Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phật Tánh: Sẳn CóThường Trụ, Trùm Khắp

24 Tháng Hai 202119:17(Xem: 5589)
Phật Tánh: Sẳn Có Và Thường Trụ, Trùm Khắp
Phật Tánh: Sẳn CóThường Trụ, Trùm Khắp


Nguyễn Thế Đăng

 Đời Như Tấm Gương Soi



Phật tánh
là tạng báu tánh giác (giác bảo tạng) mà tất cả chúng sanh đều sẳn có, như kho vàng ròng của người đàn bà nghèo khó vốn có ở trong nhà mình:

Phật dạy: Thiện nam tử! Ngã tức là nghĩa Như Lai tạng. Tất cả chúng sanh đều có (tất hữu) Phật tánh tức là nghĩa của ngã. Nghĩa của ngã như vậy từ xưa đến giờ thường bị vô lượng phiền não che đậy, thế nên chúng sanh không thấy được.

Thiện nam tử! Như người đàn bà nghèo khó trong nhà có kho tàng vàng ròng rất lớn, mọi người trong nhà không ai biết. Một hôm có người khách lạ khéo biết phương tiện bảo người đàn bà nghèo: ‘Nay tôi thuê cô dọn cỏ rác cho tôi’.

Người đàn bà nói: ‘Tôi không thể làm. Nếu ông có thể chỉ kho vàng cho tôi, tôi sẽ làm cho ông’. Người khách nói: ‘Tôi biết phương tiện để chỉ cho cô’. Người đàn bà nói: ‘Mọi người trong nhà tôi còn chẳng biết, huống chi là ông!’. Người khách lại nói: ‘Tôi có thể biết chắc chắn’. Người đàn bà nói: ‘Tôi rất muốn thấy, hãy chỉ cho tôi’.

Người ấy liền đào ngay trong nhà, lấy lên kho báu vàng ròng. Người đàn bà thấy, lòng rất vui mừng, nghĩ rất lạ lùng, tôn kính ngưỡng mộ vị ấy.

Thiện nam tử! Phật tánh của chúng sanh cũng như vậy, nhưng tất cả chúng sanh chẳng thể thấy được, như người đàn bà nghèo chẳng biết kho báu kia. Nay ta chỉ bày Phật tánh mà tất cả chúng sanh đang sở hữu nhưng bị các phiền não che đậy, như người đàn bà nghèo kia có kho tàng vàng ròng nhưng chẳng thể thấy. Hôm nay Như Lai chỉ bày cho tất cả chúng sanh kho báu tánh giác của họ, đó là Phật tánh. Chúng sanh thấy được rồi, sanh tâm hoan hỷ, quy ngưỡng Như Lai.

Người khéo biết phương tiện tức là Như Lai. Người nữ nghèo khó tức là vô lượng chúng sanh. Kho tàng vàng ròng tức là Phật tánh vậy” (phẩm Như Lai tánh).

Phật tánh hay Như Lai tạng mỗi chúng sanh đều sẳn có (sở hữu) chỉ vì các phiền não che đậy mà không thấy biết. Đức Phật có đầy đủ phương tiện để chỉ ra cho chúng sanh kho báu tánh giác sẳn có của mỗi người.

Nhất thiết chúng sanh tất hữu Phật tánh”, câu này được lặp lại suốt cả bộ kinh. Chẳng hạn, trong phẩm Bồ tát Sư Tử Hống:

Tiếng rống như sư tử (của Phật) gọi là nói một cách quyết định: Tất cả chúng sanh đều có (tất hữu) Phật tánh. Như Lai thường trụ, không có đổi khác”.

Chữ “tất”, có nghĩa là “đều, hết cả, trọn vẹn, toàn bộ”. Thế nên chúng ta có thể dịch là, “Tất cả chúng sanh đều có trọn vẹn, toàn bộ Phật tánh”. Phật tánh hiện hữu trọn vẹn, toàn bộ nơi mỗi chúng sanh, không phải tìm ở nơi đâu khác. Những pháp môn để khám phá nó chỉ là những phương tiện, chứ không tạo tác ra nó.

Người tin được mình đang sẳn có Phật tánh hay Như Lai tạng một cách trọn vẹn thì có Giới, Định, Huệ và Phật tánh trở thành cốt lõi xương sống của cuộc đời họ:

Nếu có người tu tập Như Lai tạng thường, lạc, ngã, tịnh thì dầu có phiền não nhưng chóng có thể diệt trừ, vì người này biết Như Lai tạng bí mật.

Nếu có người nói, ‘Thật có Như Lai tạng, dù chẳng thấy được nhưng nếu có thể diệt trừ tất cả phiền não thì được chứng nhập’. Nếu phát tâm ấy dù chỉ một niệm thì nhờ nhân duyên ấy bèn được tự tại đối với các pháp”. (phẩm Tứ Đế - phẩm Như Lai tánh).

 

Vốn sẳn có một cách trọn vẹn, tức là thường trụ:

Thiện nam tử! Phật tánh của chúng sanh thường trụ chẳng biến đổi” (phẩm Bồ tát Sư Tử Hống).

Thường trụ nghĩa là luôn luôn có mặt trong tất cả mọi không gianthời gian, là chưa hề lìa khỏi chúng sanh một giây phút nào dù bao nhiêu sanh tử. Cho nên, Đức Phật nói chúng sanhPhật tánh:

Nếu nói rằng trong chúng sanh riêng có Phật tánh, thì nghĩa ấy chẳng đúng. Vì sao thế? Chúng sanh tức là Phật tánh, Phật tánh tức là chúng sanh. Chỉ có thời gian khác nhau mà có tịnh và bất tịnh” (phẩm Bồ tát Ca Diếp).

Các hạng chúng sanh, từ thấp nhất cho đến các bậc thánh A La Hán, Bích Chi Phật, Bồ tát, chư Phật Thế Tôn đều chẳng lìa khỏi Phật tánh:

Thiện nam tử! Như bảy hạng chúng sanh trong sông Hằng, tuy có tên cá, rùa… nhưng thảy đều không lìa khỏi nước. Trong Đại Niết bàn vi diệu này, từ nhất xiển đề lên đến chư Phật, tuy tên khác nhau nhưng cũng chẳng lìa khỏi nước Phật tánh.

Thiện nam tử! Bảy loài chúng sanh ấy, hoặc pháp thiện hoặc pháp bất thiện, hoặc đạo phương tiện, hoặc đạo giải thoát, hoặc đạo thứ lớp, hoặc nhân hoặc quả…, tất cả đều là Phật tánh.

Đây gọi là lời Như Lai tự ý nói ra”. (phẩm Bồ tát Ca Diếp).

Thấy được như vậy, dù chỉ ít phần, là cái thấy của Trí HuệTừ Bi. Đó là cái thấy Phật tánh, mà chỉ có chư Phật mới thấy được hoàn toàn:

Thiện nam tử! Phật tánh chúng sanhcảnh giới của chư Phật, chẳng phải hàng Thanh Văn, Duyên Giác có thể biết”. (phẩm Bồ tát Sư Tử Hống).

 

Thường trụ là luôn luôn ở trước mắt. Nhưng tại sao chúng ta không thấy? Kinh nói nhiều lần cùng một mệnh đề, “chẳng phải… nhưng chẳng lìa”. Chẳng hạn:

Phật tánh chẳng phải tức sáu pháp, nhưng cũng chẳng lìa sáu pháp. Vì thế nên ta nói Phật tánh chúng sanh chẳng phải sắc, chẳng phải lìa sắc, cho đến chẳng phải ngã chẳng phải lìa ngã” (phẩm Bồ tát Sư Tử Hống).

Thiện nam tử! Phật tánh đây cũng là sắc, cũng là chẳng phải sắc, chẳng phải sắc chẳng phải là chẳng sắc; cũng là tướng cũng là chẳng phải tướng, chẳng phải tướng chẳng phải là chẳng phải tướng…” (phẩm Bồ tát Sư Tử Hống).

Chẳng phải sắc, tướng; cũng chẳng lìa sắc, tướng. Sắc và tướng là do cái thấy của thế gian, vô minh phân biệt mà có. Chẳng phải sắc, tướng là không dính dáng gì đến những sắc, tướng tạo thành thế gian sanh tử. Nhưng Phật tánh thì thường trụ, có mặt khắp nên không một sắc, một tướng nào, dù là hư giả, có thể lìa khỏi, nằm ngoài Phật tánh. Như hoa đốm giữa hư không, tuy là hư giả, nhưng không có hoa đốm nào lìa khỏi, nằm ngoài hư không.

 

Cho nên để thấy Phật tánh như hư không, hành giả phải lìa các sắc, các tướng hư vọng như hoa đốm do tâm thức phân biệt dệt thành. Khi không còn các sắc, các tướng hư giả che lấp, Phật tánh như hư không thường trụ hiện ra. Nhưng lìa các sắc, các tướng hư giả để tìm Phật tánh như hư không ở riêng ngoài các sắc, các tướng thì lại là một sai lầmPhật tánh như hư không không ở riêng ngoài các sắc, các tướng. Mà bản tánh của các sắc, các tướng chính là Phật tánh như hư không; bản tánh của hoa đốm chính là hư không.

Thấy tất cả các pháp đồng một tướng, đó là thấy Phật tánh:

Đại Bồ tát tu hành Đại Niết bàn, thấy biết pháp giới, hiểu rõ thật tướng là Không, vô sở hữu, không có các tướng hòa hợp của tri giác. Được tướng vô lậu, tướng vô tác, tướng như huyễn hóa, tướng như hơi nắng nóng, như thành Càn thát bà, tướng hư không.

Khi Bồ tát được các tướng như vậy thì không có tham, sân, si, chẳng nghe chẳng thấy. Đó gọi là Đại Bồ tát an trụ thật tướng.

Đại Bồ tát tu kinh Đại Niết bàn chẳng bám nắm tướng chúng sanh mà hiện làm ra thảy thảy tướng pháp.

Thiện nam tử! Ví như họa sư dùng đủ các thứ màu vẽ nên những hình tượng, hoặc nam, hoặc nữ, hoặc trâu, hoặc ngựa… Người phàm phu không có trí thấy đó thì sanh ra các tướng nam, nữ... Họa sư thì rõ biết không làm gì có tướng nam nữ. Đại Bồ tát cũng vậy, nơi các tướng sai khác nhau thấy là Một Tướng, chẳng bao giờ sanh cái thấy tướng chúng sanh. Vì sao thế? Vì có niệm huệ vậy” (phẩm Bồ tát Quang Minh Biến Chiếu). 

Thấy Không tướng, Một tướng là thấy Phật tánh

Tại sao vừa là Không tướng, vừa là Một tướng? Vì “chẳng phải sắc, chẳng phải là chẳng sắc; chẳng phải tướng, chẳng phải là chẳng phải tướng”. Thế nên, kinh nói Phật tánh là Không - Bất Không:

Thiện nam tử! Phật tánh đó gọi là Đệ nhất nghĩa Không, Đệ nhất nghĩa Không gọi là Trí huệ. Nói Không ấy là chẳng thấy Không và Bất Không

Người trí thì thấy cả Không cùng Bất Không, thường cùng vô thường, khổ cùng lạc, ngã cùng vô ngã. Không đó là tất cả sanh tử. Bất KhôngĐại Niết bàn. Cho đến vô ngã ấy, tức là sanh tử. Ngã ấy là Đại Niết bàn

Thấy tất cả là Không mà không thấy Bất Không thì chẳng gọi là Trung đạo. Cho đến thấy tất cả là vô ngã mà không thấy ngã thì chẳng gọi là Trung đạo.

Trung đạo ấy gọi là Phật tánh. Do nghĩa này nên Phật tánhthường hằng, không có biến đổi, vì vô minh che đậy khiến chúng sanh chẳng thể thấy được. Hàng Thanh Văn, Duyên Giác thấy tất cả là Không mà chẳng thấy Bất Không, cho đến thấy tất cả là vô ngã mà chẳng thấy ngã, do vậy nên chẳng đắc Đệ nhất nghĩa Không. Vì chẳng hiểu Đệ nhất nghĩa Không nên chẳng tu hành Trung đạo. Vì không tu hành Trung đạo nên chẳng thấy Phật tánh” (phẩm Bồ tát Sư Tử Hống). 

Nếu thấy và chứng tất cả là Không, đó là giải thoátNiết bàn của hàng Thanh Văn, Duyên Giác mà mức độ giải thoát tương đương với Địa thứ Tám của Đại thừa. Còn vượt lên ‘tất cả là Không’ để thấy và chứng cả thực tại Bất Không, thì Không - Bất Không này là Phật tánh Đại Niết bàn. Không - Bất KhôngTrung đạo. Trung đạo này được nói trong Bát Nhã Tâm Kinh bằng chữ “tức là”: “Sắc tức là Không, Không tức là sắc”. Kinh Đại Bát Niết Bàn nói: 

Không là nói không hai mươi lăm cõi hữu và các phiền não, tất cả sự khổ, tất cả tướng, tất cả hạnh hữu vi, như bình không nước thì gọi là không. Bất Không là nói thiện sắc chân thật: thường, lạc, ngã, tịnh, chẳng động chẳng biến”. (phẩm Tứ Tướng - phẩm Như Lai tánh). 

Không - Bất KhôngPhật tánh Trung đạo, là bản tánh của cả sanh tửNiết bàn. Vị chứng được bản tánh của cả sanh tửNiết bàn thì tự do đối với cả sanh tửNiết bàn

Không - Bất KhôngPhật tánh Trung đạo, về sau được các nhà Đại thừa gọi là Chân Không - Diệu Hữu

 

Một hành giả tu Bồ tát đạo phải thấy phương diện Bất Không này, nên Kinh nói nhiều đến việc thấy Bất Không. Kinh thường nói “Phật tánh là chẳng phải sắc nhưng cũng là sắc”. Thế nên bậc Giác Ngộ hoàn toànĐức Phật thì năm ấm đều thường trụ

Thiện nam tử! Nếu người có thể biết phiền não, nhân của phiền não, quả báo của phiền não, nặng nhẹ của phiền não, vì trừ phiền não nên chuyên cần tu Thánh đạo, người này chẳng do phiền não sanh sắc. Thọ tưởng hành thức cũng lại như vậy. 

Nếu chẳng biết phiền não, nhân, quả báo, nặng nhẹ của nó, chẳng chuyên cần tu tập, người ấy liền từ phiền não sanh sắc cho đến thọ tưởng hành thức

Thiện nam tử! Người rõ biết phiền não, nhân, quả báo, nặng nhẹ của nó, vì đoạn dứt phiền nãotu hành Thánh đạo, đây là Như Lai. Do nhân duyên này sắc của Như Lai là thường, cho đến thức là thường. 

Thiện nam tử! Người chẳng biết phiền não, nhân, quả báo, nặng nhẹ của nó, chẳng thể tu hành Thánh đạo, tức là phàm phu. Thế nên sắc của phàm phu thì vô thường, thọ tưởng hành thức cũng đều vô thường” (phẩm Bồ tát Ca Diếp). 

Sắc cho đến thọ tưởng hành thức của Như Lai là thường vì không có phiền não. Sắc cho đến bốn ấm kia của chúng sanh thì vô thường vì từ phiền não sanh. Sắc là thường cho nên sắc chính là Phật tánh

Đức Thế Tôn bảo Kiều Trần Như

Sắc là vô thường, do diệt sắc này được sắc giải thoát thường trụ. Thọ tưởng hành thức cũng là vô thường, do diệt thức này mà được thức giải thoát thường trụ

Kiều Trần Như! Sắc tức là khổ. Do diệt sắc này mà được sắc an lạc giải thoát. Thọ tưởng hành thức cũng lại như vậy. 

Kiều Trần Như! Sắc tức là không. Do diệt sắc trống không này mà được sắc giải thoát chẳng phải trống không. Thọ tưởng hành thức cũng lại như vậy. 

Kiều Trần Như! Sắc là vô ngã. Do diệt sắc này mà được sắc chân ngã giải thoát. Thọ tưởng hành thức cũng lại như vậy”. (phẩm Kiều Trần Như). 

Sắc thọ tưởng hành thức với người phàm là khổ, không, vô thường, vô ngã. Với Bồ tát chứng ngộ thật tướng, thì sắc thọ tưởng hành thứcan lạc, chẳng phải trống không, thường trụ, chân ngã. Như thế với Bồ tát chứng ngộ, sắc thọ tưởng hành thức chính là Phật tánh thường lạc ngã tịnh

 

Năm ấm vốn giải thoát, thường lạc ngã tịnh như vậy được Kinh gọi là “năm ấm thiện”:

Thiện nam tử! Tất cả những trói buộc vô minh phiền não đều là Phật tánh, vì là nhân của Phật tánh. Từ vô minh, hành và các phiền não mà được năm ấm thiện, đây gọi là Phật tánh (phẩm Bồ tát Ca Diếp).

Cho đến mười hai nhân duyên (duyên sanh), trong thật tướng của chúng, chính là Phật tánh

Không thường, không đoạn, mới gọi là Trung đạo. Không thường không đoạn tức là trí quán chiếu mười hai nhân duyên. Trí quán như vậy gọi là Phật tánh

Thiện nam tử! Trí huệ quán thấy mười hai nhân duyên này chính là chủng tử của Vô thượng Giác ngộ. Do nghĩa này nên mười hai nhân duyên gọi là Phật tánh

Thiện nam tử! Do nghĩa ấy nên mười hai nhân duyên chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng thường chẳng đoạn, chẳng phải một chẳng phải hai, chẳng đến chẳng đi, chẳng phải nhân chẳng phải quả. 

Chẳng phải nhân, chẳng phải quả, gọi là Phật tánh. Vì chẳng phải nhân quả nên thường hằng, bất biến”. (phẩm Bồ tát Sư Tử Hống). 

Bản tánh của mười hai nhân duyênpháp tánh (bản tánh của tất cả các pháp). Pháp tánh ấy chẳng sanh chẳng diệt, chẳng thường chẳng đoạn, chẳng đến chẳng đi, chẳng nhân chẳng quả... pháp tánh ấy là Phật tánh. Pháp tánh ấy chẳng thể hoại, là thân Như Lai, là Pháp thân, là Phật tánh

Phật bảo: Thiện nam tử! Chẳng thể lấy thí dụ để ví cho giải thoát chân thật. Vì giáo hóa chúng sanh mà đặt các thí dụ thôi. Do các thí dụ mà biết tánh của các pháp (chư pháp tánh) cũng giống như thế. 

Ca Diếp bạch Phật: Thân Như Lai không thể phá hoại. Vì sao thế? Vì không có cái thân hợp tụ, chỉ có pháp tánh. Tánh của pháp tánh chẳng thể hoại. Do nhân duyên này dẫn các thí dụ để hiểu được pháp chân thật. 

Bấy giờ Phật khen Bồ tát Ca Diếp: Lành thay! Lành thay! Thiện nam tử! Điều ta muốn nói nay ông đã nói”. (phẩm Như Lai tánh).

Pháp tánh hay Phật tánh được kinh gọi là Chân Ngã, và Pháp tánh Chân ngã ấy hiện diệnthường trụ trong tất cả các pháp vô ngã:

Bậc Đại Y Vương thương thế gian 

Thân và trí huệ đều tịch tịnh 

Trong pháp vô ngãchân ngã 

Nên tôi kính lễ Vô Thượng Tôn

(phẩm Bồ tát Ca Diếp

Sự lật ngược từ phiền não thành Bồ đề, từ thế giới phân biệt khổ đau thành Đại Niết bàn Phật tánh là sự lật người từ tướng thành tánh. Tất cả các tướng đều là Phật tánh

Khi nói rằng “Chúng sanh chính là Phật tánh, Phật tánh chính là chúng sanh” và Phật tánh ấy sẳn có, thường trụ, luôn luôn hiện diện thì có thể thấy rằng tất cả hoạt động thân, khẩu, ý của con người không ra ngoài Phật tánh và chính là Phật tánh. Đây là con đường của một hành giả, lấy Phật tánh làm Nền tảng, lấy Phật tánh làm Con đường và lấy Phật tánh làm Quả. 

Phật tánh, hay Phật, hay Đại Niết bàn không chỉ ở nơi mỗi người mà bao trùm vũ trụ, ở trong mọi không gian thời gian

Thiện nam tử! Chư Phật Như Lai chẳng khởi phiền não, đó gọi là Niết bàn. Có trí huệ vô ngại với tất cả pháp, đó là Như Lai. Như Lai chẳng phải phàm phu, Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ tát, đó gọi là Phật tánh. Thân, tâm, trí huệ Như Lai đầy khắp vô lượng, vô biên, vô số cõi, không gì chướng ngại, đó gọi là hư không. Như Lai thường trụ, không có biến đổi, gọi là thật tướng. Do vì nghĩa này, Như Lai quả thật rốt ráo chẳng nhập Niết bàn”. (phẩm Bồ tát Quang Minh Biến Chiếu). 

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 15391)
Chúng ta đã bao nhiêu lần sanh ra và chết đi, đã bao nhiêu lần lặn ngụp trong biển sinh tử luân hồi, đã theo nghiệp sinh nơi này nơi khác.
(Xem: 17056)
Viết tại thư phòng chùa Viên Giác Hannover Đức quốc sau những ngày đã trải qua nhiều sự kiện đáng ghi nhớ... - HT Thích Như Điển
(Xem: 29393)
Mây phương đông vẫn lên hường, Ngôi chùa còn đó quê hương vẫn còn... (Trụ Vũ - Quê Hương)
(Xem: 16304)
Câu chuyện để suy gẫm về những gì đang hiện hữu quanh ta... Những Đứa Trẻ của Trần Trung Thanh
(Xem: 18038)
Tháng Bảy đi qua, với những ngày mưa âm thầm bên phố quen, nơi dòng xe cộ đông đúc, mình ngắm mưa mà những “khung hình” về mưa cứ đi qua, đi qua.
(Xem: 19424)
Trời đã về chiều nhưng đôi chân kẻ du hành dường như không muốn ngơi nghỉ, "ta phải đi về nơi có tiếng chuông xa ngân dài kia...
(Xem: 21475)
Chúng tôi đều là những chúng sanh - như muôn vàn chúng sanh khác - đã gieo chủng tử giác ngộ từ kiếp nào đó...
(Xem: 19825)
Này tôi, tôi đang ở đây, giữa thiên nhiên tuyệt vời, giữa cái thinh lặng tuyệt vời của một nội tâm trong sáng, không chút tạp niệm nào của đời sống đua chen.
(Xem: 23022)
Có lẽ, nụ cười chân thiện của Ðức Phật cùng với những đôi mắt Từ bi của chư Phật và giáo pháp mang tính triết lý sâu sắc đã ươm những mầm xanh tươi đẹp vào tâm hồn này.
(Xem: 17317)
Phóng cá, thả chim đặt trên nền tảng tâm từ như thế thì việc phóng sinh của ta dù ít hay nhiều, dù có hay không, đều mang đầy đủ ý nghĩa phóng sinh.
(Xem: 17766)
Từ bitrí tuệ là nhân và quả hoán chuyển lẫn nhau trong nhãn quan Phật giáo. Nhân loại không chế ra hai khẩu súng để hôn nhau và tri thức con người không dấy động lên hai lời phản bác...
(Xem: 16287)
Theo chúng tôi, nói đến ĐTKVN (rõ hơn là ĐTK Việt Nam, phần Phật giáo Bắc truyền) thì phải nói đủ 3 tạng Kinh, Luật, Luận...
(Xem: 16039)
Phương tiện rất cần thiết để hỗ trợ cho thành tựu cứu cánh nhưng chạy theo phương tiện mà quên đi cứu cánh là sự vong bản, là đốt trầm để bán than.
(Xem: 21877)
Ánh mắt Từ Bi của Ngài đang nhìn xuống chúng sanh như xoa dịu bao nỗi đau thương, trong cảnh đời nhiều nỗi mưa sa bão táp, mà vỗ vềan ủi cho lòng được lắng đọng thanh lương... HT Thích Nguyên Siêu
(Xem: 19885)
Cứ mỗi lần tụng kinh, lễ sám, quý Thầy lạy Tổ trước khi lên chánh điện, nhìn hình ảnh chư Tổ tôn trí trang nghiêm trong khám thờ mà nhớ Tổ Tổ truyền cho nhau, ngọn đèn được mồi tiếp sáng luôn bất tận... HT Thích Nguyên Siêu
(Xem: 20250)
Ngày Về Nguồn là dịp để Tăng chúng, pháp lữ thăm hỏi với nhau và cùng nhau ôn lời Phật dạy, lặp lại ý Tổ khuyên mà tô bồi vun quén cho đạo tình ngày thêm thắm đượm... HT Thích Nguyên Siêu
(Xem: 19505)
Bà Aung San Suu Kyi trích lời Phật khi Ngài nói về bốn nguyên do suy thoái và thối rữa: không tìm lại được cái gì bị mất, không chịu sửa lại cái gì bị hư...
(Xem: 17168)
Rồi suốt đêm đó, người thanh niên ngồi giữ bàn tay ông già và nói những lời an ủi đầy hứa hẹn...
(Xem: 18532)
Nếu con có thể sống sót, con phải nhớ rằng mẹ rất yêu con...
(Xem: 17240)
Niềm hòa bình tâm tư thật sự là những thứ vô cùng quan trọng cho sự tồn tại của loài người, cho sự tồn tại mạnh khỏe của con người.
(Xem: 15901)
Cháu không nên mua con chó này. Nó sẽ chẳng bao giờ chạy nhảy và chơi đùa với cháu như những con chó khác được...
(Xem: 15953)
Tôi ước mình có đủ dũng cảm để sống một cuộc sống thật sự với bản thân chứ không phải cuộc sống theo mọi người mong muốn...
(Xem: 15044)
Khi thầy làm được những gì mình nói và làm nhiều hơn nói thì những bài học kiệm lời ấy từ nơi thầy lại có tác dụng thức tỉnhchuyển hóa học trò mạnh mẽ...
(Xem: 16790)
Chép kinh là một hình thức công phu. Muốn chép kinh trước phải đọc, ghi nhớ rồi sau đó mới nắn nót lời kinh. Chữ kinh phải ngay thẳng...
(Xem: 15025)
Tôi luôn luôn tuyên bố rằng, địa cầu là của loài người trên thế giới, 7 tỉ người. Và mỗi quốc gia là của người dân đất nước ấy...
(Xem: 13671)
"nếu không có quá khứ thì sẽ không có hiện tại, mà hiện tại không, thì tương lai cũng sẽ chẳng có"... HT Thích Như Điển
(Xem: 16121)
Lòng từ bi không thành kiến không bị định hướng bởi hành động, thái độ mà luôn luôn xem họ như những chúng sanh, hay những con người.
(Xem: 15996)
Hơn bao giờ hết tuổi trẻ cần được dìu dắt về mọi mặt, nhất là về cuộc sống tâm linh... Tâm Thường Định
(Xem: 11071)
Thần chú là một đặc trưng của giáo pháp Phật giáo Mật tông, bởi vậy nên gọi là Mật chú thừa hay là Kim cang thừa.
(Xem: 15552)
Mục đích duy nhất là phát triển tiềm năng vốn có của Phật giáo Việt nam đang được hình thành trên đất Mỹ... Thích Đức Trí
(Xem: 15671)
Đức Phật là một dòng sông đã bứt phá qua sa mạc của thân phận nhân loại để chảy hòa vào đại dương công đức, trí huệtừ bi của các Bậc Chiến Thắng.
(Xem: 15580)
Cộng đồng Phật tử phương Tây nổi tiếng vì đức khoan dung của họ và chính đức Dalai Lama cũng có các đệ tử đồng tính một cách công khai.
(Xem: 16831)
Quanh năm Nam chỉ thấy Trung loay hoay với mấy bộ đồ cũ mèm, đến đôi dép đứt quai vá víu nhiều chỗ, anh cũng không quan tâm...
(Xem: 17576)
Đức Đạt Lai Lạt Ma là một lãnh tụ rất quyến rũ, vui tínhđặc biệt. Ngài được cho là hóa thân thứ 14 của Đức Phật từ bituệ trí.
(Xem: 14142)
"Hoằng pháp vi gia vụ, lợi sanh vi sự nghiệp"... Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 18089)
Nguyên tác: 2012 Templeton Prize Award Ceremony Honoring His Holiness the Dalai Lama. Ẩn Tâm Lộ ngày 17-5-2012, Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 17174)
Đây là một tác phẩm hồi ký của hòa thượng Thích Trí Quang, một danh tăng Phật giáo thế hệ Chiến tranh Việt Nam đang bước vào độ tuổi 90... Trần Kiêm Đoàn
(Xem: 18067)
Đức Thế Tôn rất vui mừng khi chúng ta tầm cầu sự quy y trong ba ngôi tôn quý, Đức Phật, giáo huấn của Ngài và đệ tử của Ngài...
(Xem: 16849)
Lễ Đại Tường Cố HT Thích Quảng Tâm ngày 21/4/Nhâm Thìn tại Tu Viện Vĩnh Đức ... Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 16803)
Phật Tổ đã hy sinh cả cuộc đời mình để chỉ lối cho con người tới với tự do, thoát khỏi khổ ải – trong đó có cả những khó khăn trong công việc.
(Xem: 16620)
Nếu có một tôn giáo nào đương đầu với các nhu cầu của khoa học hiện đại thì đó là Phật giáo... Albert Einstein
(Xem: 15056)
Trong thế giới văn học, đặc biệtPhật Giáo qua âm nhạc và thơ văn, không có một người nào khi biết đến Liên Hoa mà không mến mộ, không yêu thương...
(Xem: 16351)
Người Phật tử Việt Nam chúng ta thì tuy không oán hờn bất cứ ai nhưng Nhân – Quả thì luôn sòng phẳng, mọi người không phân biệt hèn sang, tôn giáo, chính kiến...
(Xem: 13954)
Con người sinh ra đời với hai bàn tay trắng và dù thành công hay thất bại thì cũng trở về cát bụi với hai bàn tay không, vậy thì sá gì với được mất, có không...
(Xem: 12655)
Tuy bồ-đề là lý tưởng, là đích đến của bồ-tát hạnh, nhưng trên thực tế, chỉ có hành động mới thật sự được quan tâm và là nội dung hai đặc tính của bồ-tát hạnh...
(Xem: 21309)
Nằm giữa hai miền đất nước, nơi mảnh đất Thần Kinh, Bạch Mã hiển hiện trầm hùng, kỳ vĩ mà ôn hòa, như mang theo cái mát lành của Cao nguyên Đà Lạt về trên xứ Huế.
(Xem: 18267)
Tiếp xúc với thân thể của ta bằng con mắt thiền quán, ta thấy sự có mặt của thân thể đối với ta là sự có mặt của một thực tại mầu nhiệm...
(Xem: 16547)
Bài tường trình về khóa tu học tại Chùa Phật Tổ do Phái Đoàn Hoằng Pháp Âu Châu hướng dẫn 2012
(Xem: 16966)
Câu chuyện của vũ trụ đã từng được kể đến trong nhiều kiểu cách bởi những con người ở trên trái đất, từ những thời điểm sớm sủa nhất của thời kỳ Đồ đá cũ (Paleolithic)...
(Xem: 16718)
Trong hơn 20 năm Hòa Thượng Đã tài trợ cho Tăng Ni du học Ấn Độ tổng số tiền 1 triệu USD
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant