Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phật Tánh: Sẳn CóThường Trụ, Trùm Khắp

24 Tháng Hai 202119:17(Xem: 5635)
Phật Tánh: Sẳn Có Và Thường Trụ, Trùm Khắp
Phật Tánh: Sẳn CóThường Trụ, Trùm Khắp


Nguyễn Thế Đăng

 Đời Như Tấm Gương Soi



Phật tánh
là tạng báu tánh giác (giác bảo tạng) mà tất cả chúng sanh đều sẳn có, như kho vàng ròng của người đàn bà nghèo khó vốn có ở trong nhà mình:

Phật dạy: Thiện nam tử! Ngã tức là nghĩa Như Lai tạng. Tất cả chúng sanh đều có (tất hữu) Phật tánh tức là nghĩa của ngã. Nghĩa của ngã như vậy từ xưa đến giờ thường bị vô lượng phiền não che đậy, thế nên chúng sanh không thấy được.

Thiện nam tử! Như người đàn bà nghèo khó trong nhà có kho tàng vàng ròng rất lớn, mọi người trong nhà không ai biết. Một hôm có người khách lạ khéo biết phương tiện bảo người đàn bà nghèo: ‘Nay tôi thuê cô dọn cỏ rác cho tôi’.

Người đàn bà nói: ‘Tôi không thể làm. Nếu ông có thể chỉ kho vàng cho tôi, tôi sẽ làm cho ông’. Người khách nói: ‘Tôi biết phương tiện để chỉ cho cô’. Người đàn bà nói: ‘Mọi người trong nhà tôi còn chẳng biết, huống chi là ông!’. Người khách lại nói: ‘Tôi có thể biết chắc chắn’. Người đàn bà nói: ‘Tôi rất muốn thấy, hãy chỉ cho tôi’.

Người ấy liền đào ngay trong nhà, lấy lên kho báu vàng ròng. Người đàn bà thấy, lòng rất vui mừng, nghĩ rất lạ lùng, tôn kính ngưỡng mộ vị ấy.

Thiện nam tử! Phật tánh của chúng sanh cũng như vậy, nhưng tất cả chúng sanh chẳng thể thấy được, như người đàn bà nghèo chẳng biết kho báu kia. Nay ta chỉ bày Phật tánh mà tất cả chúng sanh đang sở hữu nhưng bị các phiền não che đậy, như người đàn bà nghèo kia có kho tàng vàng ròng nhưng chẳng thể thấy. Hôm nay Như Lai chỉ bày cho tất cả chúng sanh kho báu tánh giác của họ, đó là Phật tánh. Chúng sanh thấy được rồi, sanh tâm hoan hỷ, quy ngưỡng Như Lai.

Người khéo biết phương tiện tức là Như Lai. Người nữ nghèo khó tức là vô lượng chúng sanh. Kho tàng vàng ròng tức là Phật tánh vậy” (phẩm Như Lai tánh).

Phật tánh hay Như Lai tạng mỗi chúng sanh đều sẳn có (sở hữu) chỉ vì các phiền não che đậy mà không thấy biết. Đức Phật có đầy đủ phương tiện để chỉ ra cho chúng sanh kho báu tánh giác sẳn có của mỗi người.

Nhất thiết chúng sanh tất hữu Phật tánh”, câu này được lặp lại suốt cả bộ kinh. Chẳng hạn, trong phẩm Bồ tát Sư Tử Hống:

Tiếng rống như sư tử (của Phật) gọi là nói một cách quyết định: Tất cả chúng sanh đều có (tất hữu) Phật tánh. Như Lai thường trụ, không có đổi khác”.

Chữ “tất”, có nghĩa là “đều, hết cả, trọn vẹn, toàn bộ”. Thế nên chúng ta có thể dịch là, “Tất cả chúng sanh đều có trọn vẹn, toàn bộ Phật tánh”. Phật tánh hiện hữu trọn vẹn, toàn bộ nơi mỗi chúng sanh, không phải tìm ở nơi đâu khác. Những pháp môn để khám phá nó chỉ là những phương tiện, chứ không tạo tác ra nó.

Người tin được mình đang sẳn có Phật tánh hay Như Lai tạng một cách trọn vẹn thì có Giới, Định, Huệ và Phật tánh trở thành cốt lõi xương sống của cuộc đời họ:

Nếu có người tu tập Như Lai tạng thường, lạc, ngã, tịnh thì dầu có phiền não nhưng chóng có thể diệt trừ, vì người này biết Như Lai tạng bí mật.

Nếu có người nói, ‘Thật có Như Lai tạng, dù chẳng thấy được nhưng nếu có thể diệt trừ tất cả phiền não thì được chứng nhập’. Nếu phát tâm ấy dù chỉ một niệm thì nhờ nhân duyên ấy bèn được tự tại đối với các pháp”. (phẩm Tứ Đế - phẩm Như Lai tánh).

 

Vốn sẳn có một cách trọn vẹn, tức là thường trụ:

Thiện nam tử! Phật tánh của chúng sanh thường trụ chẳng biến đổi” (phẩm Bồ tát Sư Tử Hống).

Thường trụ nghĩa là luôn luôn có mặt trong tất cả mọi không gianthời gian, là chưa hề lìa khỏi chúng sanh một giây phút nào dù bao nhiêu sanh tử. Cho nên, Đức Phật nói chúng sanhPhật tánh:

Nếu nói rằng trong chúng sanh riêng có Phật tánh, thì nghĩa ấy chẳng đúng. Vì sao thế? Chúng sanh tức là Phật tánh, Phật tánh tức là chúng sanh. Chỉ có thời gian khác nhau mà có tịnh và bất tịnh” (phẩm Bồ tát Ca Diếp).

Các hạng chúng sanh, từ thấp nhất cho đến các bậc thánh A La Hán, Bích Chi Phật, Bồ tát, chư Phật Thế Tôn đều chẳng lìa khỏi Phật tánh:

Thiện nam tử! Như bảy hạng chúng sanh trong sông Hằng, tuy có tên cá, rùa… nhưng thảy đều không lìa khỏi nước. Trong Đại Niết bàn vi diệu này, từ nhất xiển đề lên đến chư Phật, tuy tên khác nhau nhưng cũng chẳng lìa khỏi nước Phật tánh.

Thiện nam tử! Bảy loài chúng sanh ấy, hoặc pháp thiện hoặc pháp bất thiện, hoặc đạo phương tiện, hoặc đạo giải thoát, hoặc đạo thứ lớp, hoặc nhân hoặc quả…, tất cả đều là Phật tánh.

Đây gọi là lời Như Lai tự ý nói ra”. (phẩm Bồ tát Ca Diếp).

Thấy được như vậy, dù chỉ ít phần, là cái thấy của Trí HuệTừ Bi. Đó là cái thấy Phật tánh, mà chỉ có chư Phật mới thấy được hoàn toàn:

Thiện nam tử! Phật tánh chúng sanhcảnh giới của chư Phật, chẳng phải hàng Thanh Văn, Duyên Giác có thể biết”. (phẩm Bồ tát Sư Tử Hống).

 

Thường trụ là luôn luôn ở trước mắt. Nhưng tại sao chúng ta không thấy? Kinh nói nhiều lần cùng một mệnh đề, “chẳng phải… nhưng chẳng lìa”. Chẳng hạn:

Phật tánh chẳng phải tức sáu pháp, nhưng cũng chẳng lìa sáu pháp. Vì thế nên ta nói Phật tánh chúng sanh chẳng phải sắc, chẳng phải lìa sắc, cho đến chẳng phải ngã chẳng phải lìa ngã” (phẩm Bồ tát Sư Tử Hống).

Thiện nam tử! Phật tánh đây cũng là sắc, cũng là chẳng phải sắc, chẳng phải sắc chẳng phải là chẳng sắc; cũng là tướng cũng là chẳng phải tướng, chẳng phải tướng chẳng phải là chẳng phải tướng…” (phẩm Bồ tát Sư Tử Hống).

Chẳng phải sắc, tướng; cũng chẳng lìa sắc, tướng. Sắc và tướng là do cái thấy của thế gian, vô minh phân biệt mà có. Chẳng phải sắc, tướng là không dính dáng gì đến những sắc, tướng tạo thành thế gian sanh tử. Nhưng Phật tánh thì thường trụ, có mặt khắp nên không một sắc, một tướng nào, dù là hư giả, có thể lìa khỏi, nằm ngoài Phật tánh. Như hoa đốm giữa hư không, tuy là hư giả, nhưng không có hoa đốm nào lìa khỏi, nằm ngoài hư không.

 

Cho nên để thấy Phật tánh như hư không, hành giả phải lìa các sắc, các tướng hư vọng như hoa đốm do tâm thức phân biệt dệt thành. Khi không còn các sắc, các tướng hư giả che lấp, Phật tánh như hư không thường trụ hiện ra. Nhưng lìa các sắc, các tướng hư giả để tìm Phật tánh như hư không ở riêng ngoài các sắc, các tướng thì lại là một sai lầmPhật tánh như hư không không ở riêng ngoài các sắc, các tướng. Mà bản tánh của các sắc, các tướng chính là Phật tánh như hư không; bản tánh của hoa đốm chính là hư không.

Thấy tất cả các pháp đồng một tướng, đó là thấy Phật tánh:

Đại Bồ tát tu hành Đại Niết bàn, thấy biết pháp giới, hiểu rõ thật tướng là Không, vô sở hữu, không có các tướng hòa hợp của tri giác. Được tướng vô lậu, tướng vô tác, tướng như huyễn hóa, tướng như hơi nắng nóng, như thành Càn thát bà, tướng hư không.

Khi Bồ tát được các tướng như vậy thì không có tham, sân, si, chẳng nghe chẳng thấy. Đó gọi là Đại Bồ tát an trụ thật tướng.

Đại Bồ tát tu kinh Đại Niết bàn chẳng bám nắm tướng chúng sanh mà hiện làm ra thảy thảy tướng pháp.

Thiện nam tử! Ví như họa sư dùng đủ các thứ màu vẽ nên những hình tượng, hoặc nam, hoặc nữ, hoặc trâu, hoặc ngựa… Người phàm phu không có trí thấy đó thì sanh ra các tướng nam, nữ... Họa sư thì rõ biết không làm gì có tướng nam nữ. Đại Bồ tát cũng vậy, nơi các tướng sai khác nhau thấy là Một Tướng, chẳng bao giờ sanh cái thấy tướng chúng sanh. Vì sao thế? Vì có niệm huệ vậy” (phẩm Bồ tát Quang Minh Biến Chiếu). 

Thấy Không tướng, Một tướng là thấy Phật tánh

Tại sao vừa là Không tướng, vừa là Một tướng? Vì “chẳng phải sắc, chẳng phải là chẳng sắc; chẳng phải tướng, chẳng phải là chẳng phải tướng”. Thế nên, kinh nói Phật tánh là Không - Bất Không:

Thiện nam tử! Phật tánh đó gọi là Đệ nhất nghĩa Không, Đệ nhất nghĩa Không gọi là Trí huệ. Nói Không ấy là chẳng thấy Không và Bất Không

Người trí thì thấy cả Không cùng Bất Không, thường cùng vô thường, khổ cùng lạc, ngã cùng vô ngã. Không đó là tất cả sanh tử. Bất KhôngĐại Niết bàn. Cho đến vô ngã ấy, tức là sanh tử. Ngã ấy là Đại Niết bàn

Thấy tất cả là Không mà không thấy Bất Không thì chẳng gọi là Trung đạo. Cho đến thấy tất cả là vô ngã mà không thấy ngã thì chẳng gọi là Trung đạo.

Trung đạo ấy gọi là Phật tánh. Do nghĩa này nên Phật tánhthường hằng, không có biến đổi, vì vô minh che đậy khiến chúng sanh chẳng thể thấy được. Hàng Thanh Văn, Duyên Giác thấy tất cả là Không mà chẳng thấy Bất Không, cho đến thấy tất cả là vô ngã mà chẳng thấy ngã, do vậy nên chẳng đắc Đệ nhất nghĩa Không. Vì chẳng hiểu Đệ nhất nghĩa Không nên chẳng tu hành Trung đạo. Vì không tu hành Trung đạo nên chẳng thấy Phật tánh” (phẩm Bồ tát Sư Tử Hống). 

Nếu thấy và chứng tất cả là Không, đó là giải thoátNiết bàn của hàng Thanh Văn, Duyên Giác mà mức độ giải thoát tương đương với Địa thứ Tám của Đại thừa. Còn vượt lên ‘tất cả là Không’ để thấy và chứng cả thực tại Bất Không, thì Không - Bất Không này là Phật tánh Đại Niết bàn. Không - Bất KhôngTrung đạo. Trung đạo này được nói trong Bát Nhã Tâm Kinh bằng chữ “tức là”: “Sắc tức là Không, Không tức là sắc”. Kinh Đại Bát Niết Bàn nói: 

Không là nói không hai mươi lăm cõi hữu và các phiền não, tất cả sự khổ, tất cả tướng, tất cả hạnh hữu vi, như bình không nước thì gọi là không. Bất Không là nói thiện sắc chân thật: thường, lạc, ngã, tịnh, chẳng động chẳng biến”. (phẩm Tứ Tướng - phẩm Như Lai tánh). 

Không - Bất KhôngPhật tánh Trung đạo, là bản tánh của cả sanh tửNiết bàn. Vị chứng được bản tánh của cả sanh tửNiết bàn thì tự do đối với cả sanh tửNiết bàn

Không - Bất KhôngPhật tánh Trung đạo, về sau được các nhà Đại thừa gọi là Chân Không - Diệu Hữu

 

Một hành giả tu Bồ tát đạo phải thấy phương diện Bất Không này, nên Kinh nói nhiều đến việc thấy Bất Không. Kinh thường nói “Phật tánh là chẳng phải sắc nhưng cũng là sắc”. Thế nên bậc Giác Ngộ hoàn toànĐức Phật thì năm ấm đều thường trụ

Thiện nam tử! Nếu người có thể biết phiền não, nhân của phiền não, quả báo của phiền não, nặng nhẹ của phiền não, vì trừ phiền não nên chuyên cần tu Thánh đạo, người này chẳng do phiền não sanh sắc. Thọ tưởng hành thức cũng lại như vậy. 

Nếu chẳng biết phiền não, nhân, quả báo, nặng nhẹ của nó, chẳng chuyên cần tu tập, người ấy liền từ phiền não sanh sắc cho đến thọ tưởng hành thức

Thiện nam tử! Người rõ biết phiền não, nhân, quả báo, nặng nhẹ của nó, vì đoạn dứt phiền nãotu hành Thánh đạo, đây là Như Lai. Do nhân duyên này sắc của Như Lai là thường, cho đến thức là thường. 

Thiện nam tử! Người chẳng biết phiền não, nhân, quả báo, nặng nhẹ của nó, chẳng thể tu hành Thánh đạo, tức là phàm phu. Thế nên sắc của phàm phu thì vô thường, thọ tưởng hành thức cũng đều vô thường” (phẩm Bồ tát Ca Diếp). 

Sắc cho đến thọ tưởng hành thức của Như Lai là thường vì không có phiền não. Sắc cho đến bốn ấm kia của chúng sanh thì vô thường vì từ phiền não sanh. Sắc là thường cho nên sắc chính là Phật tánh

Đức Thế Tôn bảo Kiều Trần Như

Sắc là vô thường, do diệt sắc này được sắc giải thoát thường trụ. Thọ tưởng hành thức cũng là vô thường, do diệt thức này mà được thức giải thoát thường trụ

Kiều Trần Như! Sắc tức là khổ. Do diệt sắc này mà được sắc an lạc giải thoát. Thọ tưởng hành thức cũng lại như vậy. 

Kiều Trần Như! Sắc tức là không. Do diệt sắc trống không này mà được sắc giải thoát chẳng phải trống không. Thọ tưởng hành thức cũng lại như vậy. 

Kiều Trần Như! Sắc là vô ngã. Do diệt sắc này mà được sắc chân ngã giải thoát. Thọ tưởng hành thức cũng lại như vậy”. (phẩm Kiều Trần Như). 

Sắc thọ tưởng hành thức với người phàm là khổ, không, vô thường, vô ngã. Với Bồ tát chứng ngộ thật tướng, thì sắc thọ tưởng hành thứcan lạc, chẳng phải trống không, thường trụ, chân ngã. Như thế với Bồ tát chứng ngộ, sắc thọ tưởng hành thức chính là Phật tánh thường lạc ngã tịnh

 

Năm ấm vốn giải thoát, thường lạc ngã tịnh như vậy được Kinh gọi là “năm ấm thiện”:

Thiện nam tử! Tất cả những trói buộc vô minh phiền não đều là Phật tánh, vì là nhân của Phật tánh. Từ vô minh, hành và các phiền não mà được năm ấm thiện, đây gọi là Phật tánh (phẩm Bồ tát Ca Diếp).

Cho đến mười hai nhân duyên (duyên sanh), trong thật tướng của chúng, chính là Phật tánh

Không thường, không đoạn, mới gọi là Trung đạo. Không thường không đoạn tức là trí quán chiếu mười hai nhân duyên. Trí quán như vậy gọi là Phật tánh

Thiện nam tử! Trí huệ quán thấy mười hai nhân duyên này chính là chủng tử của Vô thượng Giác ngộ. Do nghĩa này nên mười hai nhân duyên gọi là Phật tánh

Thiện nam tử! Do nghĩa ấy nên mười hai nhân duyên chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng thường chẳng đoạn, chẳng phải một chẳng phải hai, chẳng đến chẳng đi, chẳng phải nhân chẳng phải quả. 

Chẳng phải nhân, chẳng phải quả, gọi là Phật tánh. Vì chẳng phải nhân quả nên thường hằng, bất biến”. (phẩm Bồ tát Sư Tử Hống). 

Bản tánh của mười hai nhân duyênpháp tánh (bản tánh của tất cả các pháp). Pháp tánh ấy chẳng sanh chẳng diệt, chẳng thường chẳng đoạn, chẳng đến chẳng đi, chẳng nhân chẳng quả... pháp tánh ấy là Phật tánh. Pháp tánh ấy chẳng thể hoại, là thân Như Lai, là Pháp thân, là Phật tánh

Phật bảo: Thiện nam tử! Chẳng thể lấy thí dụ để ví cho giải thoát chân thật. Vì giáo hóa chúng sanh mà đặt các thí dụ thôi. Do các thí dụ mà biết tánh của các pháp (chư pháp tánh) cũng giống như thế. 

Ca Diếp bạch Phật: Thân Như Lai không thể phá hoại. Vì sao thế? Vì không có cái thân hợp tụ, chỉ có pháp tánh. Tánh của pháp tánh chẳng thể hoại. Do nhân duyên này dẫn các thí dụ để hiểu được pháp chân thật. 

Bấy giờ Phật khen Bồ tát Ca Diếp: Lành thay! Lành thay! Thiện nam tử! Điều ta muốn nói nay ông đã nói”. (phẩm Như Lai tánh).

Pháp tánh hay Phật tánh được kinh gọi là Chân Ngã, và Pháp tánh Chân ngã ấy hiện diệnthường trụ trong tất cả các pháp vô ngã:

Bậc Đại Y Vương thương thế gian 

Thân và trí huệ đều tịch tịnh 

Trong pháp vô ngãchân ngã 

Nên tôi kính lễ Vô Thượng Tôn

(phẩm Bồ tát Ca Diếp

Sự lật ngược từ phiền não thành Bồ đề, từ thế giới phân biệt khổ đau thành Đại Niết bàn Phật tánh là sự lật người từ tướng thành tánh. Tất cả các tướng đều là Phật tánh

Khi nói rằng “Chúng sanh chính là Phật tánh, Phật tánh chính là chúng sanh” và Phật tánh ấy sẳn có, thường trụ, luôn luôn hiện diện thì có thể thấy rằng tất cả hoạt động thân, khẩu, ý của con người không ra ngoài Phật tánh và chính là Phật tánh. Đây là con đường của một hành giả, lấy Phật tánh làm Nền tảng, lấy Phật tánh làm Con đường và lấy Phật tánh làm Quả. 

Phật tánh, hay Phật, hay Đại Niết bàn không chỉ ở nơi mỗi người mà bao trùm vũ trụ, ở trong mọi không gian thời gian

Thiện nam tử! Chư Phật Như Lai chẳng khởi phiền não, đó gọi là Niết bàn. Có trí huệ vô ngại với tất cả pháp, đó là Như Lai. Như Lai chẳng phải phàm phu, Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ tát, đó gọi là Phật tánh. Thân, tâm, trí huệ Như Lai đầy khắp vô lượng, vô biên, vô số cõi, không gì chướng ngại, đó gọi là hư không. Như Lai thường trụ, không có biến đổi, gọi là thật tướng. Do vì nghĩa này, Như Lai quả thật rốt ráo chẳng nhập Niết bàn”. (phẩm Bồ tát Quang Minh Biến Chiếu). 

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 15621)
Mấy hôm nay, trời bắt đầu sang thu, thời tiết đã dần dần dịu lại, không khí mỗi lúc trở nên mát mẻ. Chỉ còn độ mươi ngày nữa thôi là đến ngày Lễ Vu Lan rồi.
(Xem: 17872)
Thử hình dung vào một ngày giữa năm Canh Dần 1920, Người đau nặng và trời nổi gió. Bên ngoài sấm rền, còn bên gối thì Người lấy ngón tay gõ nhịp...
(Xem: 13309)
Muốn hạnh phúc, mục tiêu chính của chúng ta là phải chiến đấu với những cảm xúc khổ đau này. Chúng ta chỉ có thể đạt được hạnh phúc khi chúng ta quyết tâmnỗ lực tu tập...
(Xem: 12162)
Trên con phố đìu hiu, buông rơi tình, mỏi mòn thả dài xuống làn sợi tóc sương ngon ngọt, thấm da buốt thịt, vì áo xanh tơ trời đã mòn mỏng theo năm tháng, không đủ để chở qua cơn giá lạnh...
(Xem: 14198)
Hành tung của chư vị Bồ Tát, mang nhục thân thị hiện cõi Ta bà, hóa độ chúng sanh, bằng cái nhìn bình thường của con người không thể nào biết được.
(Xem: 13838)
Vanga sinh ngày 31/1/1911, mất ngày 11/8/1996. Bà sống ẩn dật cả đời ở vùng hẻo lánh Kozhuth thuộc Petrich, Bungary. Vanga mất thị lực năm 12 tuổi...
(Xem: 13706)
Một ngày mùa đông năm Dân quốc thứ 25, trên tòa giảng trong chùa Cổ Lâm tại Nam Kinh, Hòa thượng Tuệ Học đang giảng kinh “Bát Đại Nhân Giác”.
(Xem: 14465)
Trên bàn thờ Phật hương tàn đã lâu. Hai cây nến đỏ cháy cũng gần hết. Ánh sáng lung linh mờ ảo trên mặt tượng Phật. Ẩn hiện nét cười hiền, siêu thoát.
(Xem: 16414)
Bố mẹ đi làm về. Bé gái miệng rất tươi: "Con chào bố mẹ ạ. Bố mẹ chào ông đi chứ?" Bố mẹ của bé lẳng lặng đi lên lầu.
(Xem: 21021)
Ngày còn nhỏ, tôi thường nghe dì dượng kể về chuyện tình của họ. Một tình yêu thật đẹp được tô điểm bằng những tình khúc của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn...
(Xem: 22179)
Tiến trình lịch nghiệm của con người được trải dài theo từng tiếng khóc, tiếng cười tự thủa nằm nôi. Ai trong chúng ta không có tiếng khóc đầu đời, nụ cười măng sữa?
(Xem: 12827)
MỤC NGƯU ĐỔ là tranh chăn trâu. Tranh ra đời tự triều đại nào, dưới ngọn bút lông nào, khó mà tra cứu cho đích xác được.
(Xem: 13662)
Tôi sinh ra dưới một mái chùa. Nghe kể rằng sư phụ tôi khi ấy còn trẻ, một hôm đi ngang bỗng động tâm hỏi: "Mô Phật, sao sau chùa lại phơi tã lót?"
(Xem: 23140)
Thơ thiền là một bộ phận của thơ nói chung. Thơ, dù là thơ thiền, thì cũng không thể đi ra ngoài nguyên lý của nó. Ở Trung Quốc, nguyên lý tối cổ của thơ...
(Xem: 13317)
Tôi sinh ra thì thế chiến II đang hồi kết thúc. Lớn lên chút nữa, khi biết nghe và hiểu, những chuyện vãn người lớn về việc đánh nhau đâu đó...
(Xem: 30185)
Văn hóa học là một ngành khoa học nghiên cứu về văn hóa còn khá non trẻ so với các ngành khoa học khác như triết học, toán học, xã hội học, nhân chủng học...
(Xem: 13517)
Ngày xửa ngày xưa có một cây táo rất to. Một cậu bé rất thích đến chơi với cây táo hàng ngày. Cậu bé rất yêu cây táo...
(Xem: 13246)
Tiếng sẻ gọi nhau trong nắng mai thật quá hiếm giữa những âm thanh rộn ràng khác. Trước mặt nhà của nhà thơ Quách Tấn chúng ta...
(Xem: 12939)
Những ngọn sóng cứ đập vào vách đá, hôm kia, hôm qua, rồi hôm nay cũng vậy. Mà hình như chưa bao giờ ngừng nghỉ, những con sóng cứ lô xô...
(Xem: 12842)
Cứ đúng mười hai giờ trưa chú Tâm Mãn, trịnh trọng trong chiếc áo năm thân màu lam, mang bình bát đựng cơm cúng Phật đặt lên bàn giữa của Tổ đường...
(Xem: 12872)
Sắp Tết đến nơi rồi. Ngồi bên vỉa hè ngập nắng trước ngôi chùa suốt ngày đóng cổng tam quan im ỉm tịch lặng, dì Thanh rơm rớm nước mắt nhìn dòng người ngược xuôi...
(Xem: 14076)
Sau khi thỉnh được 107 tiếng đại hồng chung, chú Tâm Thể dùng cán vồ chuông khẻ điểm hai tiếng keng keng trên lưng chuông để báo hiệu cho sư huynh...
(Xem: 15130)
Hằng năm cứ vào cuối thu, lá ngoài đường rụng nhiều và trên không có những đám mây bàng bạc, lòng tôi lại nao nức những kỷ niệm hoang mang của buổi tựu trường.
(Xem: 22027)
Kinh ThiKinh Dịch như đôi cánh của con chim nhạn mang chở định mệnh lịch sử của Trung Hoa bay lượn suốt mấy mươi thế kỷ trên vòm trời Viễn Đông.
(Xem: 15011)
Từ bộ phim khiến cho người xem liên tưởngso sánh với giáo điều của Phật gia ở nhiều chiều. Đặc biệt bộ phim rất ấn tượng và sâu sắc...
(Xem: 14273)
Một ngày kia, mẹ bất chợt đến thăm. Nhiều năm rồi bà không gặp tôi, thậm chí bà cũng chưa bao giờ nhìn thấy các cháu. Khi thấy một bà già...
(Xem: 19487)
Thiền sư là những vị chuyên tâm hành thiền và thông hiểu thiền định. Thiền là tiến trình tu tập đưa đến giải thoátgiác ngộ...
(Xem: 14176)
Cứ theo truyền thuyết Trung Hoa thì kẻ sanh trước loài người là ông Bàn Cổ làm chúa thiên hạ. Kế đó là vua Thiên Hoàng , Ðịa Hoàng và Nhơn Hoàng...
(Xem: 13315)
Tố Như, đó là trái tim cảm ứng với thiên thu, quán chiếu muôn đời trái tim Bồ Tát. Ðó là ánh sáng soi thấu vạn tượng, cảm chiếu chúng sinh.
(Xem: 12708)
Mưa thu rả rích, trời thu ảm đạm một màu, thỉnh thoảng một trận gió ào ào lùa qua khóm lá. Con đường mòn dẫn đến đỉnh núi gập ghềnh, khúc khuỷu...
(Xem: 12816)
Thời Phật Ca Diếp có một vị tỳ kheo trẻ tuổi, xướng tán rất hay. Khi cùng ở chung một chỗ với các vị tỳ kheo khác, thầy hay lộ vẻ kiêu ngạo...
(Xem: 15761)
Đứng bên ngoài khung cổng sắt đã khóa kỹ, Nghi nép vào hàng dậu được kết bằng cây dâm bụt, nhìn vào bóng tối yên lặng đang bao trùm cả tu viện.
(Xem: 12217)
Có người hỏi tôi rằng: “Thưa Thầy, phải sống làm sao cho thoải mái, không bị mọi thứ chi phối mình và phải giải quyết cuộc sống nầy ra sao, khi khổ đau đưa đến?”
(Xem: 13462)
Chùa nằm trên một cồn đất nhỏ bên cạnh dòng sông quanh năm nước lớn. Đêm, nghe tiếng ễnh ương ồm oam hòa với tiếng nước vỗ lên bờ kè đá...
(Xem: 15096)
Nếu như tháp là hình ảnh biểu trưng của Đức Phật vốn mang tính ước lệ, thì tượng lại thuộc dòng chảy nghệ thuật điêu khắc mang tính nhân dạng...
(Xem: 14801)
Người Việt có một câu nói: Mỹ là thiên đường giới trẻ, địa ngục giới già. Nay tôi đã vào cái tuổi giữa 70, câu nói này thật là thấm thía... Ôi, Thấm Thía, Tuổi Già Ở Mỹ ! Nguyễn Đức Nguyên
(Xem: 12394)
Cô gái Việt Nam vô cùng rụt rè xuất hiện trước cửa văn phòng giáo sư Baddley sau tiếng gõ rất khẽ. Anh chàng trợ lý có gương mặt rất sáng...
(Xem: 13865)
Năm ứng thân của đức Phật được 80 tuổi, Ngài đưa A Nan đi hành hóa tới tháp Già Bà La, ở đấy có rất nhiều vị tỳ kheo vân tập.
(Xem: 16398)
Rằm tháng Tư có ba sự kiện quan trọng mà người Phật tử nào cũng biết. Đó là ngày Phật đản sanh, thành đạoniết bàn, gọi chung là ngày lễ Vesak
(Xem: 14578)
Đã tròn một năm con xa quê. Ngày ấy ra đi mưa rơi dầm dề, nước chảy từng dòng len lỏi qua từng ngõ xóm. Ở nơi mới này, con vẫn thường thả bộ...
(Xem: 17545)
Những ý nguyện cuối cùng của ngài Alexander Đại Đế khi sắp chết. Ngài Alexander Đại Đế cho triệu tập các quan trong triều đình...
(Xem: 12963)
Yếu tính của Phật pháp là sự vận hành diệu dụng của từ bitrí tuệ. Cho nên, Phật pháp trước hết là ngôi nhà dưỡng lão, là viện cô nhi, là trại tế bần.
(Xem: 14826)
Anh đã ra đi từ đó, từ thời buổi hỗn mang. Trong từng khoảnh khắc sát na, từng quãng liên tục vi tế của hạt bụi, anh từ chối chính mình.
(Xem: 14590)
Đến tháng 10 khi cây lá ở miền đông bắc Hoa Kỳ đã ngã vàng, người ta thấy ở khắp các thị trấn, thành phố và vùng quê đều có những hình ảnh...
(Xem: 28527)
Việt Nam là một trong những nước ở vùng Đông Nam Á, nhiệt đới gió mùa được thiên nhiên ưu đãi, nên có nhiều loại trái cây độc đáo.
(Xem: 14120)
Theo qui chế nhà chùa, Sa di (danh từ gọi chung cho các chú tiểu) được chia làm hai hạng: hạng thứ nhất, tuổi từ 7 đến 12, gọi là Sa di Khu Ô...
(Xem: 13245)
Ngày của Mẹ, xin tặng một đóa hoa hồng cho những ai còn Mẹ. Và xin tặng một biển hoa hồng cho những ai mất mẹ vì biển hoa hồng ấy như lá rừng lao xao...
(Xem: 13884)
Kể lại câu chuyện tại sao tôi quy-y Phật giáo thì hơi dài và cũng hơi phức tạp, câu chuyện đó có vẻ như một vở tuồng nhiều tình tiết...
(Xem: 10659)
Kinh nghiệm sống là kinh nghiệm đầu tiên và tối cùng của hy vọngthất vọng, của hạnh phúc và khổ đau – ta mơ ước quá nhiều, nên ta khổ đau càng lắm...
(Xem: 14796)
Thuở nhỏ, gia đình cậu bé rất nghèo, tới bữa, chẳng mấy khi có đủ cơm ăn, mẹ liền lấy cơm ở trong chén mình chia đều cho các con.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant