Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Lòng Tin Quyết Định Vào Nền Tảng Phật Tánh

20 Tháng Tư 202119:14(Xem: 3224)
Lòng Tin Quyết Định Vào Nền Tảng Phật Tánh

Lòng Tin Quyết Định Vào Nền Tảng Phật Tánh

Nguyễn Thế Đăng

chu tieu 5

 

Kinh Đại Bát Niết Bàn nói:

Phật tánh gọi là đại tín tâm. Vì do tín tâmĐại Bồ tát được đầy đủ Bố thí ba la mật cho đến Bát nhã ba la mật. Tất cả chúng sanh quyết định sẽ được đại tín tâm, do vậy nên nói tất cả chúng sanh đều có Phật tánh. Đại tín tâm chính là Phật tánh. Phật tánh chính là Như Lai” (phẩm Bồ tát Sư Tử Hống).

Lòng tin làm xóa tan sự phân cách giữa chủ thể và đối tượng và hòa nhập chủ thể vào đối tượng. Lòng tin làm chúng ta vượt khỏi những phiền não che chướng để tiếp xúc và hòa nhập với Phật tánh như là đại tín tâm. Lòng tin giúp chúng ta vượt khỏi những giới hạn không gian thời gian để hòa nhập vào “biển cả Phật tánh”.

Phật tánh là nền tảng thường trụ của lòng tin, cho nên kinh gọi là Đại tín tâm. Chính trên nền tảng Phật tánh đại tín tâm này mà tất cả các hạnh Bồ tát được triển khai. Tất cả các hạnh Bồ tát chính là sự triển khai của nền tảng Phật tánh này và sự triển khai các hạnh Bồ tát giúp cho Bồ tát “nhập pháp giới Phật tánh”. Đây chính là đại tín tâm.

Lòng tin là tin vào nền tảng Pháp thân vô biên vô ngại và các phẩm tính trong nền tảng ấy. Cũng đoạn kinh này nói:

Thiện nam tử! Như Lai thường trụ gọi là Ngã. Pháp thân Như Laivô biên vô ngại, là chẳng sanh chẳng diệt, được đủ tám tự tại nên gọi là Ngã. Ngã ấy chính là Đệ nhất nghĩa Không.

Đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả chính là Phật tánh. Phật tánh chính là Như Lai.

Nhất tử địa chính là Phật tánh, Phật tánh chính là Như Lai.

Trí lực thứ tư, mười hai nhân duyên, bốn trí vô ngại, Đảnh tam muội chính là Phật tánh, Phật tánh chính là Như Lai” (phẩm Bồ tát Sư Tử Hống).

Lòng tin là tin vào Phật tánh Pháp thân Như Lai vô biên vô ngại, chẳng sanh chẳng diệt, có đủ tám tự tại, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, nhất tử địa, trí lực thứ tư, đảnh tam muội. Và tất cả các hạnh Bồ tát, trí huệ, thiền định… đều không thể ra ngoài Phật tánh Pháp thân vô biên vô ngại này. Lòng tin là tin vào Phật tánh Pháp thân là nền tảng thường trụ cho mọi sự tu hành. Lòng tin là tin rằng chúng sanh chúng ta chẳng bao giờ có thể lìa ngoài Phật tánh vô biên vô ngại này, dù có đang sống theo cách thế nào. Nói cách khác, chúng ta dù có thế nào, vẫn đang sống trong Phật tánh, chẳng qua vì vô minh che chướng cho nên Phật tánh chưa hiện tiền mà thôi.

Lòng tin là tin rằng Phật tánh tổng nhiếp tất cả Phật pháp, và tất cả mọi pháp môn đều lưu xuất từ nền tảng Phật tánh.

Phật tánh gọi là Đảnh tam muội. Vì do tu hành Đảnh tam muội này nên có thể tổng nhiếp tất cả Phật pháp, do đây nên nói Đảnh tam muộiPhật tánh. Thập trụ Bồ tát tu tam muội này chưa được đầy đủ, nên tuy thấy Phật tánh mà chẳng rõ ràng. Vì tất cả chúng sanh quyết định được, nên nói rằng tất cả chúng sanh đều có Phật tánh”.

Tóm lại, lòng tin là tin rằng tất cả chúng sanh đều vốn có Phật tánh và đang sống trong Phật tánh. Con đường đi đến Phật tánh trọn vẹn cũng và luôn luôn nằm trong Nền tảng Phật tánh vốn có sẳn này.

 

Tin vào nền tảng Phật tánhlòng tin quyết định:

Lại có Tỳ kheo nói kinh điển tạng bí mật rất sâu của Phật, “Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, vì tánh này đoạn dứt vô lượng ức phiền não trói buộc bèn được thành Vô thượng Chánh giác, trừ hạng nhất xiển đề”. Nếu có vua hoặc đại thần thưa hỏi rằng: ‘Tỳ kheo, ông sẽ thành Phật hay chẳng thành Phật? Ông có Phật tánh chăng?’ Vị Tỳ kheo ấy đáp, ‘Trong thân đây của tôi quyết địnhPhật tánh, còn thành Phật hay chẳng thành thì chưa có thể xác định rõ. Vua lại nói, ‘Đại đức không phải hạng nhất xiển đề ắt sẽ thành Phật, không nghi ngờ gì’. Tỳ kheo đáp rằng, ‘Quả thật như lời vua nói’. Dầu Tỳ kheo nói quyết địnhPhật tánh, nhưng cũng không phạm tội Ba la di.

Lại có Tỳ kheo lúc xuất gia suy nghĩ rằng, ‘Nay tôi quyết định sẽ thành Vô thượng Chánh giác’. Người như vậy tuy chưa được thành đạo quả vô thượng, nhưng đã được vô lượng vô biên phước đức chẳng thể tính đếm. Giả sử có người nói người ấy phạm tội ba la di thì tất cả Tỳ kheo không có ai chẳng phạm.

Vì sao thế? Xưa kia trong tám mươi ức kiếp, ta thường giữ giới trong sạch, ít muốn biết đủ, thành tựu oai nghi, khéo tu vô lượng pháp tạng của chư Phật, thưở ấy ta cũng tự biết một cách quyết định rằng mình có Phật tánh. Thế nên nay ta thành Vô thượng Chánh giác, được gọi là Phật, có đại từ bi” (phẩm Tà Chánh).

Lòng tin quyết định là tin nơi mình và nơi mỗi người khác vốn có sẳn Phật tánh, và đưa lòng tin ấy thành hiện thực bằng những phương tiện tu hành, xóa bỏ những phiền não ngã, nhân, chúng sanh, thọ mạng, ngăn cách che chướng để tất cả cùng sống trong Phật tánh, tức là đại tín tâm. Niềm tin quyết định vào nền tảng Phật tánhbước đầu tiên cũng là bước cuối cùng, bởi vì Phật tánh chính là Như Lai.

Phật tánh có những phẩm tính để lòng tin thêm sùng tín, ngưỡng mộ, khát khao:

Phật tánh có sáu điều: Một là thường, hai là tịnh, ba là thật, bốn là thiện, năm là thấy trực tiếp (đương kiến), sáu là chân. Điều thứ bảy là có thể chứng. Đây gọi là Bồ tát biết Phật tánh” (phẩm Bồ tát Quang Minh Biến Chiếu).

Phật tánh có một an lạc là thấy hiện tiền (đương kiến)

Đức Phật chỉ bày thực tại Phật tánh khiến cho chúng ta có thể thấy được Phật tánh vốn có nơi mình:

Như Lai tức là tướng giác, tướng thiện, thường, lạc, ngã, tịnh, giải thoát, chân, thật, chỉ bày đạo (Phật tánh) để có thể thấy được (thị đạo khả kiến)” (phẩm Bồ tát Quang Minh Biến Chiếu).

Phật tánh vốn có nơi mỗi chúng sanh là có thể thấy được, thấy trực tiếp, thấy hiện tiền, ngay trước mắt. Chính từ lòng tin Phật tánh đang hiện diện ngay trước mắt khiến chúng tađộng lực lớn để thực hành các pháp môn, và pháp môn nào cũng đặt nền trên Phật tánh và không ra ngoài Phật tánh. Đó là đức tin quyết định lấy Phật tánh làm nền tảng.

 

Lòng tin khiến cho chúng sanh nổi lên mà không chìm khi vượt sông sanh tử, ở đây được ví với việc băng qua dòng sông Hằng.

Phật nói: Sông lớn sanh tử cũng như vậy, có bảy hạng người vì sợ giặc phiền não mà khởi ý muốn vượt qua sông lớn sanh tử.

Thiện nam tử! Hạng nhất xiển đề dứt mất tất cả căn lành nên chìm hẳn xuống dòng sông sanh tử không thể nổi lên. Vì sao thế? Vì nghiệp xấu ác nặng và không có sức mạnh của lòng tin.

Hạng thứ nhì là những người khởi ý muốn vượt qua sông lớn sanh tử, nhưng vì dứt mất căn lành nên chìm không thoát được. Nói thoát được nghĩa là gần gũi bạn lành (thiện tri thức) bèn được lòng tin. Lòng tin là tin bố thí và quả bố thí, tin nghiệp thiện và quả thiện, tin nghiệp ác và quả ác, tin sanh tử là khổ, vô thường, hư hoại. Do được lòng tin nên tu tập tịnh giới, thọ trì, đọc tụng, giảng nói, thường thích bố thí, khéo tu trí huệ. Nhưng vì độn căn lại gặp bạn xấu nên chẳng thể tu thân, giới, tâm, huệ, nghe nhận pháp tà, hoặc gặp thời xấu ác ở nơi cõi nước xấu ác nên dứt mất những căn lành mà thường chìm trong sanh tử, như hạng người thứ hai bên sông Hằng.

Hạng người thứ ba khởi ý muốn qua sông sanh tử, vì dứt mất căn lành nên chìm đắm trong sông. Gần gũi thiện tri thức thì gọi là thoát khỏi. Tin Như Lai là bậc Nhất thiết trí, thường hằng không biến đổi, vì chúng sanh mà nói đạo vô thượng, tất cả chúng sanh đều có trọn vẹn Phật tánh, Như Lai chẳng phải diệt độ, Pháp và Tăng cũng không hoại diệt. Nhất xiển đề nếu chẳng dứt pháp xấu ác tà kiến thì không bao giờ đạt được Giác ngộ vô thượng, phải xa lìa các pháp xấu ác rồi sau mới đạt được. Do lòng tin nên tu tịnh giới rồi liền thọ trì, đọc tụng, biên chép, giảng nói Mười hai bộ kinh, truyền rộng cho chúng sanh, thích bố thí, tu tập trí huệ, nhờ lợi căn trụ vững nơi tin và huệ, tâm không thối chuyển, như hạng người thứ ba bên sông Hằng (chìm rồi được nổi lên).

Hạng thứ tư muốn qua sông sanh tử, vì dứt căn lành nên bị chìm. Nhờ gần gũi bạn lành thiện tri thức nên được lòng tin, gọi là được nổi lên. Có được lòng tin bèn thọ trì, đọc tụng, biên chép, giảng nói Mười hai bộ kinh, rồi vì chúng sanh mà truyền rộng, thích bố thí, tu tập trí huệ, do lợi căn nên an trụ vững vàng trong tin và huệ, tâm không thối chuyển, quan sát khắp bốn phương. Bốn phương này là bốn quả Sa môn, như hạng người thứ tư bên sông Hằng.

Hạng thứ năm muốn vượt qua sông sanh tử, vì dứt mất căn lành nên bị chìm trong đó. Nhờ gần gũi bạn lành nên chuyển đổi có được lòng tin, gọi là được nổi lên. Do lòng tin nên thọ trì, đọc tụng, biên chép, giảng nói Mười hai bộ kinh, rồi vì chúng sanh mà truyền rộng, thích bố thí, tu tập trí huệ. Nhờ lợi căn nên an trụ vững vàng trong tin và huệ, tâm không thối chuyển. Do không thối chuyển bèn tiến tới trước. Tiến tới trước là nói quả Phật Bích Chi, dầu có thể tự độ nhưng chẳng độ đến chúng sanh, đây gọi là đi, như hạng người thứ năm bên sông Hằng.

Hạng thứ sáu muốn qua sông sanh tử, vì dứt mất căn lành nên chìm trong sông. Nhờ gần gũi bạn lành mà được lòng tin, đây gọi là nổi lên. Do có lòng tin nên thọ trì, đọc tụng, biên chép, giảng nói Mười hai bộ kinh, rồi vì chúng sanh mà truyền rộng, vui thích bố thí bằng trí huệ, tu tập trí huệ. Nhờ lợi căn nên an trụ vững chắc trong tin và huệ, không thối chuyển bèn tiến tới trước. Cho đến chỗ cạn thì đứng lại chẳng đi nữa. Đứng lại chẳng đi là nói Bồ tát vì muốn độ chúng sanh nên trụ lại quán sát phiền não, như người thứ sáu bên sông Hằng.

Hạng thứ bảy muốn vượt sông lớn sanh tử, vì dứt mất căn lành nên chìm trong đó. Nhờ gần gũi bạn lành, có được lòng tin. Được lòng tin gọi là nổi lên. Do lòng tin nên thọ trì, đọc tụng, biên chép giảng nói Mười hai bộ kinh, rồi vì chúng sanh mà truyền rộng, vui thích bố thí bằng trí huệ, tu tập trí huệ. Nhờ lợi căn nên an trụ vững chắc lòng tin, trí huệ, tâm không thối chuyển. Không thối chuyển liền tiến lên trước. Đã tiến lên thì được đến bờ kia, trèo lên núi cao, lìa hết những sợ hãi, thọ hưởng nhiều an lạc.

Thiện nam tử! Núi bên bờ kia ví dụ Như Lai, thọ hưởng an lạc ví dụ Phật thường trụ, núi cao lớn ví dụ Đại Niết bàn” (phẩm Bồ tát Sư Tử Hống).

Bảy loại người là bảy cấp độ giải thoátgiác ngộ. Tất cả khởi đầu bằng lòng tin do gần gũi thiện tri thức. Trên nền tảng lòng tin này mới tu tập thiền định, thiền quán, vui thích bố thí, giảng nói cho nhiều người, tức là làm hạnh Bồ tát. Căn lành là thiện căn, được mọc lên và nuôi dưỡng trong nền tảng lòng tin. Khi lòng tin yếu đi, nếu “gặp bạn xấu và hoàn cảnh thời kỳ xấu ác nên dứt mất căn lành mà chìm trong sanh tử”. Lòng tin làm cho người ta không bị chìm mà nổi lên mới hy vọng vượt sông.

Những người vượt được qua dòng sông sanh tử là “nhờ trụ vững nơi tin và huệ, tâm không thối chuyển”, rồi cứ thế mà nương vào các Phật pháp tiến tới cho đến mục đích cuối cùng. Thế nên lòng tin là bước căn bản đầu tiên cho đến cuối cùng là “Phật tánh đại tín tâm”.

Lòng tin quyết địnhPhật tánh vốn sẳn đủ nơi mỗi người là nền tảng trên đó con đường thực hành trải dài cho đến cuối cùngđạt đến Giác Ngộ vô thượng. Thế nên Đức Phật nói về sự quý báu của Kinh Đại Bát Niết Bàn này, ở đây chỉ trích ra một số câu:

Thiện nam tử! Kinh Đại Niết Bàn vi diệu này là bảo tạng trong tất cả pháp.

Như biển cả là kho tàng chứa những châu báu, Kinh Đại Niết Bàn này cũng vậy, chính là bí tạng của tất cả chữ nghĩa.

Như núi Tu Di là nguồn gốc của các vị thuốc, kinh này cũng vậy, là căn bản của giới Bồ tát.

Như hư không là chỗ ở của tất cả vật, kinh này cũng vậy, chính là chỗ ở của tất cả pháp thiện.

Như gió mạnh không gì trói buộc được, tất cả Bồ tát thực hành kinh này cũng vậy, chẳng bị tất cả phiền não ác pháp trói buộc.

Như kim cương không gì phá hoại được, kinh này cũng vậy, tuy có ngoại đạo ác tà cũng không thể phá hoại.

Như cát sông Hằng không ai đếm được, nghĩa của kinh này cũng không thể tính đếm.

Kinh này có thể làm ánh sáng pháp trên tất cả Bồ tát như mặt trời mặt trăngthế gian có thể phá tan mọi tối tăm.

Kinh này có thể làm vị thuốc tốt lớn lao cho chúng sanhbệnh khổ, như trong núi Tuyết có cây thuốc vua vi diệu có thể trị các bệnh.

Kinh này có thể làm bóng mát cho những ai bị nóng phiền não khi lang thang trong hai mươi lăm cõi hữu, như cây lọng ở thế gian che nắng nóng.

Kinh này là vua đại vô uý có thể phá tan tất cả phiền não ác ma, như vua sư tử hàng phục các thú.

Kinh này là đại thần chú có thể phá tan tất cả phiền não ác quỷ, như chú sưthế gian có thể đuổi dẹp quỷ võng lượng.

Kinh này là mưa đá vô lượng có thể phá hoại tất cả quả báo của sanh tử, như mưa đá ở thế gian phá hoại các thứ cây trái.

Kinh này là tấm gương sáng cho những chúng sanh phá giới, như gương sángthế gian soi thấy các hình dạng của vật.

Kinh này hay vì Bồ tát Sơ địa cho đến Bồ tát Thập địa mà làm thừa (cổ xe) chủng tánh thanh tịnh đầy đủ các thứ chuỗi ngọc, các thứ hương, hơn tất cả sự vui vi diệu của sáu môn Ba la mật, như cây Ba lợi chất đa la trên cõi trời Đao lợi” (phẩm Bồ tát Ca Diếp).

Sở dĩ tán dương sự quý báu, đa dạng của Kinh vì Kinh này giảng sâu và rộng về Phật tánh vốn sẳn đủ nơi mỗi người. Phật tánh này vừa là Nền tảng của tất cả chúng sanhthế giới, đồng thờiCon đường để thể hiện Nền tảng ấy và cũng là Quả của Con đường.

Tóm lại, Phật tánh là Nền tảng, vừa là Con đường, vừa là Quả, và cả ba đều nằm trong lòng tin xuyên suốt từ nhất xiển đề, đến bốn quả của Thanh Văn thừa, đến Bồ tát, cho đến Phật quả.

 

Lòng tin là tin vào Phật tánh vốn thường trụ, nên có thể “thấy trực tiếp, hiện tiền”. Tin là tin vào những phẩm tính chẳng thể nghĩ bàn của Phật tánh được nói trong Kinh. Chính lòng tin này khiến chúng ta có thể thấy ít phần Phật tánh để hòa nhập và sống hẳn trong đó.

Thiện nam tử! Kinh Đại Niết Bàn cũng lại như vậy, chẳng thể nghĩ bàn.

Thiện nam tử! như biển cả có tám điều chẳng thể nghĩ bàn: Một là lần lần càng sâu, hai là sâu khó đến đáy, ba là đồng một vị mặn, bốn là thủy triều chẳng quá giới hạn, năm là có nhiều thứ kho tàng báu, sáu là những chúng sanh thân to lớn ở trong đó, bảy là chẳng chứa xác chết, tám là tất cả các dòng đều đổ về và mưa lớn đổ xuống mà biển vẫn chẳng thêm chẳng bớt” (phẩm Bồ tát Sư Tử Hống).

Ở đây chỉ trích ra phẩm tính thứ tám của Kinh Đại Niết Bàn và cũng là phẩm tính thứ tám của Phật tánh:

Thứ tám là chẳng tăng chẳng giảm, vì không biên bờ, vì không bắt đầu không chấm dứt, vì chẳng phải sắc, vì chẳng phải làm ra, vì chẳng sanh chẳng diệt, vì đều bình đẳng với tất cả chúng sanh, vì tất cả đồng một Phật tánh. Đó gọi là chẳng tăng chẳng giảm.

Thế nên kinh này như biển cả kia, có tám điều chẳng thể nghĩ bàn” (phẩm Bồ tát Sư Tử Hống).

Khi tin rằng Phật tánh là chẳng tăng chẳng giảm, không bắt đầu không chấm dứt, không biên bờ, không sanh không diệt, bình đẳng với tất cả chúng sanh vì tất cả đồng một Phật tánh, người ta bắt đầu thấy Phật tánh và hòa nhập với nó.

Pháp giới bình đẳng và đồng nhất này không gì khác hơn là sự biểu lộ của Phật tánh tự tâm

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 16677)
Life is a gift… accept it. Đời là một món quà, hãy nhận lấy. Life is an adventure… pare it. Đời là một cuộc phiêu lưu, hãy giảm dần.
(Xem: 24143)
Đến một lúc, mọi giông tố mịt mùng không che nổi sự bừng sáng của con tim và mọi khổ đau buồn tủi không đánh gục được niềm lạc quan tiềm ẩn trong một tinh thần.
(Xem: 20574)
Phật giáo đã bắt rễ dễ dàng trên mảnh đất Việt Nam. Những người nông dân Việt Nam đang đau khổ và khát vọng sự giải thoát, đã tiếp nhận Phật giáo một cách tự nhiên.
(Xem: 18821)
Ôn hiện thân vào đời năm Đinh Mùi, 1907, tại làng Dạ Lê Thượng, xã Thủy Phương, quận Hương Thủy, Thừa Thiên. Từ đó, Ôn đã mang hành trang của người giác ngộ...
(Xem: 21314)
Sáng sớm vị sư nữ ra mở cổng Tam Quan quét dọn. Sương mù còn giăng kín ngõ. Thoáng chút se lòng sư cô đứng lặng giữa sân như để tĩnh tâm hít thở,...
(Xem: 18273)
Ngày nay, tiền có ít nhất bốn chức năng trong việc phục vụ con người. Dù tốt hay xấu, nó là một phương tiện trao đổi không thể thiếu trong xã hội hiện tại.
(Xem: 19848)
Xung quanh ngôi thạch thất, thầy có trồng dăm loài hoa kiểng, ít cây ổi mận, đu đủ…. Ngày tháng trôi qua, cây trái đã trở nên xum xuê tươi mát, những chậu hoa cũng lấm tấm điểm một vài bông đỏ vàng rực rỡ.
(Xem: 14844)
Bồ đoàn nguyên nghĩa là cái nệm tròn đan bằng cỏ bồ, dùng để lót ngồi hay quỳ lạy. Cỏ bồ có lẽ giống như cỏ năn cỏ lát của nước mình, một thứ vật liệu đơn giản dễ sử dụng.
(Xem: 12971)
Chấp trước, mê chấp, chấp thủ là một trong những gông cùm làm khổ con người. Chính vì hiểu được nỗi khổ này mà Đức Phật luôn dạy các hàng đệ tử là phải phá chấp.
(Xem: 13956)
Nhìn lên bản đồ (kèm theo), ta sẽ thấy Huyền Trang đi theo một đường zigzag rộng lớn, dài hơn nửa đường biên Trung Quốc, vòng quanh nửa nước Ấn Độ...
(Xem: 13147)
Người hộ trì chánh pháp phải biết nhẫn nhục. Nhẫn nhục là biểu hiện sức mạnh nội tâm. Nhẫn nhục cò là phương thuốc thần hiệu để trị bệnh mình và bệnh người.
(Xem: 14010)
Tuổi trẻ học Phật không có mục đích trở thành nhà nghiên cứu Phật học, mà học Phật là tự thực tập khả năng tư duy bén nhạy, linh hoạt, để có thể nhìn thẳng vào bản chất sự sống.
(Xem: 17637)
Mỗi năm, đồng bào Khmer lại tổ chức lễ Sene dolta để con cháu trong gia đình biết ơn bà “chà đôl” và ơn ông “chà ta” đã dày công nuôi dưỡng, sinh thành.
(Xem: 15398)
Trong vô vàn tác phẩm âm nhạc của nhạc sĩ Lê Cao Phan, nhất là các tác phẩm âm nhạc Phật giáo, ca khúc Phật giáo Việt Nam ra đời như là một sự kết tinh trọn vẹn nhất...
(Xem: 14691)
Với chánh niệm, bạn có thể kiến lập bản thân mình trong hiện tại để có thể chạm vào các kỳ diệu của đời sống đang có sẵn trong khoảnh khắc ấy. Có thể sống được hạnh phúc...
(Xem: 14456)
Với người lạc quan, thế gian này tuyệt đối như cánh hoa hồng. Người bi quan trái lại, thấy nó đầy gai chướng. Nhưng đối với người thực tiễn, thế gian không tuyệt đối tươi đẹp...
(Xem: 17852)
Hòa Thượng luôn luôn ý thức về những trở ngại trên bước đường hoằng hóa lợi sinh của mình, nhưng với sự quyết tâm của mình trong tự lợilợi tha Ôn vẫn bước đi...
(Xem: 21897)
Tôi tình cờ đọc được thơ của Cao Thị Vạn Giả vào lúc còn đang học trung học. Một trong những tiểu thuyết mà tôi từng rất thích là tác phẩm Khung Cửa Hẹp của André Gide, do Bùi Giáng dịch.
(Xem: 19453)
Ngày nay nhớ lại quãng đời làm điệu mà tôi cảm thấy nuối tiếc. Quãng thời gian để chỏm sao mà quá nhiều kỷ niệm dễ thương. Những kỷ niệm đầy đạo tình, đạo vị trong chốn thiền môn.
(Xem: 20605)
Bác sĩ Henri Desrives là một khoa học gia hoạt động, vui vẻ và yêu nghề. Như mọi nhà trí thức khác, ông sống một cuộc đời rất thực tế và không buồn lưu ý đến những điều mà khoa học chưa giải thích được...
(Xem: 25134)
Chưa thấy ai/cái gì siêng năng như cái đồng hồ. Gő măi nhịp trường canh đều đặn từ giây này đến giây kế tiếp, từ phút này đến phút kia, từ giờ kia đến giờ nọ… cho đến khi hỏng, hoặc hết năng lượng, hết bin.
(Xem: 16879)
Hoa sen hay Liên hoa là loài hoa thanh khiết thiêng liêngvị trí tôn quý đặc biệt trong giáo nghĩa cùng với sức phát triển bao trùm trên nền văn hóa Phật giáo.
(Xem: 14711)
Trong lý tưởng Bồ tát đạo, có hai ý niệm quan hệ: Đại TríĐại Bi (hay Đại Hạnh). Đại Trí chỉ cho khả năng siêu việt soi thấu bản tính của vạn hữu.
(Xem: 18982)
Ôn Già Lam, chỉ ba tiếng ấy thôi cũng đủ làm ấm lòng bao lớp Tăng sinh của các Phật Học Viện: Báo Quốc - Huế, Phổ Ðà - Ðà Nẵng, Hải Ðức - Nha Trang, Già Lam - Sài Gòn.
(Xem: 22001)
Mùa thu lãng đãng trở về đưa theo từng cơn gió nhẹ, dịu mát. Cả bầu trời như trở mình sống lại, để chuyển rơi rụng những chiếc lá vàng.
(Xem: 20632)
Mở đầu là chuyện thiền sư Khương Tăng Hội từ Việt Nam chống gậy sang miền Giang Tả của Trung Quốc để truyền bá Phật pháp cách đây hơn 1.700 năm (vào năm 247 dương lịch)
(Xem: 25284)
Ngược xuôi trên dòng đời, đôi lúc nhớ về cội nguồn đã xa, tâm cảm kẻ lưu đày như thiền sư Tuệ Sỹ thoáng chốc bâng khuâng, ngậm ngùi như nhà thơ đã ghi lại trong thi phẩm Giấc Mơ Trường Sơn: Ngược xuôi nhớ nửa cung đàn Ai đem quán trọ mà ngăn nẻo về.
(Xem: 15771)
Cùng với tượng tròn (mà chúng tôi đã có dịp giới thiệu trên tập văn số 10) điêu khắc Phật giáo thời Lý, đặc biệt phải kể đến nhiều bức chạm nổi trên đá mà tinh khéo...
(Xem: 15772)
Trong đạo Phật thường nói ý là căn bản của hành động và lời nói. Khi suy nghĩ điều thiện thì lời nói sẽ lành và hành động khắc đẹp. Nghiệp là một thói quen...
(Xem: 20724)
Đọc thi ca chữ Hán và chữ Nôm của Thiền phái Trúc Lâm, có thể nêu lên những cảm hứng sau: Cảm hứng bản thể giải thoát, cảm hứng cõi thiên nhiên Phật nhiệm mầu...
(Xem: 17014)
Một khi ta cảm nhận được sự rộng lớn của cuộc sống này, và thấy được khả năng kinh nghiệm sự sống của mình là bao la đến đâu, thì chắc chắn ta sẽ hiểu được sự buông bỏ.
(Xem: 18634)
Trong văn học cũng như trong thực tế, người ta thường đề cập đến mùa thu có lá rơi, nhưng ít ai lại thấy thực tế hơn, chính xác hơn là trong bốn mùa, mùa nào cũng có lá rơi rụng cả.
(Xem: 20021)
Loại thức ăn thứ nhất là đoàn thực, tức là những thức ăn đi vào miệng của chúng ta. Chánh kiến cũng là biết phân biệt những đoàn thực có hại và những đoàn thực không có hại.
(Xem: 39308)
Vào độ thu, khi lúa chín rộ, những cánh đồng bát ngát như một tấm thảm vàng hoe. Nông dân đây đó tụ tập chúc mừng nhau một vụ mùa thắng lợi, và trời đất cũng hòa nhịp trong bầu không khí tràn ngập niềm hạnh phúc ấy.
(Xem: 31510)
Không có nhà tỷ phú nào không kiêu hãnh về tiền bạc, nhưng chính niềm kiêu hãnh ấy, lại tạo ra những sự lo lắng, sợ hãi, nghi ngờbất hạnh cho họ.
(Xem: 30599)
Thuở nhỏ cứ mỗi khi đến rằm tháng bảy, hình ảnh Đại Hiếu Mục Kiền Liên luôn hiện về trong tôi với đoản văn Bông Hồng Cài Aó của Thầy Nhất Hạnh.
(Xem: 36015)
Trong truyền thuyết dân gian phương Đông, rồng có chín con với hình dángsở thích hoàn toàn khác nhau. Các con của rồng được dân gian sử dụng làm linh vật trang trí ở những vị trí, những vật dụng với những ngụ ý đặc biệt khác nhau.
(Xem: 23866)
Một thời Thế Tôn trú ở Ràjagaha, tại Trúc Lâm, gọi các Tỷ kheo:Này các Tỷ kheo, đầy đủ năm đức tánh, người nữ nhân hoàn toàn không khả ý đối với người đàn ông.
(Xem: 26548)
Thuở mới đăng sơn cắm dùi khẩn đất làm chốn ẩn tu, sư lủi thủi một mình chẳng có móng đệ tử lăng xăng đón đưa phục dịch, sư tự vác cuốc, quẩy gánh...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant