Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Đôi Điều Về Học Giới Luật Phật Giáo

10 Tháng Tám 202119:49(Xem: 3509)
Đôi Điều Về Học Giới Luật Phật Giáo
Đôi Điều Về Học Giới Luật Phật Giáo

Thích Hạnh Chơn

Hiệu quả của Thiền Tỉnh Thức áp dụng trong học đường Hoa Kỳ


Giới luật Phật giáo không dành riêng cho đối tượng nào nhưng hàng xuất gia là đối tượng bắt buộc phải học giới luật Phật giáo.

Có thể nói rằng luật pháp ra đời là từ nhu cầu thực tế của cộng đồng và nhằm phục vụ cộng đồng con người. Theo luật tạng, Đức Phật chế giới khi trong Tăng đoàn (cộng đồng/tập thể Tăng sĩ) có Tỷ-kheo làm những điều phi đạo đức hay những điều gây mất uy tín cho Tăng đoàn. Mục đích chế giới trước hết là nhằm xử lý, giải quyết các vấn đề bất ổn trong Tăng đoàn. Theo thời gian và khi điều kiện xã hội thay đổi, giới luật Phật giáo chắc chắn có điều còn nguyên giá trị nhưng cũng có những điều (mang tính ứng phó với văn hóa xã hội) không còn phù hợp. Trong xã hội loài người, hiến pháp, luật pháp của bất cứ quốc gia nào cũng thường được tu chỉnh để phù hợp với xã hội nơi nó tồn tại. Do đó, việc học giới luật Phật giáo cũng cần phải theo hướng phù hợp với thời đại ngày nay. Trong bài viết này, người viết xin mạo muôi nêu vài ý kiến mang tính tham khảo cho vấn đề rất tế nhị này.

Theo sử liệu ghi lại thì năm thứ 13 sau khi thành đạo giới luật do Phật chế mới thật sự hình thành.1 Căn cứ vào các văn bản giới luật chúng ta thấy rõ rằng: Giới luật Phật chế là dành cho các vị xuất gia sống trong Tăng đoàn. Đối với hàng tại gia, Phật chỉ chế 5 giới và 8 giới (Bát quan trai giới). Về sau, Phật giáo Đại thừa thì có thêm giới Bồ-tát cho hàng tại gia. Ngoài ra, một số người theo truyền thống Đại thừa (Bắc tông) cho rằng 10 điều thiện (Thập thiện) là giới cho hàng tại gia nên các đại giới đàn có thêm phần truyền Thập thiện cho hàng tại gia. Đây là điều còn tranh cãi. Các bộ luật hiện có không ghi chép các điều luật Phật chế để xử lý hàng tại gia ngoại trừ cách ứng xử từ chối nhận thực phẩm, tài vật từ người tại gia (úp bát) khi thấy họ có những lỗi lầm quá đáng (không phải phạm giới).

Xác định nội dung giới luật dạy và học

Giới luật Phật giáo được biên tập lại nên có ít nhiều thêm bớt. Sau khi Đức Phật nhập diệt và kỳ kiết tập thứ nhất được tổ chức, 500 vị A-la-hán do ngài Đại Ca-diếp làm chủ tọa đã tuyên bố giữ nguyên giới luật Phật chế không được thêm bớt. Lời tuyên bố ấy thực tế không thể thực hiện được hoàn toànthời gian sau đó các bộ phái được hình thành và họ đã sử dụng các bộ luật có vài điểm khác nhau, dù ít và nhỏ. Nếu theo lời tuyên bố của ngài Đại Ca-diếp, vậy thì bộ phái nào tuân thủ đúng, bộ phái nào vi phạm? Sự thật không ai có thể trả lời được và qua đó chứng minh rằng giới luật Phật giáo không phải là bất di bất dịch. Điểm qua các bộ luật hiện có, chúng ta thấy bộ Tứ phần có 250 giới dành cho Tỷ-kheo Tăng, Ngũ phần có 251 giới, Tăng kỳ có 218 giới, bộ luật bằng tiếng Pāli được chư Tăng Nam truyền sử dụng có 227 giới. Nếu so sánh các tạp sự giữa các bộ luật, chúng ta cũng sẽ thấy có sự khác nhau.

Trong các giới Tỷ-kheo, thực tế những giới được áp dụng là những giới căn bản quan trọng. Lấy luật Tứ phần làm ví dụ, ngoài các giới thuộc thiên (chương) Ba-la-di (Parajika dhammas) được áp dụng trọn vẹn trong Tăng đoàn, các giới trong các chương còn lại có thể chỉ áp dụng một số giới tùy theo chương. Hơn nữa, mặc dù chương Ba-la-di gồm 4 giới căn bản quan trọng nhưng trên thực tế thì giới sát (giết người) hiếm có Tỷ-kheo nào phạm và nếu phạm thì luật pháp nhà nước xử tội trước, giới nói dối (đại vọng ngữ) khó có Tỷ-kheo nào phạm tới mức đủ bằng chứng để Tăng đoàn cử tội Ba-la-di, giới trộm cướp cũng không có định lượng cụ thể để Tăng đoàn cử tội Ba-la-di trừ khi Tỷ-kheo ấy bị nhà nước xử tội. Chỉ có giới thứ nhất là dễ phạm và dễ cử tội Ba-la-di nhất vì nó cụ thể. Các chương khác như: chương Tăng-già-bà-thi-sa (Sanghadisena dhammas) có giới thứ 6, thứ 7 liên hệ đến chỗ ở và giới thứ 13 (không bỏ tánh xấu) khó áp dụng trong thực tế Tăng đoàn ngày nay. Trong chương Ni-tát-kỳ-ba-dật-đề (Nissaggiya pacittiya dhammas), các giới liên quan đến cất giữ y áo, bình bát, dược phẩm, vật dụng… hiếm thấy áp dụng trong cuộc sống thực tế của Tăng chúng. Chương Ba-dật-đề (Pacittiya dhammas) thì chỉ có khoảng 1/3 các giới có thể áp dụng trong Tăng đoànliên quan đến việc ứng xử, đạo đức. Chương Một trăm pháp chúng học (Sekhiya dhammas) dạy về các oai nghi, cách giao tiếp thuộc giới nhẹ áp dụng nhắc nhở sám hối. Chương Bảy pháp diệt tránh (Adhikarana samatha dhammas) dạy cách giải quyết tranh cãi, bất hòa trong nội bộ Tăng đoàn nên được áp dụng khi có tranh cãi. Còn chương Hai pháp bất định (Aniyata dhammas) và chương Bốn pháp Ba-la-đề-đề-xá-ni (Patidesaniya dhammas) thực tế hiếm thấy áp dụng trong Tăng đoàn ngày nay.

Như vậy, phần giới bổn Tỷ-kheo nếu giảng dạy thì nên giới thiệu tổng quát 250 giới nhưng cho học kỹ thì nên chọn những giới nào có thể áp dụng trong đời sống thực tế của Tăng đoàn. Học những điều không áp dụng được thì giúp có kiến thức nhưng quá nhiều sẽ làm tốn thời gian của chương trình học trong khi các điều cần học thì không được dạy.

Phần thứ hai là những điều cần truyền dạy nhưng các trường Phật học ít quan tâm do không có thiết kế chương trình hoặc không có thời gian cho phần đó. Phần cần truyền dạy là các luật (quy định) thực hiện các pháp yết-ma: thọ giới, thuyết giới bố-tát, an cư, tự tứ, hòa giải tranh cãi (chương Câu-thiểm-di), cử tội (chương Chiêm-ba), xử tội… Những pháp này thuộc về tác trì mà bất cứ Tăng đoàn nào cũng phải thực hành. Các chương liên quan đến da thuộc, y áo, thuốc, phòng xá, tạp sự thực tế không áp dụng nên ai muốn tham khảo thì tự đọc.

Phần thứ ba cần dạy là hiến chương, nội quy Tăng sự, các bộ luật liên quan đời sống tôn giáo, các bộ quy tắc hướng dẫn sinh hoạt cho Tăng Ni trong xã hội hiện tại mang tính khả thi.

Đối tượng học giới luật Phật giáo

Giới luật Phật giáo không dành riêng cho đối tượng nào nhưng hàng xuất gia là đối tượng bắt buộc phải học giới luật Phật giáo. Theo chương trình hiện hành được áp dụng tại các trường Phật học, ở cấp sơ cấp và trung cấp các Tăng sinh thường chỉ được học 4 bộ luật của Sa-di gồm: Tỳ-ni, Sa-di thập giới, 24 oai nghi, Cảnh sách và Sa-di luật giải. Nếu dạy đầy đủ các bộ luật này thì 3 hay 4 năm trung cấp khó hoàn tất chương trình. Việc học thuộc lòng 4 bộ luật này là đáng quý nhưng cốt lõi là chỉ cần nắm rõ 10 giới Sa-di, 24 quy tắc oai nghi để áp dụng trong đời sống Tăng đoànTỳ-ni và Cảnh sách thì cảnh tỉnh tu tập.

Về giới Tỷ-kheo và các luật mà Tỷ-kheo phải thực hành khi sống trong Tăng đoàn, thì theo luật bất thành văn chỉ khi nào Sa-di thọ Đại giới trở thành Tỷ-kheo mới được học. Vấn đề đặt ra là tại sao không giới thiệu cho họ biết trước những điều giới luật họ sẽ thọ nhận giữ gìn khi bước vào hàng Tăng bảo để họ cân nhắc trước khi thọ? Tại sao Sa-di không được dạy các già nạn (các điều kiện không được quyền thọ Đại giới), bổn phận đệ tử (luật Tứ phần) trước khi họ được thọ đại giới mà phải chờ đến khi có Đại giới đàn rồi thì mới có vị đại diện hỏi qua loa hình thức các già nạn?!

Ở cấp độ đại học hay cao đẳng, môn Giới luật học cương yếu chỉ vài tín chỉ thì không thể chuyển tải hết nội dung căn bản của giới luật Phật giáo. Đặc biệt, các cách thức thực hiện yết-ma trong các sinh hoạt Phật giáo như nêu trên chưa đưa vào giảng dạy. Một người xuất gia theo Bắc tông hiện nay được chú trọng truyền dạy 4 bộ luật tiểu một cách chi tiết nhưng lại thiếu thời gian để truyền dạy những điều quan trọng hơn như giới Tỷ-kheo, các điều luật Tỷ-kheo phải làm, các pháp yết-ma… trong các sinh hoạt Tăng đoàn.

Như vậy, một vị Tỷ-kheo bắt buộc phải biết các giới luật căn bản để có thể sống trong Tăng đoàn. Cũng giống như công dân cần biết luật để tham gia giao thông, tham gia sinh hoạt trong cộng đồng một quốc gia.

Với Phật tử tại gia, họ có thể tìm hiểu về giới luật Phật giáo để hỗ trợ chư Tăng giữ giới nhưng thật sự mà nói không mấy ai có thời gian để phát tâm học giới Tỷ-kheo để làm hạnh nguyện đó. Hơn nữa, đối tượng mà Phật nhắm tới để truyền dạy giới luật không phải là cư sĩ mà là tu sĩ bởi hàng xuất gia sống theo Tăng đoàn.

Giới luật Phật giáo thì rất nhiều và chi tiết nhưng những điều quan trọng có thể áp dụng trong đời sống Tăng đoàn thì không quá nhiều. Do đó, việc dạy học giới luật Phật giáo cần điều chỉnh cho phù hợp.

Đối với các vị trụ trì, họ ít nhất phải hiểu rõ các điều giới luật quan trọng và các pháp yết-ma trong Phật giáo. Đối với các vị chuyên luật thì họ có thể nghiên cứu sâu để thực hiện các đại lễ cần yết-ma và giảng dạy.

Những vấn đề tế nhị này khi đề cập rất dễ bị phản bác bởi những vị mang tinh thần bảo thủ. Ở đây, người viết đưa ra quan điểm mang tính đề xuất. Dù vậy, quan điểm này phù hợp với tôn chỉ của Đức Phậtgiáo pháp hay giới luật không phải là chiếc bè quý hiếm phải đội sau khi qua sông, mà nó phải được sử dụng như là phương tiện để qua sông mà thôi. Giới luật được áp dụng trong đời sống thực tiễn nhằm đem đến sự ổn định trong Tăng đoàn và sự an lạc cho mỗi cá nhân xuất gia (2 trong 10 nguyên nhân Phật chế giới), nhưng không vì thế mà rơi vào “giới cấm thủ”.

Mùa xuân bắt đầu một năm, học và thọ giới bắt đầu cho đời sống Tỷ-kheo - thành viên của Tăng đoàn. Đề cập vấn đề giới luật đầu xuân với mong mỏi rằng ngành luật Phật giáo xem xét soạn ra chương trình giảng dạy giới luật phù hợp cho các vị mới xuất gia. Ngành cũng cần nghiên cứu thiết kế chương trình cho các vị xuất gia học giới luật trước khi thọ chúng. Mục đíchđào tạo cho các thành viên Tăng đoànhiểu biết về giới luật Phật giáo. Đó cũng là giải pháp nhằm tránh các trường hợp truyền giới phi pháp xảy ra thời gian qua và giúp hạn chế những điều đáng tiếc do người không hiểu giới luật gây ra.

Thích Hạnh Chơn / Nguyệt san Giác Ngộ

__________________________

(1) Thích Tuệ Sỹ biên soạnTứ phần luật, HCM: NXB.Hồng Đức, 2019; Viên Trí, Ý nghĩa giới luậtHCM: NXB Hồng Đức, tr.37.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 16268)
Theo quan điểm của Đạo Phật, một người, một đối tượng hay ngay cả một thời điểm nào đấy được diễn tả như 'thiêng liêng' khi nó không bị nhơ uế hay nhiễm ô bởi tham lam...
(Xem: 14969)
Nếu có điều kiện, chùa cần phải hòa nhập với cảnh trí thiên nhiên. Vườn cảnh quanh chùa nếu khéo phối trí có thể làm tăng vẻ u nhàn, thanh thoát, trang nghiêmthiền vị.
(Xem: 17300)
Pháp thoại của HT Thích Nguyên Siêu với đề tài Duy Ma Cật vào lúc 6: 00 pm ngày Thứ năm 8/12/2011 cho Hội Đồng Huynh Trưởng Cấp DŨNG và Cấp TẤN Hoa kỳ... Tâm Đăng
(Xem: 16897)
Tường thuật buổi giảng kinh Duy Ma Cật của HT Thích Nguyên Siêu cho huynh trưởng GĐPT cấp Tấn ngày 9/12/2011 - Tâm Minh
(Xem: 19701)
Thầy là tất cả như bông hoa cỏ nội mây ngàn, núi cao biển rộng hàm tàng đại thể như nhiên...
(Xem: 15071)
Cung điện Potala bắt đầu được xây dựng vào năm 1645 dưới thời Đạt Lai Lạt Ma thứ 5, phải mất 50 năm mới hình thành quy mô như hiện nay gồm Hồng cung và Bạch cung...
(Xem: 16099)
Tỉnh! Trong thiền thất của vị sư già, tỉnh! Tỉnh như ngọn đèn dầu yên tỉnh. Sáng mà không lay. Cháy mà không chao động... Nguyên Siêu
(Xem: 14042)
Y phục của người xuất gia cũng gây nhiều sự chú ý của giới nghệ thuật, chiếc áo cà sa đã đi vào văn học dân gian, im đậm vào văn hoá và tư tưởng con người.
(Xem: 12755)
Những sự vật đều nằm trong tiến trình của sự trở thành để rồi tan rã. Như thế một vật có tính chất tạm thời thì không thể cho chúng ta hạnh phúc thật sự...
(Xem: 12839)
Cũng một mùa xuân trong sáng đẹp đẽ như hôm nay nhưng là một mùa Xuân xa xăm lắm, một vị Quốc vương có tiếng nhân từ vui vẻ, ngự giá về các làng mạc thôn xóm...
(Xem: 12499)
Chúng ta đến đây là tiếp xúc cho được với niềm vui và nỗi buồn của một triều đại, của một ông vua, để từ đó có thể tiếp xúc được với niềm vui, nỗi buồn của chính mình trong kiếp sống con người này.
(Xem: 13492)
Một hôm, Ðức Phật cùng đệ tử vào thuyết pháp trong thành La Duyệt Kỳ, lúc ra về gặp chành thanh niên đang lùa một bầy bò vừa ăn no, chúng nhảy vọt vào húc nhau...
(Xem: 13692)
Bên trời sương mù đã tan hẳn. Vầng thái dương ẩn hiện sau áng mây thua, chiếu ánh sáng huy hoàng trong khoảng không gian trong tạnh...
(Xem: 13912)
Bước đi trong chánh niệm, chúng ta sẽ tiếp xúc được những sự màu nhiệm của cuộc sống. Từng bước chân thiền hành đã cho tôi tiếp xúc được với đất trời vào Thu...
(Xem: 14288)
Ngày xưa, thuở đức Phật còn tại thế, một hôm có người mẹ ôm xác con tìm đến đức Phật để khóc lóc và xin cứu sống cho đứa con của bà vừa mới chết...
(Xem: 12672)
Sau lễ tiễn đưa Phật và các thầy Tỳ kheo trở về tịnh xá Kỳ Hoàn, vua A Xà Thế cùng với đình thần trở lại nội cung để dự buổi yến thân mật...
(Xem: 13827)
Sau khi kính cẩn chắp tay hình búp sen, tôi quyết định chụp một tấm hình bên cạnh Đức Phật Như Lai. Và cùng với đó là ước nguyện nụ cười luôn nở trên môi mình...
(Xem: 13844)
Hôm nay theo thứ lớp khất thực Ðạo sĩ A La phải đặt chân vào một chiếc cổng cổ kính, nhưng không kém phần tráng lệ và mỹ thuật của một thương gia...
(Xem: 13723)
Con người không nên đổ thừa hoàn cảnh, mà phải có cuộc cách mạng tinh thần phổ cập trong xã hội với giá trị đạo đức Phật giáo để tháo những gỡ vướng mắc trong đời sống hiện tại.
(Xem: 13391)
Ngày mùa đông chúng tôi rủ nhau ra khu rừng chồi nho nhỏ cạnh khu nhà ở mướn của chúng tôi để hái hoa, hái trái dại về cắm bình hoa nhỏ...
(Xem: 16031)
Khi còn đi học, anh nghe chuyện kể rằng: Có nhà thám hiểm đi lạc vào bộ lạc của tộc người hung dữ. Người tù trưởng muốn mượn cớ giết anh để tỏ rõ sự khôn ngoan trước bộ tộc.
(Xem: 16123)
Chùa Từ Đàm từ quốc nội đến hải ngoại - HT Thích Nguyên Siêu
(Xem: 13844)
Xây dựngcủng cố một dòng chính văn hóa để đất nước tiến lên mà không mất gốc không hỗn loạn, đẹp mà dễ thương đó cũng là trách nhiệm của trí thức đương thời.
(Xem: 16776)
Đám lá dừa bắt đầu xào xạc, mùi mưa ẩm ướt xộc vào nhà qua mấy cánh cửa đang mở toan hoang. Tiếng mưa rào rào to dần như đã đến ngay cạnh bờ mương...
(Xem: 14349)
Sự bình an trong đời sống chưa bao giờ bỏ rơi người. Nó chỉ bị che lấp bởi những điều vụn vặt tầm thường. Để tìm lại sự bình an đó, người phải lau rửa, dọn dẹp lại bên trong người.
(Xem: 13063)
Cuộc đời ba trải dài theo năm tháng với bao biến cố bởi sóng gió cuộc đời; như dòng sông quê mình quanh co, uốn lượn mà mỗi khúc sông là một dòng chảy khác nhau...
(Xem: 13499)
Tôi bước lên đồi. Choáng ngợp trước một rừng hoa đại xum xuê rộng lớn. Những gốc cây sù sì, gân guốc tua tủa như đôi tay lực sĩ mạnh mẽ vươn cao. Biển trời bao la.
(Xem: 13459)
Con mèo mù nhìn là động lòng thương tâm, trắc ẩn! Gương mặt non nớt yếu ớt với hai hốc mắt dính lại, đi đứng liêu xiêu. Mỗi lần cho ăn, mình phải bế nó để lên bàn...
(Xem: 17569)
"Cái kiếp con người: Sinh lụy tử". Đó là điều chắc chắn. Nước mắt đã nhỏ xuống quá nhiều cho cái vòng tròn khép kín này.
(Xem: 13206)
Từ những chiếc lá xanh non cho đến lúc úa tàn héo rũ, đã trở thành quy luật thay đổi mất còn của tạo hoá.
(Xem: 13986)
Nếu mai là ngày cuối của cuộc đời tôi sẽ nói với bạn hãy nhìn tôi mà chiêm nghiệm và suy ngẫm một chút về cuộc đời này nhé, bạn ơi! Hãy sống có ích cho chính bản thân mình...
(Xem: 12609)
Sư ông bảo rằng: “Tiếng chuông đại hồng ngân lên không phải chỉ có chúng ta nghe được mà chư vị Bồ tát, Hộ pháp cũng đều nghe thấy. Tiếng chuôngcông năng siêu thoát...
(Xem: 12551)
Người biết yêu điều tốt ghét điều xấu là người biết phục thiện; người biết phục thiện thì dễ tiếp thu đạo lý giác ngộ; người biết tiếp thu đạo lý giác ngộ thì dễ thực hành tự tri...
(Xem: 12792)
Cảm khái từ một bản báo cáo của Liên Hiệp Quốc, Paul và gia đình vận động mọi người ngày thứ Hai không dùng thịt, như là một phương cách làm chậm lại sự biến đổi của khí hậu.
(Xem: 12998)
Dù là một kẻ ăn mày, những kẻ hèn mạc thấp nhất trong xã hội thì họ cũng có quyền sống và khao khát được sống. Ai tước đoạt quyền ấy của họ thì cũng có ngày sẽ phải trả giá...
(Xem: 15428)
Mỗi đêm trong sự thực tập Phật Giáo của tôi, tôi cho và nhận. Tôi nhận sự nghi ngờ của người Trung Cộng. Tôi tặng lại niềm tintừ bi.
(Xem: 15199)
Hãy quán hơi thở! Hơi thở luôn ở đây cùng chúng ta. Đức Phật đã dạy chúng ta thực hành thiền định về hơi thở, điều này cũng rất hữu ích như thiền định về chánh niệm.
(Xem: 13522)
Con về ngồi bên chân mẹ ngắm nhìn đôi chân xưa nhiều năm tất bật với đôi dép nhựa quanh năm. Bàn chân nứt nẻ đau rát mà mẹ đâu quản.
(Xem: 12895)
Đức Phật vì lòng thương con người nên chỉ rõ con đường Chân thật, tìm lại tâm mình trong những sóng gió khổ đau, biến đổi, mà tìm thấy được Chân thường trong Vô thường...
(Xem: 14300)
Biết Phật pháp, ứng dụng được Phật pháp vào đời sống của mình, đó là phước báu lớn nhất mà mình nhận được trong cuộc đời này. Bởi nhờ đó, mình đi không lầm lẫn.
(Xem: 14588)
Những ai đang đi trên lộ trình tâm linh và những ai muốn sống hòa hợp với người khác thì việc phát ngôn với sự hiểu biếtthương yêu là điều rất quan trọng.
(Xem: 13026)
Đời sống không chỉ là bung ra, thổi tốc mảnh tâm, đi truy tìm tự ngã trong một chốn sơn khê nào đó, hay trong những đô thị sầm uất, trong một cõi hoang vu...
(Xem: 12305)
Cái tạo nên giá trị làm người ở trong xã hội là nhân cách. Có nhân cách lớn (nhân cách tự-do-tinh-thần) là do có trí-tuệ-nhân-văn cao, có trí-lương-tri trong sáng...
(Xem: 13807)
Giữa đô thị ồn àophồn hoa, giữa nhịp sống náo nhiệt và vội vã, ta đi tìm riêng một khoảng lặng bình yên...
(Xem: 15128)
Với Phật giáo, sự hình thành và tồn tại của mỗi sự vật hay hiện tượng đều do nhân duyên. Duyên hợp thì sự thành, duyên tán thì sự tan.
(Xem: 21445)
Là một người Phật tử, Steve Jobs đã rất tinh tế khi sống lời Đức Phật dạy bằng cách cố vượt ra khỏi sự bức bách của tám nhân duyên ám ảnh trần thế...
(Xem: 14613)
Mặc dù thiền định là kỷ luật tôn giáo chính được thực hành bởi các Phật tử gốc Mỹ, nghi thức tụng niệm là một phần quan trọng của nhiều cơ sở thiền định.
(Xem: 14904)
Cần phảisức mạnh để nhận thức rằng chính nỗi sợ hãi và sự vị kỷ mới gây ra tức giận. Và cần phải có kỷ luật để thiền định về ngọn lửa đang hừng hực cháy của lòng sân hận.
(Xem: 13892)
Đã mấy mùa Xuân đi qua, mùa Thu trở lại, dòng đời vẫn trôi chảy, mây vẫn bay, nước vẫn thì thầm với rừng núi và cỏ cây… HT Thích Như Điển
(Xem: 16768)
Đẹp đến nao lòng, khi trong tiết tháng Bảy mưa phùn giăng nhẹ, và bất chợt nở nghiêng giàn những chùm hoa mướp cong cong. Thắt the và tươi mới. Nôn nao và tha thiết.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant