Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phật Tánh: Sẳn CóThường Trụ, Trùm Khắp

24 Tháng Hai 202119:17(Xem: 5591)
Phật Tánh: Sẳn Có Và Thường Trụ, Trùm Khắp
Phật Tánh: Sẳn CóThường Trụ, Trùm Khắp


Nguyễn Thế Đăng

 Đời Như Tấm Gương Soi



Phật tánh
là tạng báu tánh giác (giác bảo tạng) mà tất cả chúng sanh đều sẳn có, như kho vàng ròng của người đàn bà nghèo khó vốn có ở trong nhà mình:

Phật dạy: Thiện nam tử! Ngã tức là nghĩa Như Lai tạng. Tất cả chúng sanh đều có (tất hữu) Phật tánh tức là nghĩa của ngã. Nghĩa của ngã như vậy từ xưa đến giờ thường bị vô lượng phiền não che đậy, thế nên chúng sanh không thấy được.

Thiện nam tử! Như người đàn bà nghèo khó trong nhà có kho tàng vàng ròng rất lớn, mọi người trong nhà không ai biết. Một hôm có người khách lạ khéo biết phương tiện bảo người đàn bà nghèo: ‘Nay tôi thuê cô dọn cỏ rác cho tôi’.

Người đàn bà nói: ‘Tôi không thể làm. Nếu ông có thể chỉ kho vàng cho tôi, tôi sẽ làm cho ông’. Người khách nói: ‘Tôi biết phương tiện để chỉ cho cô’. Người đàn bà nói: ‘Mọi người trong nhà tôi còn chẳng biết, huống chi là ông!’. Người khách lại nói: ‘Tôi có thể biết chắc chắn’. Người đàn bà nói: ‘Tôi rất muốn thấy, hãy chỉ cho tôi’.

Người ấy liền đào ngay trong nhà, lấy lên kho báu vàng ròng. Người đàn bà thấy, lòng rất vui mừng, nghĩ rất lạ lùng, tôn kính ngưỡng mộ vị ấy.

Thiện nam tử! Phật tánh của chúng sanh cũng như vậy, nhưng tất cả chúng sanh chẳng thể thấy được, như người đàn bà nghèo chẳng biết kho báu kia. Nay ta chỉ bày Phật tánh mà tất cả chúng sanh đang sở hữu nhưng bị các phiền não che đậy, như người đàn bà nghèo kia có kho tàng vàng ròng nhưng chẳng thể thấy. Hôm nay Như Lai chỉ bày cho tất cả chúng sanh kho báu tánh giác của họ, đó là Phật tánh. Chúng sanh thấy được rồi, sanh tâm hoan hỷ, quy ngưỡng Như Lai.

Người khéo biết phương tiện tức là Như Lai. Người nữ nghèo khó tức là vô lượng chúng sanh. Kho tàng vàng ròng tức là Phật tánh vậy” (phẩm Như Lai tánh).

Phật tánh hay Như Lai tạng mỗi chúng sanh đều sẳn có (sở hữu) chỉ vì các phiền não che đậy mà không thấy biết. Đức Phật có đầy đủ phương tiện để chỉ ra cho chúng sanh kho báu tánh giác sẳn có của mỗi người.

Nhất thiết chúng sanh tất hữu Phật tánh”, câu này được lặp lại suốt cả bộ kinh. Chẳng hạn, trong phẩm Bồ tát Sư Tử Hống:

Tiếng rống như sư tử (của Phật) gọi là nói một cách quyết định: Tất cả chúng sanh đều có (tất hữu) Phật tánh. Như Lai thường trụ, không có đổi khác”.

Chữ “tất”, có nghĩa là “đều, hết cả, trọn vẹn, toàn bộ”. Thế nên chúng ta có thể dịch là, “Tất cả chúng sanh đều có trọn vẹn, toàn bộ Phật tánh”. Phật tánh hiện hữu trọn vẹn, toàn bộ nơi mỗi chúng sanh, không phải tìm ở nơi đâu khác. Những pháp môn để khám phá nó chỉ là những phương tiện, chứ không tạo tác ra nó.

Người tin được mình đang sẳn có Phật tánh hay Như Lai tạng một cách trọn vẹn thì có Giới, Định, Huệ và Phật tánh trở thành cốt lõi xương sống của cuộc đời họ:

Nếu có người tu tập Như Lai tạng thường, lạc, ngã, tịnh thì dầu có phiền não nhưng chóng có thể diệt trừ, vì người này biết Như Lai tạng bí mật.

Nếu có người nói, ‘Thật có Như Lai tạng, dù chẳng thấy được nhưng nếu có thể diệt trừ tất cả phiền não thì được chứng nhập’. Nếu phát tâm ấy dù chỉ một niệm thì nhờ nhân duyên ấy bèn được tự tại đối với các pháp”. (phẩm Tứ Đế - phẩm Như Lai tánh).

 

Vốn sẳn có một cách trọn vẹn, tức là thường trụ:

Thiện nam tử! Phật tánh của chúng sanh thường trụ chẳng biến đổi” (phẩm Bồ tát Sư Tử Hống).

Thường trụ nghĩa là luôn luôn có mặt trong tất cả mọi không gianthời gian, là chưa hề lìa khỏi chúng sanh một giây phút nào dù bao nhiêu sanh tử. Cho nên, Đức Phật nói chúng sanhPhật tánh:

Nếu nói rằng trong chúng sanh riêng có Phật tánh, thì nghĩa ấy chẳng đúng. Vì sao thế? Chúng sanh tức là Phật tánh, Phật tánh tức là chúng sanh. Chỉ có thời gian khác nhau mà có tịnh và bất tịnh” (phẩm Bồ tát Ca Diếp).

Các hạng chúng sanh, từ thấp nhất cho đến các bậc thánh A La Hán, Bích Chi Phật, Bồ tát, chư Phật Thế Tôn đều chẳng lìa khỏi Phật tánh:

Thiện nam tử! Như bảy hạng chúng sanh trong sông Hằng, tuy có tên cá, rùa… nhưng thảy đều không lìa khỏi nước. Trong Đại Niết bàn vi diệu này, từ nhất xiển đề lên đến chư Phật, tuy tên khác nhau nhưng cũng chẳng lìa khỏi nước Phật tánh.

Thiện nam tử! Bảy loài chúng sanh ấy, hoặc pháp thiện hoặc pháp bất thiện, hoặc đạo phương tiện, hoặc đạo giải thoát, hoặc đạo thứ lớp, hoặc nhân hoặc quả…, tất cả đều là Phật tánh.

Đây gọi là lời Như Lai tự ý nói ra”. (phẩm Bồ tát Ca Diếp).

Thấy được như vậy, dù chỉ ít phần, là cái thấy của Trí HuệTừ Bi. Đó là cái thấy Phật tánh, mà chỉ có chư Phật mới thấy được hoàn toàn:

Thiện nam tử! Phật tánh chúng sanhcảnh giới của chư Phật, chẳng phải hàng Thanh Văn, Duyên Giác có thể biết”. (phẩm Bồ tát Sư Tử Hống).

 

Thường trụ là luôn luôn ở trước mắt. Nhưng tại sao chúng ta không thấy? Kinh nói nhiều lần cùng một mệnh đề, “chẳng phải… nhưng chẳng lìa”. Chẳng hạn:

Phật tánh chẳng phải tức sáu pháp, nhưng cũng chẳng lìa sáu pháp. Vì thế nên ta nói Phật tánh chúng sanh chẳng phải sắc, chẳng phải lìa sắc, cho đến chẳng phải ngã chẳng phải lìa ngã” (phẩm Bồ tát Sư Tử Hống).

Thiện nam tử! Phật tánh đây cũng là sắc, cũng là chẳng phải sắc, chẳng phải sắc chẳng phải là chẳng sắc; cũng là tướng cũng là chẳng phải tướng, chẳng phải tướng chẳng phải là chẳng phải tướng…” (phẩm Bồ tát Sư Tử Hống).

Chẳng phải sắc, tướng; cũng chẳng lìa sắc, tướng. Sắc và tướng là do cái thấy của thế gian, vô minh phân biệt mà có. Chẳng phải sắc, tướng là không dính dáng gì đến những sắc, tướng tạo thành thế gian sanh tử. Nhưng Phật tánh thì thường trụ, có mặt khắp nên không một sắc, một tướng nào, dù là hư giả, có thể lìa khỏi, nằm ngoài Phật tánh. Như hoa đốm giữa hư không, tuy là hư giả, nhưng không có hoa đốm nào lìa khỏi, nằm ngoài hư không.

 

Cho nên để thấy Phật tánh như hư không, hành giả phải lìa các sắc, các tướng hư vọng như hoa đốm do tâm thức phân biệt dệt thành. Khi không còn các sắc, các tướng hư giả che lấp, Phật tánh như hư không thường trụ hiện ra. Nhưng lìa các sắc, các tướng hư giả để tìm Phật tánh như hư không ở riêng ngoài các sắc, các tướng thì lại là một sai lầmPhật tánh như hư không không ở riêng ngoài các sắc, các tướng. Mà bản tánh của các sắc, các tướng chính là Phật tánh như hư không; bản tánh của hoa đốm chính là hư không.

Thấy tất cả các pháp đồng một tướng, đó là thấy Phật tánh:

Đại Bồ tát tu hành Đại Niết bàn, thấy biết pháp giới, hiểu rõ thật tướng là Không, vô sở hữu, không có các tướng hòa hợp của tri giác. Được tướng vô lậu, tướng vô tác, tướng như huyễn hóa, tướng như hơi nắng nóng, như thành Càn thát bà, tướng hư không.

Khi Bồ tát được các tướng như vậy thì không có tham, sân, si, chẳng nghe chẳng thấy. Đó gọi là Đại Bồ tát an trụ thật tướng.

Đại Bồ tát tu kinh Đại Niết bàn chẳng bám nắm tướng chúng sanh mà hiện làm ra thảy thảy tướng pháp.

Thiện nam tử! Ví như họa sư dùng đủ các thứ màu vẽ nên những hình tượng, hoặc nam, hoặc nữ, hoặc trâu, hoặc ngựa… Người phàm phu không có trí thấy đó thì sanh ra các tướng nam, nữ... Họa sư thì rõ biết không làm gì có tướng nam nữ. Đại Bồ tát cũng vậy, nơi các tướng sai khác nhau thấy là Một Tướng, chẳng bao giờ sanh cái thấy tướng chúng sanh. Vì sao thế? Vì có niệm huệ vậy” (phẩm Bồ tát Quang Minh Biến Chiếu). 

Thấy Không tướng, Một tướng là thấy Phật tánh

Tại sao vừa là Không tướng, vừa là Một tướng? Vì “chẳng phải sắc, chẳng phải là chẳng sắc; chẳng phải tướng, chẳng phải là chẳng phải tướng”. Thế nên, kinh nói Phật tánh là Không - Bất Không:

Thiện nam tử! Phật tánh đó gọi là Đệ nhất nghĩa Không, Đệ nhất nghĩa Không gọi là Trí huệ. Nói Không ấy là chẳng thấy Không và Bất Không

Người trí thì thấy cả Không cùng Bất Không, thường cùng vô thường, khổ cùng lạc, ngã cùng vô ngã. Không đó là tất cả sanh tử. Bất KhôngĐại Niết bàn. Cho đến vô ngã ấy, tức là sanh tử. Ngã ấy là Đại Niết bàn

Thấy tất cả là Không mà không thấy Bất Không thì chẳng gọi là Trung đạo. Cho đến thấy tất cả là vô ngã mà không thấy ngã thì chẳng gọi là Trung đạo.

Trung đạo ấy gọi là Phật tánh. Do nghĩa này nên Phật tánhthường hằng, không có biến đổi, vì vô minh che đậy khiến chúng sanh chẳng thể thấy được. Hàng Thanh Văn, Duyên Giác thấy tất cả là Không mà chẳng thấy Bất Không, cho đến thấy tất cả là vô ngã mà chẳng thấy ngã, do vậy nên chẳng đắc Đệ nhất nghĩa Không. Vì chẳng hiểu Đệ nhất nghĩa Không nên chẳng tu hành Trung đạo. Vì không tu hành Trung đạo nên chẳng thấy Phật tánh” (phẩm Bồ tát Sư Tử Hống). 

Nếu thấy và chứng tất cả là Không, đó là giải thoátNiết bàn của hàng Thanh Văn, Duyên Giác mà mức độ giải thoát tương đương với Địa thứ Tám của Đại thừa. Còn vượt lên ‘tất cả là Không’ để thấy và chứng cả thực tại Bất Không, thì Không - Bất Không này là Phật tánh Đại Niết bàn. Không - Bất KhôngTrung đạo. Trung đạo này được nói trong Bát Nhã Tâm Kinh bằng chữ “tức là”: “Sắc tức là Không, Không tức là sắc”. Kinh Đại Bát Niết Bàn nói: 

Không là nói không hai mươi lăm cõi hữu và các phiền não, tất cả sự khổ, tất cả tướng, tất cả hạnh hữu vi, như bình không nước thì gọi là không. Bất Không là nói thiện sắc chân thật: thường, lạc, ngã, tịnh, chẳng động chẳng biến”. (phẩm Tứ Tướng - phẩm Như Lai tánh). 

Không - Bất KhôngPhật tánh Trung đạo, là bản tánh của cả sanh tửNiết bàn. Vị chứng được bản tánh của cả sanh tửNiết bàn thì tự do đối với cả sanh tửNiết bàn

Không - Bất KhôngPhật tánh Trung đạo, về sau được các nhà Đại thừa gọi là Chân Không - Diệu Hữu

 

Một hành giả tu Bồ tát đạo phải thấy phương diện Bất Không này, nên Kinh nói nhiều đến việc thấy Bất Không. Kinh thường nói “Phật tánh là chẳng phải sắc nhưng cũng là sắc”. Thế nên bậc Giác Ngộ hoàn toànĐức Phật thì năm ấm đều thường trụ

Thiện nam tử! Nếu người có thể biết phiền não, nhân của phiền não, quả báo của phiền não, nặng nhẹ của phiền não, vì trừ phiền não nên chuyên cần tu Thánh đạo, người này chẳng do phiền não sanh sắc. Thọ tưởng hành thức cũng lại như vậy. 

Nếu chẳng biết phiền não, nhân, quả báo, nặng nhẹ của nó, chẳng chuyên cần tu tập, người ấy liền từ phiền não sanh sắc cho đến thọ tưởng hành thức

Thiện nam tử! Người rõ biết phiền não, nhân, quả báo, nặng nhẹ của nó, vì đoạn dứt phiền nãotu hành Thánh đạo, đây là Như Lai. Do nhân duyên này sắc của Như Lai là thường, cho đến thức là thường. 

Thiện nam tử! Người chẳng biết phiền não, nhân, quả báo, nặng nhẹ của nó, chẳng thể tu hành Thánh đạo, tức là phàm phu. Thế nên sắc của phàm phu thì vô thường, thọ tưởng hành thức cũng đều vô thường” (phẩm Bồ tát Ca Diếp). 

Sắc cho đến thọ tưởng hành thức của Như Lai là thường vì không có phiền não. Sắc cho đến bốn ấm kia của chúng sanh thì vô thường vì từ phiền não sanh. Sắc là thường cho nên sắc chính là Phật tánh

Đức Thế Tôn bảo Kiều Trần Như

Sắc là vô thường, do diệt sắc này được sắc giải thoát thường trụ. Thọ tưởng hành thức cũng là vô thường, do diệt thức này mà được thức giải thoát thường trụ

Kiều Trần Như! Sắc tức là khổ. Do diệt sắc này mà được sắc an lạc giải thoát. Thọ tưởng hành thức cũng lại như vậy. 

Kiều Trần Như! Sắc tức là không. Do diệt sắc trống không này mà được sắc giải thoát chẳng phải trống không. Thọ tưởng hành thức cũng lại như vậy. 

Kiều Trần Như! Sắc là vô ngã. Do diệt sắc này mà được sắc chân ngã giải thoát. Thọ tưởng hành thức cũng lại như vậy”. (phẩm Kiều Trần Như). 

Sắc thọ tưởng hành thức với người phàm là khổ, không, vô thường, vô ngã. Với Bồ tát chứng ngộ thật tướng, thì sắc thọ tưởng hành thứcan lạc, chẳng phải trống không, thường trụ, chân ngã. Như thế với Bồ tát chứng ngộ, sắc thọ tưởng hành thức chính là Phật tánh thường lạc ngã tịnh

 

Năm ấm vốn giải thoát, thường lạc ngã tịnh như vậy được Kinh gọi là “năm ấm thiện”:

Thiện nam tử! Tất cả những trói buộc vô minh phiền não đều là Phật tánh, vì là nhân của Phật tánh. Từ vô minh, hành và các phiền não mà được năm ấm thiện, đây gọi là Phật tánh (phẩm Bồ tát Ca Diếp).

Cho đến mười hai nhân duyên (duyên sanh), trong thật tướng của chúng, chính là Phật tánh

Không thường, không đoạn, mới gọi là Trung đạo. Không thường không đoạn tức là trí quán chiếu mười hai nhân duyên. Trí quán như vậy gọi là Phật tánh

Thiện nam tử! Trí huệ quán thấy mười hai nhân duyên này chính là chủng tử của Vô thượng Giác ngộ. Do nghĩa này nên mười hai nhân duyên gọi là Phật tánh

Thiện nam tử! Do nghĩa ấy nên mười hai nhân duyên chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng thường chẳng đoạn, chẳng phải một chẳng phải hai, chẳng đến chẳng đi, chẳng phải nhân chẳng phải quả. 

Chẳng phải nhân, chẳng phải quả, gọi là Phật tánh. Vì chẳng phải nhân quả nên thường hằng, bất biến”. (phẩm Bồ tát Sư Tử Hống). 

Bản tánh của mười hai nhân duyênpháp tánh (bản tánh của tất cả các pháp). Pháp tánh ấy chẳng sanh chẳng diệt, chẳng thường chẳng đoạn, chẳng đến chẳng đi, chẳng nhân chẳng quả... pháp tánh ấy là Phật tánh. Pháp tánh ấy chẳng thể hoại, là thân Như Lai, là Pháp thân, là Phật tánh

Phật bảo: Thiện nam tử! Chẳng thể lấy thí dụ để ví cho giải thoát chân thật. Vì giáo hóa chúng sanh mà đặt các thí dụ thôi. Do các thí dụ mà biết tánh của các pháp (chư pháp tánh) cũng giống như thế. 

Ca Diếp bạch Phật: Thân Như Lai không thể phá hoại. Vì sao thế? Vì không có cái thân hợp tụ, chỉ có pháp tánh. Tánh của pháp tánh chẳng thể hoại. Do nhân duyên này dẫn các thí dụ để hiểu được pháp chân thật. 

Bấy giờ Phật khen Bồ tát Ca Diếp: Lành thay! Lành thay! Thiện nam tử! Điều ta muốn nói nay ông đã nói”. (phẩm Như Lai tánh).

Pháp tánh hay Phật tánh được kinh gọi là Chân Ngã, và Pháp tánh Chân ngã ấy hiện diệnthường trụ trong tất cả các pháp vô ngã:

Bậc Đại Y Vương thương thế gian 

Thân và trí huệ đều tịch tịnh 

Trong pháp vô ngãchân ngã 

Nên tôi kính lễ Vô Thượng Tôn

(phẩm Bồ tát Ca Diếp

Sự lật ngược từ phiền não thành Bồ đề, từ thế giới phân biệt khổ đau thành Đại Niết bàn Phật tánh là sự lật người từ tướng thành tánh. Tất cả các tướng đều là Phật tánh

Khi nói rằng “Chúng sanh chính là Phật tánh, Phật tánh chính là chúng sanh” và Phật tánh ấy sẳn có, thường trụ, luôn luôn hiện diện thì có thể thấy rằng tất cả hoạt động thân, khẩu, ý của con người không ra ngoài Phật tánh và chính là Phật tánh. Đây là con đường của một hành giả, lấy Phật tánh làm Nền tảng, lấy Phật tánh làm Con đường và lấy Phật tánh làm Quả. 

Phật tánh, hay Phật, hay Đại Niết bàn không chỉ ở nơi mỗi người mà bao trùm vũ trụ, ở trong mọi không gian thời gian

Thiện nam tử! Chư Phật Như Lai chẳng khởi phiền não, đó gọi là Niết bàn. Có trí huệ vô ngại với tất cả pháp, đó là Như Lai. Như Lai chẳng phải phàm phu, Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ tát, đó gọi là Phật tánh. Thân, tâm, trí huệ Như Lai đầy khắp vô lượng, vô biên, vô số cõi, không gì chướng ngại, đó gọi là hư không. Như Lai thường trụ, không có biến đổi, gọi là thật tướng. Do vì nghĩa này, Như Lai quả thật rốt ráo chẳng nhập Niết bàn”. (phẩm Bồ tát Quang Minh Biến Chiếu). 

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 16687)
Life is a gift… accept it. Đời là một món quà, hãy nhận lấy. Life is an adventure… pare it. Đời là một cuộc phiêu lưu, hãy giảm dần.
(Xem: 24162)
Đến một lúc, mọi giông tố mịt mùng không che nổi sự bừng sáng của con tim và mọi khổ đau buồn tủi không đánh gục được niềm lạc quan tiềm ẩn trong một tinh thần.
(Xem: 20590)
Phật giáo đã bắt rễ dễ dàng trên mảnh đất Việt Nam. Những người nông dân Việt Nam đang đau khổ và khát vọng sự giải thoát, đã tiếp nhận Phật giáo một cách tự nhiên.
(Xem: 18836)
Ôn hiện thân vào đời năm Đinh Mùi, 1907, tại làng Dạ Lê Thượng, xã Thủy Phương, quận Hương Thủy, Thừa Thiên. Từ đó, Ôn đã mang hành trang của người giác ngộ...
(Xem: 21332)
Sáng sớm vị sư nữ ra mở cổng Tam Quan quét dọn. Sương mù còn giăng kín ngõ. Thoáng chút se lòng sư cô đứng lặng giữa sân như để tĩnh tâm hít thở,...
(Xem: 18287)
Ngày nay, tiền có ít nhất bốn chức năng trong việc phục vụ con người. Dù tốt hay xấu, nó là một phương tiện trao đổi không thể thiếu trong xã hội hiện tại.
(Xem: 19852)
Xung quanh ngôi thạch thất, thầy có trồng dăm loài hoa kiểng, ít cây ổi mận, đu đủ…. Ngày tháng trôi qua, cây trái đã trở nên xum xuê tươi mát, những chậu hoa cũng lấm tấm điểm một vài bông đỏ vàng rực rỡ.
(Xem: 14853)
Bồ đoàn nguyên nghĩa là cái nệm tròn đan bằng cỏ bồ, dùng để lót ngồi hay quỳ lạy. Cỏ bồ có lẽ giống như cỏ năn cỏ lát của nước mình, một thứ vật liệu đơn giản dễ sử dụng.
(Xem: 12979)
Chấp trước, mê chấp, chấp thủ là một trong những gông cùm làm khổ con người. Chính vì hiểu được nỗi khổ này mà Đức Phật luôn dạy các hàng đệ tử là phải phá chấp.
(Xem: 13969)
Nhìn lên bản đồ (kèm theo), ta sẽ thấy Huyền Trang đi theo một đường zigzag rộng lớn, dài hơn nửa đường biên Trung Quốc, vòng quanh nửa nước Ấn Độ...
(Xem: 13155)
Người hộ trì chánh pháp phải biết nhẫn nhục. Nhẫn nhục là biểu hiện sức mạnh nội tâm. Nhẫn nhục cò là phương thuốc thần hiệu để trị bệnh mình và bệnh người.
(Xem: 14016)
Tuổi trẻ học Phật không có mục đích trở thành nhà nghiên cứu Phật học, mà học Phật là tự thực tập khả năng tư duy bén nhạy, linh hoạt, để có thể nhìn thẳng vào bản chất sự sống.
(Xem: 17639)
Mỗi năm, đồng bào Khmer lại tổ chức lễ Sene dolta để con cháu trong gia đình biết ơn bà “chà đôl” và ơn ông “chà ta” đã dày công nuôi dưỡng, sinh thành.
(Xem: 15409)
Trong vô vàn tác phẩm âm nhạc của nhạc sĩ Lê Cao Phan, nhất là các tác phẩm âm nhạc Phật giáo, ca khúc Phật giáo Việt Nam ra đời như là một sự kết tinh trọn vẹn nhất...
(Xem: 14706)
Với chánh niệm, bạn có thể kiến lập bản thân mình trong hiện tại để có thể chạm vào các kỳ diệu của đời sống đang có sẵn trong khoảnh khắc ấy. Có thể sống được hạnh phúc...
(Xem: 14460)
Với người lạc quan, thế gian này tuyệt đối như cánh hoa hồng. Người bi quan trái lại, thấy nó đầy gai chướng. Nhưng đối với người thực tiễn, thế gian không tuyệt đối tươi đẹp...
(Xem: 17870)
Hòa Thượng luôn luôn ý thức về những trở ngại trên bước đường hoằng hóa lợi sinh của mình, nhưng với sự quyết tâm của mình trong tự lợilợi tha Ôn vẫn bước đi...
(Xem: 21911)
Tôi tình cờ đọc được thơ của Cao Thị Vạn Giả vào lúc còn đang học trung học. Một trong những tiểu thuyết mà tôi từng rất thích là tác phẩm Khung Cửa Hẹp của André Gide, do Bùi Giáng dịch.
(Xem: 19463)
Ngày nay nhớ lại quãng đời làm điệu mà tôi cảm thấy nuối tiếc. Quãng thời gian để chỏm sao mà quá nhiều kỷ niệm dễ thương. Những kỷ niệm đầy đạo tình, đạo vị trong chốn thiền môn.
(Xem: 20608)
Bác sĩ Henri Desrives là một khoa học gia hoạt động, vui vẻ và yêu nghề. Như mọi nhà trí thức khác, ông sống một cuộc đời rất thực tế và không buồn lưu ý đến những điều mà khoa học chưa giải thích được...
(Xem: 25144)
Chưa thấy ai/cái gì siêng năng như cái đồng hồ. Gő măi nhịp trường canh đều đặn từ giây này đến giây kế tiếp, từ phút này đến phút kia, từ giờ kia đến giờ nọ… cho đến khi hỏng, hoặc hết năng lượng, hết bin.
(Xem: 16881)
Hoa sen hay Liên hoa là loài hoa thanh khiết thiêng liêngvị trí tôn quý đặc biệt trong giáo nghĩa cùng với sức phát triển bao trùm trên nền văn hóa Phật giáo.
(Xem: 14726)
Trong lý tưởng Bồ tát đạo, có hai ý niệm quan hệ: Đại TríĐại Bi (hay Đại Hạnh). Đại Trí chỉ cho khả năng siêu việt soi thấu bản tính của vạn hữu.
(Xem: 19000)
Ôn Già Lam, chỉ ba tiếng ấy thôi cũng đủ làm ấm lòng bao lớp Tăng sinh của các Phật Học Viện: Báo Quốc - Huế, Phổ Ðà - Ðà Nẵng, Hải Ðức - Nha Trang, Già Lam - Sài Gòn.
(Xem: 22013)
Mùa thu lãng đãng trở về đưa theo từng cơn gió nhẹ, dịu mát. Cả bầu trời như trở mình sống lại, để chuyển rơi rụng những chiếc lá vàng.
(Xem: 20639)
Mở đầu là chuyện thiền sư Khương Tăng Hội từ Việt Nam chống gậy sang miền Giang Tả của Trung Quốc để truyền bá Phật pháp cách đây hơn 1.700 năm (vào năm 247 dương lịch)
(Xem: 25296)
Ngược xuôi trên dòng đời, đôi lúc nhớ về cội nguồn đã xa, tâm cảm kẻ lưu đày như thiền sư Tuệ Sỹ thoáng chốc bâng khuâng, ngậm ngùi như nhà thơ đã ghi lại trong thi phẩm Giấc Mơ Trường Sơn: Ngược xuôi nhớ nửa cung đàn Ai đem quán trọ mà ngăn nẻo về.
(Xem: 15774)
Cùng với tượng tròn (mà chúng tôi đã có dịp giới thiệu trên tập văn số 10) điêu khắc Phật giáo thời Lý, đặc biệt phải kể đến nhiều bức chạm nổi trên đá mà tinh khéo...
(Xem: 15779)
Trong đạo Phật thường nói ý là căn bản của hành động và lời nói. Khi suy nghĩ điều thiện thì lời nói sẽ lành và hành động khắc đẹp. Nghiệp là một thói quen...
(Xem: 20732)
Đọc thi ca chữ Hán và chữ Nôm của Thiền phái Trúc Lâm, có thể nêu lên những cảm hứng sau: Cảm hứng bản thể giải thoát, cảm hứng cõi thiên nhiên Phật nhiệm mầu...
(Xem: 17019)
Một khi ta cảm nhận được sự rộng lớn của cuộc sống này, và thấy được khả năng kinh nghiệm sự sống của mình là bao la đến đâu, thì chắc chắn ta sẽ hiểu được sự buông bỏ.
(Xem: 18642)
Trong văn học cũng như trong thực tế, người ta thường đề cập đến mùa thu có lá rơi, nhưng ít ai lại thấy thực tế hơn, chính xác hơn là trong bốn mùa, mùa nào cũng có lá rơi rụng cả.
(Xem: 20029)
Loại thức ăn thứ nhất là đoàn thực, tức là những thức ăn đi vào miệng của chúng ta. Chánh kiến cũng là biết phân biệt những đoàn thực có hại và những đoàn thực không có hại.
(Xem: 39320)
Vào độ thu, khi lúa chín rộ, những cánh đồng bát ngát như một tấm thảm vàng hoe. Nông dân đây đó tụ tập chúc mừng nhau một vụ mùa thắng lợi, và trời đất cũng hòa nhịp trong bầu không khí tràn ngập niềm hạnh phúc ấy.
(Xem: 31520)
Không có nhà tỷ phú nào không kiêu hãnh về tiền bạc, nhưng chính niềm kiêu hãnh ấy, lại tạo ra những sự lo lắng, sợ hãi, nghi ngờbất hạnh cho họ.
(Xem: 30665)
Thuở nhỏ cứ mỗi khi đến rằm tháng bảy, hình ảnh Đại Hiếu Mục Kiền Liên luôn hiện về trong tôi với đoản văn Bông Hồng Cài Aó của Thầy Nhất Hạnh.
(Xem: 36030)
Trong truyền thuyết dân gian phương Đông, rồng có chín con với hình dángsở thích hoàn toàn khác nhau. Các con của rồng được dân gian sử dụng làm linh vật trang trí ở những vị trí, những vật dụng với những ngụ ý đặc biệt khác nhau.
(Xem: 23879)
Một thời Thế Tôn trú ở Ràjagaha, tại Trúc Lâm, gọi các Tỷ kheo:Này các Tỷ kheo, đầy đủ năm đức tánh, người nữ nhân hoàn toàn không khả ý đối với người đàn ông.
(Xem: 26554)
Thuở mới đăng sơn cắm dùi khẩn đất làm chốn ẩn tu, sư lủi thủi một mình chẳng có móng đệ tử lăng xăng đón đưa phục dịch, sư tự vác cuốc, quẩy gánh...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant