như trồng lúa nhiều khi gặt phải nhiều; chứ không bao giờ trồng ít gặt nhiều hay trồng nhiều gặt ít. Cũng như người gây nghiệp nặng thì chịu lấy quả nặng, bằng gây nghiệp nhẹ chịu lấy quả nhẹ. Đó là luật công bình, chẳng có một quyền lực nào có thể can thiệp vào làm cho chêch lệch, dù quyền lực đó là một thần linh, một vị chúa tể chưởng quản vạn vật.

Bên Nho còn nhận rằng: “Chẳng vì cúng tế mà giáng phước, chẳng vì thất lễ mà giáng họa” thì đủ thấy cái luật công bình của “Trời đất chẳng riêng ai”. Như mặt trời mặt trăng chẳng riêng chỗ nào mà không soi sáng. Đó là thể tính bình đẳng của vạn hữu.
Đức Phật nói rằng: Chúng sinh đều đồng nhất thể tính bình đẳng, bởi chúng sinh đều có Phật tính như nhau. Nhưng sở dĩ có chỗ sai biệt là vì trình độ giác ngộ không đồng đều. Nếu dứt hết phiền não sinh tử thì cả thảy đều bình đẳng trong bản thể chân như, cũng như nước biển, sông, khe, rạch mặt dù có tên khác nhau nhưng vẫn đồng một bản thể là nước.

Bản thể chân như vốn bình đẳng, không cao, không hạ, không lớn, không nhỏ. Đó là lý tính của vạn vật.
Để trả lời câu hỏi: Làm thế nào nhận ra chân lý, đức Phật có nói: “Tất cả những sự thật, theo suy nghiệm của riêng ngươi và sau khi xác nhận rõ ràng, phù hợp với lẽ phải, tạo thành hạnh phúc cho riêng ngươi và cho tất cả mọi người thì đó là chân lý và người sống theo chân lý ấy.”
Gồm cả tính chất tự lợi lợi tha, đó là tính bình đẳng của mọi chân lý.
Cho nên một hiện tượng hay một ý niệm mà ta xét ra thiếu lý tính bình đẳng hay trái ngược lại thì đó là không phải chân lý vậy.

3. LUẬT HẰNG CHUYỂN — Mọi vật đều vô thường, vô ngã, biến chuyển sinh diệt. Đức Phật chủ trương như vậy. Không có hiện nào trường tồn, bất hoại cả, dù đó là một cảm giác. Hễ có khởi thì có diệt, có sinh thì có tử.
Bên Nho có nói: Hữu hình tất hoại, hễ có hình thức thì tất có ngày hư rã, cũng đồng nhận cái lý vô thường của vạn vật.

Tất cả hiên tượng đều ở trong lẽ dịch hóa biến dị ấy không giờ phút nào ngừng nghỉ. Trong trạng thức của cá thể cúng nư tong mọi vật, có sự biến độngthôi thúc từ trạng thái sinh thành tiến đến trạng thái hư hoại. Xem như một dòng nước, chỉ trong một cái sát na không còn dòng nước vừa mới thấy. Giữa hiện tại với quá khứ hay giữa hiện tại với vị lai không có ngăn cách. Cái vừa mới thoạt qua đã thành quá khứ mất rồi.
Cái luật hằng chuyển của vạn vật là như thế.

Chỉ có cá thật tướng tức là bản thể của chân như không thường không đoạn, trạm nhiêu vắng lặng mới ở ngoài luật sinh diệt, vì nó không có sinh thành nên không bị tiêu diệt.
Cho nên, khi ta nhận thấy lý lẽ nào chủ trương sự trường tồn bất biến của sự vật thì ta có thể liệt nó vào loại tư tưởng trái ngược với chân lý.
Trên đây là những tiêu chuẩn căn bản để giúp ta xét nghiệm mỗi khi đề cập đến chân lý, tuy chưa viên mãn nhưng không đến nỗi sai lầm.
Nếu tưởng rằng chân lý có thể hiểu bằng phương pháp nghiên cứu là một điều hết sức lầm lạc. Nghiên cứu chỉ có thể tiếp cận chứ không thể trực được nhận chân lý.

Muốn trực nhận phải tự mình phá vỡ màn vô minh diệt trừ mọi chướng phiền não và chướng sở tri, bấy lâu che mờ chân kiến. Chỉ có tự mình chứng nghiệm lấy mới nhận thấy bản thân của chân lý; vì bằng con đường phương tiện để thấy chân lý thì không khac nào người nghe kẻ uống trà nói nóng mà tự mình không cam giác được cái nóng ấy ra sao cả.
Tự mình thực hành lấy đẻ tự mình chứng nghiệm lấy.
“Lãnh noãn tự tri” (Nóng lạnh tự biết)
Chính đó là phương châmcứu cánh của sự học Phật và tu Phật vậy.
 
PHAN BÁ CẦM
Bản gốc: Ban Phiên Dịch Pháp Tạng Phật Giáo Việt Nam | Tạp chí Vạn Hạnh 8-9


.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 21444)
Con trai tôi đang cẩn thận lau chùi mặt bếp lò, giọt nước mắt của nó hoà lẫn với nước lau cửa sổ rơi xuống bệ. Tôi nhìn quanh căn bếp tôi đã quá mệt mỏi không thể lau dọn nổi...
(Xem: 22480)
Có một cậu bé sống trong trại mồ côi từ nhỏ. Cậu bé luôn luôn ước mơ rằng mình có thể bay được như những chú chim.
(Xem: 24779)
Người chủ tiệm treo tấm bảng "Bán chó con" lên cánh cửa. Những tấm biển kiểu như vậy luôn hấp dẫn các khách hàng nhỏ tuổi. Ngay sau đó, có một cậu bé xuất hiện.
(Xem: 22147)
Thử nghĩ xem, chúng ta được gì, mất gì khi cứ luôn chạy theo những thứ mãi mãi không thuộc về mình, luôn chờ đợi những gì không dành cho mình?
(Xem: 15980)
Tuyết rơi từ vào khuya, mặt trời vừa mọc, tuyết đã ngập trắng vườn sau. Tôi đẩy thêm một khúc củi vào lò. Nhìn lửa bốc ngọn, nhớ lại mấy vần thơ cũ...
(Xem: 18962)
Mộng thân của nó là một đứa bé gái bảy tuổi. Nó nằm trên một cái bè chuối khô chảy ngược dòng trên dòng sông nhỏ. Khung cảnh thật êm đềm với hai hàng cây rủ lá ven sông.
(Xem: 17221)
Không biết Linh đã chạy qua bao nhiêu quãng đường, bao nhiêu dãy phố… khi tiếng rao đêm vẫn còn văng vẳng, cho đến lúc mọi hoạt động đều ngưng bặt...
(Xem: 18317)
Đã mấy canh giờ đi qua, vị sư già xả thiền với tiếng tằng hắng khẽ, Ngài không hề ngạc nhiên về sự hiện diện của người khách lạ trong am cốc.
(Xem: 17800)
Bình thức giấc, ngạc nhiên thấy mình nằm ngủ trong nhà thằng Phi. Chưa kịp nghĩ gì thì mùi thức ăn xộc thẳng vào mũi làm nó nghe dạ dày nhói lên quặn thắt.
(Xem: 17823)
Vậy là sau bốn năm lăn lộn ở chốn phố thị phồn hoa này, cuối cùng thì Hải cũng đã trở về quê, một chuyến về ngoài dự kiến.
(Xem: 17674)
Cầu xin quả tốt lành mà không chịu gieo nhân tốt lành, sợ hãi quả xấu, sợ hãi tai họa xảy đến, mà không dừng tay tạo nhân xấu, sự cầu xin ấy chỉ là việc hoang tưởng.
(Xem: 17638)
Niềm hạnh phúc lớn nhất trong đời tôi chính là giây phút đầu tiên tôi đặt chân vào tòa nhà chánh Pháp. Một luồng rung cảm lâng lâng niềm hỷ lạc...
(Xem: 16869)
Trên đường trở về nhà, con gái cứ luôn ngọng ngọng nghịu nghịu hỏi tôi: “Bố ơi, mấy con cá bị người ta bắt đi thật là tội nghiệp!”...
(Xem: 16185)
Tôi thấy một sự thinh lặng trong một khu vườn thiền, zen garden, ngay gọn không tì vết. Tôi thấy sự thinh lặng nơi một kệ sách với những quyển sách thẳng hàng...
(Xem: 18509)
Từ lâu, tình thương là chất liệu ngọt ngào không thể thiếu trong cuộc sống của con người. Chất liệu đó đã là nhịp cầu nối tâm linh...
(Xem: 15583)
Trời bắt đầu vào thu với những ngày mưa thường xuyên hơn. Không gian se lạnh về theo những ngày nhiều mây và len sang cả những ngày có nắng.
(Xem: 16556)
Ái dụcyếu tố quan trọng đưa đến luân hồi sanh tử trong cõi Dục này. Chúng sanh đã đầu thai vào cõi Dục nghĩa là nghiệp ái dục rất nặng.
(Xem: 16999)
Tôi đã từng lên chùa Ông Núi. Nghe chuyện người tu hành ngày xưa thấy rõ là bậc chân tu. Và thêm một lần nữa, tôi yêu mến những ngôi chùa trên núi.
(Xem: 16447)
Ngay từ khi Thế Tôn còn hiện hữu giữa cuộc đời, những vị Tỳ-kheo đã từng được diện kiến đức Thế Tôn trong những buổi pháp thoại tại tịnh xá Kỳ Hoàn, hay tịnh xá Trúc Lâm.
(Xem: 17920)
Với nhãn căn, chỉ mở mắt ra là lập tức thấy cảnh vật quanh ta, có hoa là thấy hoa, có bướm là thấy bướm, không cần vận dụng một suy nghĩ quanh co nào.
(Xem: 15368)
Cà phê chậm rãi nhỏ giọt, cái màu đen đặc sánh gợi một nỗi đau nhưng nhức. Bản Serenat của F.Schubert từ góc quán cất lên, bản nhạc mà thời còn đi học anh rất thích.
(Xem: 16786)
Con sông Ni Liên Thiền, tên gọi đó đã gắn liền với sự chứng đắc của một bực Thánh nhân xuất thế - Thái tử Tất-đạt-đa, Người đã đến bên dòng sông này sau sáu năm tu khổ hạnh.
(Xem: 21261)
Hãy niệm câu “thần chú” ấy mỗi ngày đi, rồi bạn sẽ thấy “đời rất đẹp”. Đời không phải là rác rưởi, đáng chán, là muộn phiền, âu lo đầy dẫy như bạn từng mặc định.
(Xem: 29893)
Vở Cải Lương Phật giáo đấu tiên được ra đời từ những tâm nguyện ấy ,đó là vở “THÁI TỬ A-XÀ-THẾ”. Soạn giả Dương Kinh Thành
(Xem: 22200)
Người xưa đã cỡi hạc vàng bay xa, Nơi này chỉ còn trơ lầu Hoàng Hạc, Hoàng hạc bay xa không trở lại...
(Xem: 17120)
Tôi say sưa ngắm nhìn cảnh tượng sáng ngời trước mắt tôi, những cành cây trơ trụi của mùa đông bây giờ đã khóac lên mình những hoa lá trắng mềm mại.
(Xem: 17037)
Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận, Đình tiền tạc dạ nhất chi mai. - Dương Kinh Thành
(Xem: 16497)
Một buổi sáng rằm, đầu mùa đông ngoài trời se lạnh, nhưng trong căn phòng khách cửa mở ra hướng Nam không bị gió thổi xốc vào nên cũng khá ấm áp.
(Xem: 15116)
Mất cũng phải hết một ngày đêm suy nghĩ đến nhức đầu mệt óc, cắn trụi móng của ngón tay cái, thằng Thạch mới tìm ra được cách giải cho bài toán hóc búa...
(Xem: 16494)
Không giống cô giáo cũ, khi còn nằm trên giường biết mình đã thức dậy – Tôi luôn có niềm vui đầu tiên là “nhận biết mình còn sống! Tôi còn có mặt trên cõi đời này.
(Xem: 15560)
chúng ta có một cuộc sống may mắn hay rủi ro thì điều ấy đã được quyết định bởi tâm thứchành nghiệp của chính chúng ta. Điều này được biết đến như là định luật nhân quả.
(Xem: 17070)
Chủ quanlạc quan đều là hai thái độ dẫn đến việc người ta sống vô tư, nhưng xét về bản chất thì một bên là không lường trước mọi việc còn một bên thì biết rõ mọi việc và chấp nhận…
(Xem: 16084)
Không gì tuyệt đẹp hơn hình ảnh của mùa xuân, khi hoa đào hoa mai hé nở, khi những mầm xanh đang e ấp chờ đợi trăng nước tháng ngày...
(Xem: 18314)
Con thật may mắn đã đến được với Đạo Pháp bằng tâm chí thành. Tinh hoa của Đạo Pháp được gói trọn trong hai Bồ- Đề Tâm.
(Xem: 16203)
Nhận ra, và xóa sạch được bụi vô minh thì chúng sanh “sẽ thành Phật” đó, lập tức là “Phật đã thành”... Huệ Trân
(Xem: 15313)
Ngày tôi nhận ra con đường đích thực của cuộc đời mình, em đã khóc rất nhiều. Em muốn tôi vẫn là tôi của những ngày mới quen nhau.
(Xem: 14489)
Bản chất của mùa xuânchuyển hóa. Nó có khả năng chuyển hóa đối với những gì đang có mặt nơi nó để nó trở thành mùa xuân cho chính nó...
(Xem: 15496)
Em hãy trở về nhìn sâu vào tâm em bằng đôi mắt thiền quán, với ý chí quyết liệt, với hướng đi cao khiết, với tấm lòng thanh bạchmở rộng...
(Xem: 17903)
Thử tắt điện thoại một ngày… Một cuộc “biến mất” không dự báo trước, đối với nhiều người. Đó là một cách biểu hiện của vô thường, dành tặng cho những người thân-thương.
(Xem: 18050)
Mỗi lần đi qua những cánh đồng đang mùa gặt, tôi lại nhớ về những ngày thơ ấu êm đềm ở làng quê. Cái hương quê ngai ngái mùi lúa mới ấy như cứ mãi vấn vít lòng tôi...
(Xem: 15364)
Nhân dịp đầu năm, đi chùa lễ Phật, nhìn thấy muôn hoa đua nở, vẻ đẹp tao nhã của thiên nhiên như lời chúc phúc tốt lành đến với tất cả mọi người.
(Xem: 14907)
Nói đến Tết, chúng ta thường nghĩ tới một dịp vui đầu năm mới - Tết Nguyên đán (còn gọi là Tết cả).
(Xem: 15559)
Quãng đời ấy, là quãng đời của tôi có thật, nhưng xin quý vị đọc mà đừng tin, vì sự kiện ấy là của một thời gian đã đi qua, nó đã trở thành nắng mưa, sương gió,...
(Xem: 13544)
Cuối năm, trời trở nên rét hơn. Những cơn gió từ sông thổi vào mang theo hơi nước lạnh buốt. Con sông mùa này trông mênh mông, quạnh quẽ.
(Xem: 13398)
Gió thổi làm những chiếc lá lay động, làm nhánh cây, cành cây bâng khuâng, làm rừng xanh, đìu hiu xao xuyến. Con chim đang ngủ trong tổ giật mình thức giấc...
(Xem: 15695)
Em mới mười một tuổi, mẹ bỏ em lại bên chân núi. Ruộng dưa mênh mông, em ngơ ngác như con bù nhìn rơm giữa nắng và gió.
(Xem: 16886)
Về quê vào những ngày cuối năm mới thấy sao yêu đến vậy cái đồng đất quê mình, thương biết mấy những chị, những mẹ một nắng hai sương trên ruộng đồng.
(Xem: 12108)
Sau giờ thiền toạ sáng nay, lắng nghe lại lòng, hình như có dòng sông nào đó tuôn chảy qua đời, bắt được tiếng hơi thở thánh thót của vũ trụ...
(Xem: 13548)
Phật của ngoại nhỏ xíu, chỉ cao hơn gang tay tôi một chút - dĩ nhiên, đó là gang tay của một cậu bé mười tuổi. Phật cũng không đẹp chi lắm...
(Xem: 18148)
Tự do chính là quyền cơ bản của một con người. Do vậy ai tước đi tự do của người khác đều là hành vi vi phạm nhân quyền.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant