Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Lòng Tin Quyết Định Vào Nền Tảng Phật Tánh

20 Tháng Tư 202119:14(Xem: 3241)
Lòng Tin Quyết Định Vào Nền Tảng Phật Tánh

Lòng Tin Quyết Định Vào Nền Tảng Phật Tánh

Nguyễn Thế Đăng

chu tieu 5

 

Kinh Đại Bát Niết Bàn nói:

Phật tánh gọi là đại tín tâm. Vì do tín tâmĐại Bồ tát được đầy đủ Bố thí ba la mật cho đến Bát nhã ba la mật. Tất cả chúng sanh quyết định sẽ được đại tín tâm, do vậy nên nói tất cả chúng sanh đều có Phật tánh. Đại tín tâm chính là Phật tánh. Phật tánh chính là Như Lai” (phẩm Bồ tát Sư Tử Hống).

Lòng tin làm xóa tan sự phân cách giữa chủ thể và đối tượng và hòa nhập chủ thể vào đối tượng. Lòng tin làm chúng ta vượt khỏi những phiền não che chướng để tiếp xúc và hòa nhập với Phật tánh như là đại tín tâm. Lòng tin giúp chúng ta vượt khỏi những giới hạn không gian thời gian để hòa nhập vào “biển cả Phật tánh”.

Phật tánh là nền tảng thường trụ của lòng tin, cho nên kinh gọi là Đại tín tâm. Chính trên nền tảng Phật tánh đại tín tâm này mà tất cả các hạnh Bồ tát được triển khai. Tất cả các hạnh Bồ tát chính là sự triển khai của nền tảng Phật tánh này và sự triển khai các hạnh Bồ tát giúp cho Bồ tát “nhập pháp giới Phật tánh”. Đây chính là đại tín tâm.

Lòng tin là tin vào nền tảng Pháp thân vô biên vô ngại và các phẩm tính trong nền tảng ấy. Cũng đoạn kinh này nói:

Thiện nam tử! Như Lai thường trụ gọi là Ngã. Pháp thân Như Laivô biên vô ngại, là chẳng sanh chẳng diệt, được đủ tám tự tại nên gọi là Ngã. Ngã ấy chính là Đệ nhất nghĩa Không.

Đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả chính là Phật tánh. Phật tánh chính là Như Lai.

Nhất tử địa chính là Phật tánh, Phật tánh chính là Như Lai.

Trí lực thứ tư, mười hai nhân duyên, bốn trí vô ngại, Đảnh tam muội chính là Phật tánh, Phật tánh chính là Như Lai” (phẩm Bồ tát Sư Tử Hống).

Lòng tin là tin vào Phật tánh Pháp thân Như Lai vô biên vô ngại, chẳng sanh chẳng diệt, có đủ tám tự tại, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, nhất tử địa, trí lực thứ tư, đảnh tam muội. Và tất cả các hạnh Bồ tát, trí huệ, thiền định… đều không thể ra ngoài Phật tánh Pháp thân vô biên vô ngại này. Lòng tin là tin vào Phật tánh Pháp thân là nền tảng thường trụ cho mọi sự tu hành. Lòng tin là tin rằng chúng sanh chúng ta chẳng bao giờ có thể lìa ngoài Phật tánh vô biên vô ngại này, dù có đang sống theo cách thế nào. Nói cách khác, chúng ta dù có thế nào, vẫn đang sống trong Phật tánh, chẳng qua vì vô minh che chướng cho nên Phật tánh chưa hiện tiền mà thôi.

Lòng tin là tin rằng Phật tánh tổng nhiếp tất cả Phật pháp, và tất cả mọi pháp môn đều lưu xuất từ nền tảng Phật tánh.

Phật tánh gọi là Đảnh tam muội. Vì do tu hành Đảnh tam muội này nên có thể tổng nhiếp tất cả Phật pháp, do đây nên nói Đảnh tam muộiPhật tánh. Thập trụ Bồ tát tu tam muội này chưa được đầy đủ, nên tuy thấy Phật tánh mà chẳng rõ ràng. Vì tất cả chúng sanh quyết định được, nên nói rằng tất cả chúng sanh đều có Phật tánh”.

Tóm lại, lòng tin là tin rằng tất cả chúng sanh đều vốn có Phật tánh và đang sống trong Phật tánh. Con đường đi đến Phật tánh trọn vẹn cũng và luôn luôn nằm trong Nền tảng Phật tánh vốn có sẳn này.

 

Tin vào nền tảng Phật tánhlòng tin quyết định:

Lại có Tỳ kheo nói kinh điển tạng bí mật rất sâu của Phật, “Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, vì tánh này đoạn dứt vô lượng ức phiền não trói buộc bèn được thành Vô thượng Chánh giác, trừ hạng nhất xiển đề”. Nếu có vua hoặc đại thần thưa hỏi rằng: ‘Tỳ kheo, ông sẽ thành Phật hay chẳng thành Phật? Ông có Phật tánh chăng?’ Vị Tỳ kheo ấy đáp, ‘Trong thân đây của tôi quyết địnhPhật tánh, còn thành Phật hay chẳng thành thì chưa có thể xác định rõ. Vua lại nói, ‘Đại đức không phải hạng nhất xiển đề ắt sẽ thành Phật, không nghi ngờ gì’. Tỳ kheo đáp rằng, ‘Quả thật như lời vua nói’. Dầu Tỳ kheo nói quyết địnhPhật tánh, nhưng cũng không phạm tội Ba la di.

Lại có Tỳ kheo lúc xuất gia suy nghĩ rằng, ‘Nay tôi quyết định sẽ thành Vô thượng Chánh giác’. Người như vậy tuy chưa được thành đạo quả vô thượng, nhưng đã được vô lượng vô biên phước đức chẳng thể tính đếm. Giả sử có người nói người ấy phạm tội ba la di thì tất cả Tỳ kheo không có ai chẳng phạm.

Vì sao thế? Xưa kia trong tám mươi ức kiếp, ta thường giữ giới trong sạch, ít muốn biết đủ, thành tựu oai nghi, khéo tu vô lượng pháp tạng của chư Phật, thưở ấy ta cũng tự biết một cách quyết định rằng mình có Phật tánh. Thế nên nay ta thành Vô thượng Chánh giác, được gọi là Phật, có đại từ bi” (phẩm Tà Chánh).

Lòng tin quyết định là tin nơi mình và nơi mỗi người khác vốn có sẳn Phật tánh, và đưa lòng tin ấy thành hiện thực bằng những phương tiện tu hành, xóa bỏ những phiền não ngã, nhân, chúng sanh, thọ mạng, ngăn cách che chướng để tất cả cùng sống trong Phật tánh, tức là đại tín tâm. Niềm tin quyết định vào nền tảng Phật tánhbước đầu tiên cũng là bước cuối cùng, bởi vì Phật tánh chính là Như Lai.

Phật tánh có những phẩm tính để lòng tin thêm sùng tín, ngưỡng mộ, khát khao:

Phật tánh có sáu điều: Một là thường, hai là tịnh, ba là thật, bốn là thiện, năm là thấy trực tiếp (đương kiến), sáu là chân. Điều thứ bảy là có thể chứng. Đây gọi là Bồ tát biết Phật tánh” (phẩm Bồ tát Quang Minh Biến Chiếu).

Phật tánh có một an lạc là thấy hiện tiền (đương kiến)

Đức Phật chỉ bày thực tại Phật tánh khiến cho chúng ta có thể thấy được Phật tánh vốn có nơi mình:

Như Lai tức là tướng giác, tướng thiện, thường, lạc, ngã, tịnh, giải thoát, chân, thật, chỉ bày đạo (Phật tánh) để có thể thấy được (thị đạo khả kiến)” (phẩm Bồ tát Quang Minh Biến Chiếu).

Phật tánh vốn có nơi mỗi chúng sanh là có thể thấy được, thấy trực tiếp, thấy hiện tiền, ngay trước mắt. Chính từ lòng tin Phật tánh đang hiện diện ngay trước mắt khiến chúng tađộng lực lớn để thực hành các pháp môn, và pháp môn nào cũng đặt nền trên Phật tánh và không ra ngoài Phật tánh. Đó là đức tin quyết định lấy Phật tánh làm nền tảng.

 

Lòng tin khiến cho chúng sanh nổi lên mà không chìm khi vượt sông sanh tử, ở đây được ví với việc băng qua dòng sông Hằng.

Phật nói: Sông lớn sanh tử cũng như vậy, có bảy hạng người vì sợ giặc phiền não mà khởi ý muốn vượt qua sông lớn sanh tử.

Thiện nam tử! Hạng nhất xiển đề dứt mất tất cả căn lành nên chìm hẳn xuống dòng sông sanh tử không thể nổi lên. Vì sao thế? Vì nghiệp xấu ác nặng và không có sức mạnh của lòng tin.

Hạng thứ nhì là những người khởi ý muốn vượt qua sông lớn sanh tử, nhưng vì dứt mất căn lành nên chìm không thoát được. Nói thoát được nghĩa là gần gũi bạn lành (thiện tri thức) bèn được lòng tin. Lòng tin là tin bố thí và quả bố thí, tin nghiệp thiện và quả thiện, tin nghiệp ác và quả ác, tin sanh tử là khổ, vô thường, hư hoại. Do được lòng tin nên tu tập tịnh giới, thọ trì, đọc tụng, giảng nói, thường thích bố thí, khéo tu trí huệ. Nhưng vì độn căn lại gặp bạn xấu nên chẳng thể tu thân, giới, tâm, huệ, nghe nhận pháp tà, hoặc gặp thời xấu ác ở nơi cõi nước xấu ác nên dứt mất những căn lành mà thường chìm trong sanh tử, như hạng người thứ hai bên sông Hằng.

Hạng người thứ ba khởi ý muốn qua sông sanh tử, vì dứt mất căn lành nên chìm đắm trong sông. Gần gũi thiện tri thức thì gọi là thoát khỏi. Tin Như Lai là bậc Nhất thiết trí, thường hằng không biến đổi, vì chúng sanh mà nói đạo vô thượng, tất cả chúng sanh đều có trọn vẹn Phật tánh, Như Lai chẳng phải diệt độ, Pháp và Tăng cũng không hoại diệt. Nhất xiển đề nếu chẳng dứt pháp xấu ác tà kiến thì không bao giờ đạt được Giác ngộ vô thượng, phải xa lìa các pháp xấu ác rồi sau mới đạt được. Do lòng tin nên tu tịnh giới rồi liền thọ trì, đọc tụng, biên chép, giảng nói Mười hai bộ kinh, truyền rộng cho chúng sanh, thích bố thí, tu tập trí huệ, nhờ lợi căn trụ vững nơi tin và huệ, tâm không thối chuyển, như hạng người thứ ba bên sông Hằng (chìm rồi được nổi lên).

Hạng thứ tư muốn qua sông sanh tử, vì dứt căn lành nên bị chìm. Nhờ gần gũi bạn lành thiện tri thức nên được lòng tin, gọi là được nổi lên. Có được lòng tin bèn thọ trì, đọc tụng, biên chép, giảng nói Mười hai bộ kinh, rồi vì chúng sanh mà truyền rộng, thích bố thí, tu tập trí huệ, do lợi căn nên an trụ vững vàng trong tin và huệ, tâm không thối chuyển, quan sát khắp bốn phương. Bốn phương này là bốn quả Sa môn, như hạng người thứ tư bên sông Hằng.

Hạng thứ năm muốn vượt qua sông sanh tử, vì dứt mất căn lành nên bị chìm trong đó. Nhờ gần gũi bạn lành nên chuyển đổi có được lòng tin, gọi là được nổi lên. Do lòng tin nên thọ trì, đọc tụng, biên chép, giảng nói Mười hai bộ kinh, rồi vì chúng sanh mà truyền rộng, thích bố thí, tu tập trí huệ. Nhờ lợi căn nên an trụ vững vàng trong tin và huệ, tâm không thối chuyển. Do không thối chuyển bèn tiến tới trước. Tiến tới trước là nói quả Phật Bích Chi, dầu có thể tự độ nhưng chẳng độ đến chúng sanh, đây gọi là đi, như hạng người thứ năm bên sông Hằng.

Hạng thứ sáu muốn qua sông sanh tử, vì dứt mất căn lành nên chìm trong sông. Nhờ gần gũi bạn lành mà được lòng tin, đây gọi là nổi lên. Do có lòng tin nên thọ trì, đọc tụng, biên chép, giảng nói Mười hai bộ kinh, rồi vì chúng sanh mà truyền rộng, vui thích bố thí bằng trí huệ, tu tập trí huệ. Nhờ lợi căn nên an trụ vững chắc trong tin và huệ, không thối chuyển bèn tiến tới trước. Cho đến chỗ cạn thì đứng lại chẳng đi nữa. Đứng lại chẳng đi là nói Bồ tát vì muốn độ chúng sanh nên trụ lại quán sát phiền não, như người thứ sáu bên sông Hằng.

Hạng thứ bảy muốn vượt sông lớn sanh tử, vì dứt mất căn lành nên chìm trong đó. Nhờ gần gũi bạn lành, có được lòng tin. Được lòng tin gọi là nổi lên. Do lòng tin nên thọ trì, đọc tụng, biên chép giảng nói Mười hai bộ kinh, rồi vì chúng sanh mà truyền rộng, vui thích bố thí bằng trí huệ, tu tập trí huệ. Nhờ lợi căn nên an trụ vững chắc lòng tin, trí huệ, tâm không thối chuyển. Không thối chuyển liền tiến lên trước. Đã tiến lên thì được đến bờ kia, trèo lên núi cao, lìa hết những sợ hãi, thọ hưởng nhiều an lạc.

Thiện nam tử! Núi bên bờ kia ví dụ Như Lai, thọ hưởng an lạc ví dụ Phật thường trụ, núi cao lớn ví dụ Đại Niết bàn” (phẩm Bồ tát Sư Tử Hống).

Bảy loại người là bảy cấp độ giải thoátgiác ngộ. Tất cả khởi đầu bằng lòng tin do gần gũi thiện tri thức. Trên nền tảng lòng tin này mới tu tập thiền định, thiền quán, vui thích bố thí, giảng nói cho nhiều người, tức là làm hạnh Bồ tát. Căn lành là thiện căn, được mọc lên và nuôi dưỡng trong nền tảng lòng tin. Khi lòng tin yếu đi, nếu “gặp bạn xấu và hoàn cảnh thời kỳ xấu ác nên dứt mất căn lành mà chìm trong sanh tử”. Lòng tin làm cho người ta không bị chìm mà nổi lên mới hy vọng vượt sông.

Những người vượt được qua dòng sông sanh tử là “nhờ trụ vững nơi tin và huệ, tâm không thối chuyển”, rồi cứ thế mà nương vào các Phật pháp tiến tới cho đến mục đích cuối cùng. Thế nên lòng tin là bước căn bản đầu tiên cho đến cuối cùng là “Phật tánh đại tín tâm”.

Lòng tin quyết địnhPhật tánh vốn sẳn đủ nơi mỗi người là nền tảng trên đó con đường thực hành trải dài cho đến cuối cùngđạt đến Giác Ngộ vô thượng. Thế nên Đức Phật nói về sự quý báu của Kinh Đại Bát Niết Bàn này, ở đây chỉ trích ra một số câu:

Thiện nam tử! Kinh Đại Niết Bàn vi diệu này là bảo tạng trong tất cả pháp.

Như biển cả là kho tàng chứa những châu báu, Kinh Đại Niết Bàn này cũng vậy, chính là bí tạng của tất cả chữ nghĩa.

Như núi Tu Di là nguồn gốc của các vị thuốc, kinh này cũng vậy, là căn bản của giới Bồ tát.

Như hư không là chỗ ở của tất cả vật, kinh này cũng vậy, chính là chỗ ở của tất cả pháp thiện.

Như gió mạnh không gì trói buộc được, tất cả Bồ tát thực hành kinh này cũng vậy, chẳng bị tất cả phiền não ác pháp trói buộc.

Như kim cương không gì phá hoại được, kinh này cũng vậy, tuy có ngoại đạo ác tà cũng không thể phá hoại.

Như cát sông Hằng không ai đếm được, nghĩa của kinh này cũng không thể tính đếm.

Kinh này có thể làm ánh sáng pháp trên tất cả Bồ tát như mặt trời mặt trăngthế gian có thể phá tan mọi tối tăm.

Kinh này có thể làm vị thuốc tốt lớn lao cho chúng sanhbệnh khổ, như trong núi Tuyết có cây thuốc vua vi diệu có thể trị các bệnh.

Kinh này có thể làm bóng mát cho những ai bị nóng phiền não khi lang thang trong hai mươi lăm cõi hữu, như cây lọng ở thế gian che nắng nóng.

Kinh này là vua đại vô uý có thể phá tan tất cả phiền não ác ma, như vua sư tử hàng phục các thú.

Kinh này là đại thần chú có thể phá tan tất cả phiền não ác quỷ, như chú sưthế gian có thể đuổi dẹp quỷ võng lượng.

Kinh này là mưa đá vô lượng có thể phá hoại tất cả quả báo của sanh tử, như mưa đá ở thế gian phá hoại các thứ cây trái.

Kinh này là tấm gương sáng cho những chúng sanh phá giới, như gương sángthế gian soi thấy các hình dạng của vật.

Kinh này hay vì Bồ tát Sơ địa cho đến Bồ tát Thập địa mà làm thừa (cổ xe) chủng tánh thanh tịnh đầy đủ các thứ chuỗi ngọc, các thứ hương, hơn tất cả sự vui vi diệu của sáu môn Ba la mật, như cây Ba lợi chất đa la trên cõi trời Đao lợi” (phẩm Bồ tát Ca Diếp).

Sở dĩ tán dương sự quý báu, đa dạng của Kinh vì Kinh này giảng sâu và rộng về Phật tánh vốn sẳn đủ nơi mỗi người. Phật tánh này vừa là Nền tảng của tất cả chúng sanhthế giới, đồng thờiCon đường để thể hiện Nền tảng ấy và cũng là Quả của Con đường.

Tóm lại, Phật tánh là Nền tảng, vừa là Con đường, vừa là Quả, và cả ba đều nằm trong lòng tin xuyên suốt từ nhất xiển đề, đến bốn quả của Thanh Văn thừa, đến Bồ tát, cho đến Phật quả.

 

Lòng tin là tin vào Phật tánh vốn thường trụ, nên có thể “thấy trực tiếp, hiện tiền”. Tin là tin vào những phẩm tính chẳng thể nghĩ bàn của Phật tánh được nói trong Kinh. Chính lòng tin này khiến chúng ta có thể thấy ít phần Phật tánh để hòa nhập và sống hẳn trong đó.

Thiện nam tử! Kinh Đại Niết Bàn cũng lại như vậy, chẳng thể nghĩ bàn.

Thiện nam tử! như biển cả có tám điều chẳng thể nghĩ bàn: Một là lần lần càng sâu, hai là sâu khó đến đáy, ba là đồng một vị mặn, bốn là thủy triều chẳng quá giới hạn, năm là có nhiều thứ kho tàng báu, sáu là những chúng sanh thân to lớn ở trong đó, bảy là chẳng chứa xác chết, tám là tất cả các dòng đều đổ về và mưa lớn đổ xuống mà biển vẫn chẳng thêm chẳng bớt” (phẩm Bồ tát Sư Tử Hống).

Ở đây chỉ trích ra phẩm tính thứ tám của Kinh Đại Niết Bàn và cũng là phẩm tính thứ tám của Phật tánh:

Thứ tám là chẳng tăng chẳng giảm, vì không biên bờ, vì không bắt đầu không chấm dứt, vì chẳng phải sắc, vì chẳng phải làm ra, vì chẳng sanh chẳng diệt, vì đều bình đẳng với tất cả chúng sanh, vì tất cả đồng một Phật tánh. Đó gọi là chẳng tăng chẳng giảm.

Thế nên kinh này như biển cả kia, có tám điều chẳng thể nghĩ bàn” (phẩm Bồ tát Sư Tử Hống).

Khi tin rằng Phật tánh là chẳng tăng chẳng giảm, không bắt đầu không chấm dứt, không biên bờ, không sanh không diệt, bình đẳng với tất cả chúng sanh vì tất cả đồng một Phật tánh, người ta bắt đầu thấy Phật tánh và hòa nhập với nó.

Pháp giới bình đẳng và đồng nhất này không gì khác hơn là sự biểu lộ của Phật tánh tự tâm

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 16567)
Chúng ta là những lữ khách trên hành tinh này. Chúng ta có mặt ở đây nhiều lắm là chín mươi hay một trăm năm.
(Xem: 15700)
Năm Canh Dần trôi qua với biết bao nhiêu sự kiện xảy ra trên khắp thế giới. Hội nghị cấp cao Đông Á với sự xuất hiện của Nga và Mỹ, người Việt Nam đầu tiên đoạt Huy chương Fields danh giá...
(Xem: 15105)
Vị thầy người Nhật của tôi đã ra đi năm ngoái, quá trẻ, quá sớm. Bà chỉ mới năm mươi bốn tuổi, và không có ai để truyền thừa Pháp. Bà chỉ có năm người đệ tử...
(Xem: 19259)
Ta yêu chuộng sự sống một cách tha thiết, và ta sống hết lòng trong từng khoảnh khắc là do ta có ý thức rõ ràng về sự chết. Cái chết chắc chắn sẽ đến với chúng ta.
(Xem: 15755)
Liên hệ của mọi cá thể trong vũ trụ này là liên hệ duyên sinh. Cái này có mặt là nhờ sự có mặt của những cái khác, không có cá thể nào tự tồn tại riêng biệt...
(Xem: 13840)
Mưa thật nhiều suốt đêm qua, những ánh chớp loé sáng, vẫy vùng trên bầu trời như rượt đuổi nhau với những nụ cười sáng rực. Mưa trút xuống dù không mời gọi, như réo rắc...
(Xem: 13967)
Trăng thì vằng vặc trên cao, trên bầu trời, sáng đẹp. Nhưng, trăng của tấm lòng, của chân tâm, thật là gần gũi, bình dị, trong sáng, thanh tịnh, không một gợn sóng mây...
(Xem: 14474)
Thuở xưa, khi Phạm Dự (Brahmadatta) là vua nước Ba-la-nại (Benares), Bồ-tát thọ sanh vào đời làm một chú Linh Dương sống trong một bụi cây gần bên hồ nước ở trong cánh rừng.
(Xem: 15242)
Trong học tập cũng như trong công việc, lười biếng, thiếu ý chí, thiếu kiên định là những nguyên nhân đưa đến sự thất bại. Khó tìm đâu trên cõi đời này một người có được thành công mà người đó là một kẻ lười biếng...
(Xem: 18130)
Mình có một đôi chân vững chãi, một đôi mắt sáng và một tấm lòng trong, hãy nương tựa vào mình. Đôi bàn chân sẽ cho bạn phương tiện đi tới...
(Xem: 15251)
Dạo ấy, vào khoảng cuối thập niên 50 và đầu thập niên 60 của thế kỷ trước, Phật học viện Trung phần Hải Đức tại Nha Trang thấy cần phải mở rộng việc đào tạo tăng tài.
(Xem: 14728)
Thời đại ngày nay, trong chúng ta ai mà lại không bận rộn, ai mà lại có dư thì giờ đâu bạn nhỉ? Mặc dù đôi khi tôi cứ nghĩ là chúng ta chỉ tự tìm cho mình sự bận rộn mà thôi!
(Xem: 17930)
Đời như cơn gió bên thềm, mênh mông, vô định. Có cái gì là của mình đâu mà trói buộc? Cứ nhẹ nhàng thôi, như gió bên thềm vậy...
(Xem: 20742)
Sự vững chãi của bạn là một điều nhiệm mầu. Bởi có rất nhiều người đang tin vào bạn, họ sẽ vững chãi theo và niềm tin ấy miên viễn trong tâm thức...
(Xem: 19552)
Xuất gia có nghĩa là ra khỏi nhà, rõ hơn là ra khỏi căn nhà mình đang ở; dứt khoát bỏ mà đi khỏi căn nhà mình đang được chở che bảo bọc, hay đang bị ràng buộc, hệ lụy vương mang.
(Xem: 17114)
Tình yêu không làm cho ai khổ đau, nhưng ở trong đời có quá nhiều người bị khổ đau bởi tình yêu là do trong tình yêu của họ có nội dung của khao khát, chiếm hữu, riêng tư và tình dục.
(Xem: 15786)
Sau bữa ăn trưa, tôi hỏi một vị Tăng sĩ trẻ, Thầy đã ăn xong chưa? Vị ấy trả lời - dạ! con đã ăn xong. Tôi cười và nói, Thầy chưa ăn xong đâu, ngày mai Thầy lại tiếp tục ăn lại...
(Xem: 17192)
Trong đời sống hàng ngày, ta cố ý nói sai sự thật để đánh lừa người khác là chính ta không những chỉ phá hoại và làm thương tổn lời nói của ta, mà chính ta còn làm thương tổnphá hoại sự hiểu biết và nhân cách của ta nữa.
(Xem: 15925)
Bạn biết không? Mọi niềm vui xảy ra trong thế gian đều dẫn đến hậu quả của thất vọng và khổ đau. Tại sao? Vì lòng tham của con người đối với các lạc thú thế gian là vô hạn...
(Xem: 15240)
Sống giữa đời, ai cũng mưu cầu một vài niềm hạnh phúc. Hạnh phúc được xem nhưmục tiêu thiết yếu nhất mà loài người nói riêng và vạn loài tồn sinh khác nói chung hướng đến tìm cầu.
(Xem: 15003)
Trong cuộc sống có đôi khi chúng ta lầm tưởng, mọi thứ đều diễn ra quá êm đẹp và theo chiều hướng tốt để ta có thể đạt được cái mà chúng ta muốn có.
(Xem: 15007)
Có thể nói vạn vật hữu hình khó đứng vững và tồn tại trước những cơn thịnh nộ của bão tố. Thế nhưng, đôi khi đâu đó cũng có những cành hoa bé nhỏ yếu ớt đã sẵn sàng trụ lại sau những cơn cuồng nộ của tự nhiên.
(Xem: 18060)
Mỗi khi nghe đến mấy bài hát diễn tả những sinh hoạt nơi đồng quê, như cảnh gặt hái của ngày mùa, hay những buổi tối giả gạo dưới trăng tôi chợt nhớ đến quê tôi tha thiết.
(Xem: 15783)
Chúng ta luôn đặt ra cho mình rất nhiều mục tiêu, song trên bước đường theo đuổi chúng, phải chăng bạn đã đánh mất giá trị tự thân của cuộc sống? Lao đầu vào việc theo đuổi mục đíchtrở thành nô lệ của mục đích.
(Xem: 16759)
Việc con người chạy theo các dục, vì họ sống với các chủng tử tâm hành liên hệ đến vô minh, mọi sinh hoạt của họ là sinh hoạt trong bóng đêm, và ngay cả ánh sáng cũng chỉ là bóng đêm của họ mà thôi...
(Xem: 14455)
Khu vực tôi ở có một con đường hai hàng thông cổ thụ, tàn lá giao nhau như lọng che, vừa tạo nét đặc thù, vừa luôn luôn cho bóng mát.
(Xem: 14374)
Mùa hạ về… bao suy tư được trải nghiệm, bao ước vọng lại xâu kết bên lòng. Âm vang ngày hạ là nắng là hoa, là hương thơm từ đất, là hơi ấm từ bóng mặt trời lan tỏa.
(Xem: 16575)
Ông lão ăn xin nom thật tội nghiệp với một tay chống gậy, một tay run run cầm chiếc nón rách hướng về phía chị, giọng thều thào...
(Xem: 17446)
Những làn sóng biển đùa chơi với nhau và cùng nhau chạy vào bờ chạm lên cát trắng, rồi tan biến vô sự giữa trời nước mênh mông. Sóng là nước và nước là sóng.
(Xem: 18652)
Thuở xưa, khi vua Phạm Dự (Brahmadatta) trị vì Ba-la-nại (Benares), Bồ-tát thọ sanh làm một con Tắc kè. Bấy giờ, có một ẩn sĩ khổ hạnh sống trong một thảo am...
(Xem: 17012)
Chúng ta tự thuyết phục mình rằng cuộc sống sẽ tốt đẹp hơn sau khi ta hoàn tất một dự án này, học hết chương trình này, xong một khoá trị liệu này...
(Xem: 16424)
Ananda là đại đệ tử của Phật. Là em chú bác của Phật, ngài từ bỏ đời sống vương giả, xuất gia theo Phật, hầu cận bên cạnh Phật suốt đời.
(Xem: 15705)
Chỉ hai tuần, sau khi dọn tới căn nhà mới, tôi đã biến đổi hoàn toàn mảnh vườn, khi được người chủ nhà bảo: “Muốn trồng gì, làm gì, xin tùy ý!”
(Xem: 16499)
"Hãy cho con thành một đóa hồng cao lớn, bởi vì con ước mong được ngẩng cao đầu với một niềm kiêu hãnh; đây sẽ là việc của riêng con, con bất chấp số phận mình ra sao."
(Xem: 15452)
Hình ảnh một thiền sư chậm rãi thiền hành trong nắng mai hay an nhiên lặng lẽ tĩnh tọa giữa rừng chiều là tặng phẩm tuyệt đẹp cho những ai có tâm hồn nhạy cảm...
(Xem: 14283)
Em là những giọt nước nằm sâu dưới lòng đất, nhưng em muốn đi về với đại dương có được không anh? - Được chứ, điều ước mơ của em là rất đẹp...
(Xem: 15446)
Trước kia các cuộc khủng hoảng phát minh bởi sự khai thác những tài nguyên và bóc lột khả năng con người. Hiện tại khủng hoảng vì sự lạm dụng các học thuyết chủ nghĩa, nên càng khốc hại, nguy hiểm và phá hoại hơn.
(Xem: 14857)
Ngồi một mình bên tách trà xanh, nhìn chung quanh mình là mùa thu có màu vàng bao phủ khắp không gian. Thiên nhiên khoe mình, kiêu hãnh.. biết bao nhiêu cây lá mỉm cười...
(Xem: 7590)
... cái quan niệm ta có về Bụt ấy cũng như một cái hố xí, và theo nghĩa đó, Bồ TátLa Hán cũng chỉ là những kẻ đem tới gông cùm.
(Xem: 17193)
Thầy giáo yêu cầu mỗi chúng tôi mang một túi nilông sạch và một bao tải khoai tây đến lớp. Sau đó, thầy bảo cứ hễ chúng tôi không tha thứ lỗi lầm cho người nào đó thì hãy chọn ra một củ khoai tây viết tên người đó và ngày tháng lên rồi bỏ nó vào túi nilông.
(Xem: 12322)
Dì Năm dự định mang cậu con trai về trại ruộng Thới Sơn, Châu Đốc nương náo với đồng đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa tu dưỡng thân tâm, tiện đường dì ghé lại chùa Tây An(1) đảnh lễ Đức Phật Thầy để cầu nguyện cho con sớm lành bệnh.
(Xem: 12247)
Thanh thường bị bè bạn chế giễu là “công tử miệt vườn”, có thể một phần vì gia đình chàng sở hữu một thửa vườn cây trái khá rộng – vườn Tám Thà - tại ngoại ô thị trấn Châu Đốc, nhưng cũng có thể cũng do bản tánh hiền lành chơn chất và “nhát gái” của chàng.
(Xem: 16563)
Một ngày nọ, Vua Salomon bỗng muốn làm bẽ mặt Benaiah, một cận thần thân tín của mình. Vua bèn nói với ông: "Benaiah này, ta muốn ông mang về cho ta một chiếc vòng...
(Xem: 14690)
Một lát sau, chiếc xe thứ ba chạy tới. Chiếc xe này không cũ, không có đông khách nhưng bạn vẫn không hài lòng: "Cái xe này không có điều hoà, thôi mình cố đợi chiếc sau".
(Xem: 14548)
Mùa Vu Lan lại về. Bên cạnh nụ cười rạng rỡ trên gương mặt những người diễm phúc còn có Mẹ, chúng tôi, những người cài hoa trắng, lòng bâng khuâng nhớ Mẹ đã khuất bóng nơi xa...
(Xem: 13857)
Đời có tươi thì có phai; tình có ấm lên thì có nguội. Vẫn biết thế nhưng tình cảm tự nhiên con nhớ Mẹ, thương Mẹ vượt ra ngoài biên giới chật hẹp của sự hợp lývô lý thường tình.
(Xem: 12483)
Em nằm yên giấc mồ côi Đoá hồng lắng đọng bên dòng phù du gió nguồn ngày tháng vi vu sóng đời dồn dập vô thường viễn xa...
(Xem: 13856)
Thằng bé nhìn con bướm chết lần cuối. Dưới ánh trăng đôi cánh nó lấp lánh như ánh vàng. ”Cậu đẹp thật đấy”, thằng bé nghĩ. Rồi một lát sau cậu thả con côn trùng rơi trên đất và chạy về phía mẹ.
(Xem: 12331)
Đây là một câu chuyện có thật, chúng tôi gọi là "Câu chuyện bát mì". Chuyện xảy ra cách đây năm mươi năm vào ngày 31/12, một ngày cuối năm tại quán mì Bắc Hải Đình, đường Trát Hoảng, Nhật Bản.
(Xem: 15373)
Cô con gái hay than thở với cha sao bất hạnh này cứ vừa đi qua thì bất hạnh khác đã vội ập đến với mình, và cô không biết phải sống thế nào.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant