Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Đôi Điều Về Học Giới Luật Phật Giáo

10 Tháng Tám 202119:49(Xem: 3505)
Đôi Điều Về Học Giới Luật Phật Giáo
Đôi Điều Về Học Giới Luật Phật Giáo

Thích Hạnh Chơn

Hiệu quả của Thiền Tỉnh Thức áp dụng trong học đường Hoa Kỳ


Giới luật Phật giáo không dành riêng cho đối tượng nào nhưng hàng xuất gia là đối tượng bắt buộc phải học giới luật Phật giáo.

Có thể nói rằng luật pháp ra đời là từ nhu cầu thực tế của cộng đồng và nhằm phục vụ cộng đồng con người. Theo luật tạng, Đức Phật chế giới khi trong Tăng đoàn (cộng đồng/tập thể Tăng sĩ) có Tỷ-kheo làm những điều phi đạo đức hay những điều gây mất uy tín cho Tăng đoàn. Mục đích chế giới trước hết là nhằm xử lý, giải quyết các vấn đề bất ổn trong Tăng đoàn. Theo thời gian và khi điều kiện xã hội thay đổi, giới luật Phật giáo chắc chắn có điều còn nguyên giá trị nhưng cũng có những điều (mang tính ứng phó với văn hóa xã hội) không còn phù hợp. Trong xã hội loài người, hiến pháp, luật pháp của bất cứ quốc gia nào cũng thường được tu chỉnh để phù hợp với xã hội nơi nó tồn tại. Do đó, việc học giới luật Phật giáo cũng cần phải theo hướng phù hợp với thời đại ngày nay. Trong bài viết này, người viết xin mạo muôi nêu vài ý kiến mang tính tham khảo cho vấn đề rất tế nhị này.

Theo sử liệu ghi lại thì năm thứ 13 sau khi thành đạo giới luật do Phật chế mới thật sự hình thành.1 Căn cứ vào các văn bản giới luật chúng ta thấy rõ rằng: Giới luật Phật chế là dành cho các vị xuất gia sống trong Tăng đoàn. Đối với hàng tại gia, Phật chỉ chế 5 giới và 8 giới (Bát quan trai giới). Về sau, Phật giáo Đại thừa thì có thêm giới Bồ-tát cho hàng tại gia. Ngoài ra, một số người theo truyền thống Đại thừa (Bắc tông) cho rằng 10 điều thiện (Thập thiện) là giới cho hàng tại gia nên các đại giới đàn có thêm phần truyền Thập thiện cho hàng tại gia. Đây là điều còn tranh cãi. Các bộ luật hiện có không ghi chép các điều luật Phật chế để xử lý hàng tại gia ngoại trừ cách ứng xử từ chối nhận thực phẩm, tài vật từ người tại gia (úp bát) khi thấy họ có những lỗi lầm quá đáng (không phải phạm giới).

Xác định nội dung giới luật dạy và học

Giới luật Phật giáo được biên tập lại nên có ít nhiều thêm bớt. Sau khi Đức Phật nhập diệt và kỳ kiết tập thứ nhất được tổ chức, 500 vị A-la-hán do ngài Đại Ca-diếp làm chủ tọa đã tuyên bố giữ nguyên giới luật Phật chế không được thêm bớt. Lời tuyên bố ấy thực tế không thể thực hiện được hoàn toànthời gian sau đó các bộ phái được hình thành và họ đã sử dụng các bộ luật có vài điểm khác nhau, dù ít và nhỏ. Nếu theo lời tuyên bố của ngài Đại Ca-diếp, vậy thì bộ phái nào tuân thủ đúng, bộ phái nào vi phạm? Sự thật không ai có thể trả lời được và qua đó chứng minh rằng giới luật Phật giáo không phải là bất di bất dịch. Điểm qua các bộ luật hiện có, chúng ta thấy bộ Tứ phần có 250 giới dành cho Tỷ-kheo Tăng, Ngũ phần có 251 giới, Tăng kỳ có 218 giới, bộ luật bằng tiếng Pāli được chư Tăng Nam truyền sử dụng có 227 giới. Nếu so sánh các tạp sự giữa các bộ luật, chúng ta cũng sẽ thấy có sự khác nhau.

Trong các giới Tỷ-kheo, thực tế những giới được áp dụng là những giới căn bản quan trọng. Lấy luật Tứ phần làm ví dụ, ngoài các giới thuộc thiên (chương) Ba-la-di (Parajika dhammas) được áp dụng trọn vẹn trong Tăng đoàn, các giới trong các chương còn lại có thể chỉ áp dụng một số giới tùy theo chương. Hơn nữa, mặc dù chương Ba-la-di gồm 4 giới căn bản quan trọng nhưng trên thực tế thì giới sát (giết người) hiếm có Tỷ-kheo nào phạm và nếu phạm thì luật pháp nhà nước xử tội trước, giới nói dối (đại vọng ngữ) khó có Tỷ-kheo nào phạm tới mức đủ bằng chứng để Tăng đoàn cử tội Ba-la-di, giới trộm cướp cũng không có định lượng cụ thể để Tăng đoàn cử tội Ba-la-di trừ khi Tỷ-kheo ấy bị nhà nước xử tội. Chỉ có giới thứ nhất là dễ phạm và dễ cử tội Ba-la-di nhất vì nó cụ thể. Các chương khác như: chương Tăng-già-bà-thi-sa (Sanghadisena dhammas) có giới thứ 6, thứ 7 liên hệ đến chỗ ở và giới thứ 13 (không bỏ tánh xấu) khó áp dụng trong thực tế Tăng đoàn ngày nay. Trong chương Ni-tát-kỳ-ba-dật-đề (Nissaggiya pacittiya dhammas), các giới liên quan đến cất giữ y áo, bình bát, dược phẩm, vật dụng… hiếm thấy áp dụng trong cuộc sống thực tế của Tăng chúng. Chương Ba-dật-đề (Pacittiya dhammas) thì chỉ có khoảng 1/3 các giới có thể áp dụng trong Tăng đoànliên quan đến việc ứng xử, đạo đức. Chương Một trăm pháp chúng học (Sekhiya dhammas) dạy về các oai nghi, cách giao tiếp thuộc giới nhẹ áp dụng nhắc nhở sám hối. Chương Bảy pháp diệt tránh (Adhikarana samatha dhammas) dạy cách giải quyết tranh cãi, bất hòa trong nội bộ Tăng đoàn nên được áp dụng khi có tranh cãi. Còn chương Hai pháp bất định (Aniyata dhammas) và chương Bốn pháp Ba-la-đề-đề-xá-ni (Patidesaniya dhammas) thực tế hiếm thấy áp dụng trong Tăng đoàn ngày nay.

Như vậy, phần giới bổn Tỷ-kheo nếu giảng dạy thì nên giới thiệu tổng quát 250 giới nhưng cho học kỹ thì nên chọn những giới nào có thể áp dụng trong đời sống thực tế của Tăng đoàn. Học những điều không áp dụng được thì giúp có kiến thức nhưng quá nhiều sẽ làm tốn thời gian của chương trình học trong khi các điều cần học thì không được dạy.

Phần thứ hai là những điều cần truyền dạy nhưng các trường Phật học ít quan tâm do không có thiết kế chương trình hoặc không có thời gian cho phần đó. Phần cần truyền dạy là các luật (quy định) thực hiện các pháp yết-ma: thọ giới, thuyết giới bố-tát, an cư, tự tứ, hòa giải tranh cãi (chương Câu-thiểm-di), cử tội (chương Chiêm-ba), xử tội… Những pháp này thuộc về tác trì mà bất cứ Tăng đoàn nào cũng phải thực hành. Các chương liên quan đến da thuộc, y áo, thuốc, phòng xá, tạp sự thực tế không áp dụng nên ai muốn tham khảo thì tự đọc.

Phần thứ ba cần dạy là hiến chương, nội quy Tăng sự, các bộ luật liên quan đời sống tôn giáo, các bộ quy tắc hướng dẫn sinh hoạt cho Tăng Ni trong xã hội hiện tại mang tính khả thi.

Đối tượng học giới luật Phật giáo

Giới luật Phật giáo không dành riêng cho đối tượng nào nhưng hàng xuất gia là đối tượng bắt buộc phải học giới luật Phật giáo. Theo chương trình hiện hành được áp dụng tại các trường Phật học, ở cấp sơ cấp và trung cấp các Tăng sinh thường chỉ được học 4 bộ luật của Sa-di gồm: Tỳ-ni, Sa-di thập giới, 24 oai nghi, Cảnh sách và Sa-di luật giải. Nếu dạy đầy đủ các bộ luật này thì 3 hay 4 năm trung cấp khó hoàn tất chương trình. Việc học thuộc lòng 4 bộ luật này là đáng quý nhưng cốt lõi là chỉ cần nắm rõ 10 giới Sa-di, 24 quy tắc oai nghi để áp dụng trong đời sống Tăng đoànTỳ-ni và Cảnh sách thì cảnh tỉnh tu tập.

Về giới Tỷ-kheo và các luật mà Tỷ-kheo phải thực hành khi sống trong Tăng đoàn, thì theo luật bất thành văn chỉ khi nào Sa-di thọ Đại giới trở thành Tỷ-kheo mới được học. Vấn đề đặt ra là tại sao không giới thiệu cho họ biết trước những điều giới luật họ sẽ thọ nhận giữ gìn khi bước vào hàng Tăng bảo để họ cân nhắc trước khi thọ? Tại sao Sa-di không được dạy các già nạn (các điều kiện không được quyền thọ Đại giới), bổn phận đệ tử (luật Tứ phần) trước khi họ được thọ đại giới mà phải chờ đến khi có Đại giới đàn rồi thì mới có vị đại diện hỏi qua loa hình thức các già nạn?!

Ở cấp độ đại học hay cao đẳng, môn Giới luật học cương yếu chỉ vài tín chỉ thì không thể chuyển tải hết nội dung căn bản của giới luật Phật giáo. Đặc biệt, các cách thức thực hiện yết-ma trong các sinh hoạt Phật giáo như nêu trên chưa đưa vào giảng dạy. Một người xuất gia theo Bắc tông hiện nay được chú trọng truyền dạy 4 bộ luật tiểu một cách chi tiết nhưng lại thiếu thời gian để truyền dạy những điều quan trọng hơn như giới Tỷ-kheo, các điều luật Tỷ-kheo phải làm, các pháp yết-ma… trong các sinh hoạt Tăng đoàn.

Như vậy, một vị Tỷ-kheo bắt buộc phải biết các giới luật căn bản để có thể sống trong Tăng đoàn. Cũng giống như công dân cần biết luật để tham gia giao thông, tham gia sinh hoạt trong cộng đồng một quốc gia.

Với Phật tử tại gia, họ có thể tìm hiểu về giới luật Phật giáo để hỗ trợ chư Tăng giữ giới nhưng thật sự mà nói không mấy ai có thời gian để phát tâm học giới Tỷ-kheo để làm hạnh nguyện đó. Hơn nữa, đối tượng mà Phật nhắm tới để truyền dạy giới luật không phải là cư sĩ mà là tu sĩ bởi hàng xuất gia sống theo Tăng đoàn.

Giới luật Phật giáo thì rất nhiều và chi tiết nhưng những điều quan trọng có thể áp dụng trong đời sống Tăng đoàn thì không quá nhiều. Do đó, việc dạy học giới luật Phật giáo cần điều chỉnh cho phù hợp.

Đối với các vị trụ trì, họ ít nhất phải hiểu rõ các điều giới luật quan trọng và các pháp yết-ma trong Phật giáo. Đối với các vị chuyên luật thì họ có thể nghiên cứu sâu để thực hiện các đại lễ cần yết-ma và giảng dạy.

Những vấn đề tế nhị này khi đề cập rất dễ bị phản bác bởi những vị mang tinh thần bảo thủ. Ở đây, người viết đưa ra quan điểm mang tính đề xuất. Dù vậy, quan điểm này phù hợp với tôn chỉ của Đức Phậtgiáo pháp hay giới luật không phải là chiếc bè quý hiếm phải đội sau khi qua sông, mà nó phải được sử dụng như là phương tiện để qua sông mà thôi. Giới luật được áp dụng trong đời sống thực tiễn nhằm đem đến sự ổn định trong Tăng đoàn và sự an lạc cho mỗi cá nhân xuất gia (2 trong 10 nguyên nhân Phật chế giới), nhưng không vì thế mà rơi vào “giới cấm thủ”.

Mùa xuân bắt đầu một năm, học và thọ giới bắt đầu cho đời sống Tỷ-kheo - thành viên của Tăng đoàn. Đề cập vấn đề giới luật đầu xuân với mong mỏi rằng ngành luật Phật giáo xem xét soạn ra chương trình giảng dạy giới luật phù hợp cho các vị mới xuất gia. Ngành cũng cần nghiên cứu thiết kế chương trình cho các vị xuất gia học giới luật trước khi thọ chúng. Mục đíchđào tạo cho các thành viên Tăng đoànhiểu biết về giới luật Phật giáo. Đó cũng là giải pháp nhằm tránh các trường hợp truyền giới phi pháp xảy ra thời gian qua và giúp hạn chế những điều đáng tiếc do người không hiểu giới luật gây ra.

Thích Hạnh Chơn / Nguyệt san Giác Ngộ

__________________________

(1) Thích Tuệ Sỹ biên soạnTứ phần luật, HCM: NXB.Hồng Đức, 2019; Viên Trí, Ý nghĩa giới luậtHCM: NXB Hồng Đức, tr.37.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 3405)
Sau khi đức Thế Tôn thành đạo, Ngài suy tư và tuyên bố rằng: “Xa lìa dục vọng, được sự tịch tịnhthù thắng nhất!”
(Xem: 3774)
Tại Kinh Thành có một vị cư sĩ, có thể nói là bậc “Thiên kinh vạn quyển”, viết không biết bao nhiêu bài bình giảng về giáo lý...
(Xem: 3941)
Khi cầu nguyện, tâm trở nên tĩnh lặng và tập trung. Đó là việc khá tốt cho đời sống nhân loại khi những cầu nguyện mang tính chân, thiện, mỹ.
(Xem: 3552)
Thế là đến chiều tối, đức Phật và chúng tỳ-khưu mới tới được nơi dự định. Trăng vừa lên, sương mù bàng bạc, không gian như trải một màn lụa mỏng.
(Xem: 4512)
Mưa xuân không tầm tã, không kéo dài. Chỉ một hai cơn, trong một hai ngày, vừa đủ tắm ướt những ngọn lá và...
(Xem: 3875)
Tenzin Gyatso, Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 của Tây Tạng, là một nhân vật quen thuộc của công chúng.
(Xem: 3353)
Như tất cả những vị nghiên cứu đều biết rằng Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh do cố Hòa Thượng Thích Tịnh Hạnh chủ trương, hầu hết được dịch thẳng từ bản chữ Hán của Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh
(Xem: 3824)
Vào giữa thập niên 1980, Elizabeth Harris, một Kitô hữu người Anh, cảm thấy sự thúc giục phải buông bỏ đức tin tôn giáo cố hữu của mình để...
(Xem: 3522)
Tenzin Gyatso, người được những tín đồ và những người ngưỡng mộ ngài tôn xưng là Đức Thánh Thiện Đạt Lai Lạt Ma.
(Xem: 2869)
Bài Pháp thoại (Dharma Talk) ngày 28 tháng 3 năm 2021 tại Chùa Beeh Low See, Singapore và Chùa Mahakaruna Buddhist Center cũng như Chùa Vihara Mahavira Graha Medan tại Indonesia.
(Xem: 3541)
“Một thời Đức Phật ở Câu-tát-la, du hành giữa nhân gian và có đại chúng Tỳ-kheo đi theo.
(Xem: 3813)
"Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm, là gì?" Xếp Kinh lại gối nơi đầu, ngủ trong dòng suối mát của lời Kinh nhiệm mầu.
(Xem: 2952)
Theo quan điểm của anh chị, Nhẫn nhụcAn phận khác và giống nhau chỗ nào? Quý anh chị chia sẽ kinh nghiệm Người Huynh Trưởng thực hành Hạnh Nhẫn Nhục như thế nào trong đời sống và sinh hoạt GĐPT?
(Xem: 5088)
Mưa xuân không tầm tã, không kéo dài. Chỉ một hai cơn, trong một hai ngày, vừa đủ tắm ướt những ngọn lá và thấm một lớp mỏng
(Xem: 3519)
Vào ngày rằm tháng 4, năm 623 trước công nguyên tại vườn Lâm Tỳ Ni gần thành Ca Tỳ La Vệ, một nơi hiện nay là...
(Xem: 3302)
Vào giữa thập niên 1980, Elizabeth Harris, một Kitô hữu người Anh, cảm thấy sự thúc giục phải buông bỏ đức tin tôn giáo cố hữu của mình để bước vào thế giới một đức tin khác.
(Xem: 3909)
Tenzin Gyatso, người được những tín đồ và những người ngưỡng mộ ngài tôn xưng là Đức Thánh Thiện Đạt Lai Lạt Ma, tự gọi ngài là một thầy tu giản dị
(Xem: 3881)
Thiền sư Seigan Shōtetsu (1381-1459) là một trong vài người làm thơ nhiều nhất trong thi giới Nhật Bản.
(Xem: 4362)
Bây giờ chúng ta đến trình độ thậm thâm nhất của từ ái và bi mẫn, trình độ này là có thể bởi kiến thức về tính không của sự tồn tại cố hữu.
(Xem: 3755)
Huyền Trân Công Chúa, một anh thư rực sáng của nền trời nước Việt!
(Xem: 4111)
Bốn mươi câu trích dẫn lời Đức Phật dưới đây được chọn lọc trong số 60 câu đã được đăng tải trên một trang mạng bằng tiếng Pháp
(Xem: 3809)
Giảng luận về bài “ Bình Ngô Đại Cáo” ( 曹鶴岱平 ) ( Great Proclamation of Đại Việt Victory over Northern Invaders, translated by Prof. Nguyễn Cao Hách – University of Saigon )
(Xem: 3775)
Tôi nhớ lại một cuộc trao đổi đầy băn khoăn vài năm trước đây mà tôi có với một người Mỹ
(Xem: 3803)
Vào ngày 06.3.2021, Tu Viện Pháp Vương khởi sự cho một công trình "Ngày Hội Trồng Cây". Quí Phật tử vân tập về mảnh đất yêu thương của mình mà Tu Viện đã sẵn sàng cho khoảnh vườn cây ăn trái.
(Xem: 3798)
Tôi chưa bao giờ được rèn luyện trong khoa học. Kiến thức của tôi chính yếu có từ việc đọc những tin tức bao gồm...
(Xem: 4291)
Vấn đề Nam tôngBắc tông là một vấn đề tương đối rất cũ – cũ đến hơn một ngàn năm trăm năm kể từ ngày con người có được cái hạnh phúc biết đến giáo pháp của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni.
(Xem: 4162)
Đức Phật không phải là một vị Thượng đế, vậy thì tại sao giáo huấn của Ngài là một tôn giáo và tại sao Phật tử tôn thờ Ngài như Thượng đế?
(Xem: 3369)
Cách nay chừng vài tuần lễ tôi nhận được một phong thư dày gửi đi từ Thầy Thanh An ở Tích Lan, trong đó có quyển sách trên. Sách do nhà xuất bản Hồng Đức ấn hành năm 2020
(Xem: 3338)
Bây giờ chúng ta đến trình độ thậm thâm nhất của từ ái và bi mẫn, trình độ này là có thể bởi kiến thức về tính không của sự tồn tại cố hữu.
(Xem: 3272)
Vào lúc Hán học còn thịnh hành tại Việt Nam trước 1975, những nghiên cứu về phật giáo đa phần quy chiếu vào kinh sách hay ...
(Xem: 5630)
Phật tánh là tạng báu tánh giác (giác bảo tạng) mà tất cả chúng sanh đều sẳn có, như kho vàng ròng của người...
(Xem: 3625)
Phật Giáo Việt Nam kể từ khi lập quốc (970) đến nay đã đóng góp rất lớn cho nền Văn Học Việt Nam qua các triều đại...
(Xem: 3934)
Trong chương này tôi sẽ giải thích về tính vô thường, trình độ thứ nhất của hai trình độ của tuệ giác vào tiến trình của sinh tử luân hồi.
(Xem: 4152)
Trong Kinh Thập Thiện Nghiệp Đạo, Đức Thế Tôn đã dạy cho Long Vương ở tại cung điện Long Vương Ta Kiệt La rằng...
(Xem: 3675)
Cứ mỗi độ xuân về, khoảng đầu tháng chạp là nhà ngoại rộn ràng tất bật.
(Xem: 4324)
Chú mục đồng chậm rãi bước xuống sông. Bên cạnh chú, con trâu lớn nhất đàn ngoan ngoãn xuống theo.
(Xem: 4116)
Có một vấn đề tưởng chừng như đáng cho Phật tử chúng ta để ý: Vấn đề ân nghĩa.
(Xem: 4189)
Mỗi năm Tết đến, khi những làn mưa Xuân nhè nhẹ, gió Xuân mơn man ùa về trên những vườn mai vàng, những cành đào
(Xem: 3651)
Hoằng pháp là một trong những trách nhiệm quan trọng của người đệ tử Phật. Chính vì thế mà chư tổ dạy rằng
(Xem: 3467)
con người, chúng ta sống trong đời này đều trải qua nhiều giai đoạn với niềm vui lẫn nỗi buồn.
(Xem: 3881)
Cuộc pháp thoại giữa Đức PhậtTrưởng lão Tu Bồ Đề trong kinh Kim Cang Bát Nhã là một pháp thoại sâu sắc
(Xem: 3915)
Trong văn học Phật giáo nói chung và văn học Thiền tông nói riêng thời hình ảnh con trâu với trẻ mục đồng đã trở thành thi liệu, biểu tượng...
(Xem: 3669)
Trên con đường tu hành, hành giả thường gặp phải những thứ chướng ngại và những thứ chướng ngại đây gọi chung là “Ma”.
(Xem: 5224)
Trong nền văn hóa của chúng ta, mọi người cảm thấy rất khó để hướng lòng nhân ái đến bản thân.
(Xem: 3085)
Cảm Nhận Sự Thấu Cảm - Nguyên bản: Feeling Empathy. Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma . Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 7217)
Tư Tưởng Phật Giáo Trong Văn Học Thời Trần - Tác giả: Nguyễn Vĩnh Thượng
(Xem: 3420)
Mối Tơ Vương Của Huyền Trân Công Chúatác phẩm có tính đặc trưng nhất về thủ pháp nghệ thuật lồng ghép truyện trong truyện, đan xen tình tiết, cài cắm tư tưởng khi trần thuật của nhà văn Thích Như Điển
(Xem: 4367)
Thế gian ly sanh diệt. Du như hư không hoa. Trí bất đắc hữu vô. Nhi hưng đại bi tâm.
(Xem: 3628)
Khi chúng ta phát triển một ý tưởng thô về ý nghĩa gì là sự lệ thuộc trên tư tưởng, chúng ta nên tự hỏi mình rằng...
(Xem: 3288)
Nguyên bản: View Yourself As Like an Illusion. Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma. Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant