Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Từ BiTánh Không Trong Kinh Đại Bát Nhã

06 Tháng Mười 202120:05(Xem: 3769)
Từ Bi Và Tánh Không Trong Kinh Đại Bát Nhã

Từ BiTánh Không Trong Kinh Đại Bát Nhã

Nguyễn Thế Đăng

Dây Trói Bền Chắc Nhất

 

Thoạt nhìn thì tánh Khôngtừ bi có vẻ ngược hướng nhau, vì tánh Không nhắm đến một thực tại tuyệt đối còn từ bi thì lại hướng về một thế giới và chúng sanh vô thường, tương đối. Nhưng trong Kinh Đại Bát Nhã, mỗi khi nhắc đến Phật đều có đức tính đại từ đại bi, chẳng hạn ngay phẩm đầu tiên, phẩm Tựa:

Này Xá Lợi Phất! Đại Bồ tát muốn biết khắp cả công đức của Phật như mười trí lực, bốn vô sở uý, bốn trí vô ngại, mười tám pháp bất cộng, đại từ đại bi, thì phải tu tập Bát nhã ba la mật” (Kinh Đại Bát nhã, ngài Cưu Ma La Thập dịch)

Trong bài này chúng ta tìm hiểu mối tương quan và hợp nhất của tánh Khôngtừ bi như thế nào trên con đường Bồ tát.

 

Con đường Bồ táttự giácgiác tha, đây là Bồ đề tâm. Tự giáctrí huệbiết thật tướng của tất cả các pháp” (Phẩm Kim Cương, thứ mười ba). Thật tướngtánh Không. Giác tha là tâm đại bi giải thoát cho những người khác. Tự giác đến đâu thì giác tha đến đó, nghĩa là trí huệđại bi đi cùng nhau trên con đường Bồ tát.

Thực hành chính của Bồ tátSáu ba la mật. Sáu ba la mật từ bố thí cho đến trí huệ là sự phối hợp giữa trí huệ tánh Khôngviệc làm phát xuất từ tâm từ bi đem sự an lạc cho chúng sanh. Chẳng hạn Bố thí ba la mật:

đại Bồ tát an trụ sáu ba la mật lấy Bố thí làm đầu để đem sự an lạc cho tất cả chúng sanh, ban cho họ những thứ ăn uống, y phục, phòng giường, hương hoa, đèn sáng, châu ngọc, tùy theo chỗ đáng cần dùngcung cấp cho chúng sanh” (Phẩm Vãng Sanh, thứ tư).

Trí huệ tánh Không, tâm đại bi với chúng sanh kết hợp với nhau tạo thành công đức của Bồ tát:

Thế nên, này Tu Bồ Đề! Đại Bồ tát muốn vượt lên trên tất cả chúng sanh thì phải học Bát nhã ba la mật. Muốn làm chỗ cứu hộ cho chúng sanh không được cứu hộ, muốn làm chỗ quy y cho chúng sanh không có chỗ quy y, muốn làm con đường rốt ráo cho chúng sanh không có con đường rốt ráo, muốn làm mắt sáng cho chúng sanh mù loà, muốn được công đức Phật, muốn làm Phật tự tại du hý, muốn làm Phật nói pháp như sư tử rống, muốn đánh chuông Phật, đánh trống Phật, thổi ốc tù và Phật, lên tòa Phật cao thuyết pháp, muốn dứt nghi cho tất cả chúng sanh thì phải học Bát nhã ba la mật sâu xa.

Này Tu Bồ Đề! Nếu đại Bồ tát học Bát nhã ba la mật sâu xa thì không công đức lành nào mà chẳng được” (phẩm Đẳng Học, thứ sáu mươi ba).

Bồ tát tu tánh Không ở ngay trong sanh tử, vì trong sanh tử mới có chúng sanh, và Bồ tát thì chẳng bao giờ bỏ chúng sanh. Bồ tát tìm cầu và điêu luyện những đức tính Bồ tát, những ba la mật, những công đức khi ở trong sanh tử cùng với chúng sanh.

Nếu thật hành Bồ tát hạnh, cho đến một chút ơn nhỏ còn chẳng quên huống là nhiều, đây gọi là biết ơn báo ơn. Nếu đối với tất cả chúng sanh không giận hờn, không làm não hại, đây gọi là an trụ lực nhẫn nhục. Lấy sự thành tựu chúng sanh làm niềm vui, đây gọi là thọ hoan hỷ. Nghĩ nhớ muốn cứu tất cả chúng sanh, đây gọi là chẳng bỏ tất cả chúng sanh. Nếu nghĩ như vậy: tôi vì mỗi mỗi chúng sanh mà nhận chịu cần khổ trong địa ngục đến hằng sa kiếp chừng nào chúng sanh ấy thành Phật nhập Niết bàn, đây là vì tất cả chúng sanh mười phương mà nhẫn thọ sự khổ nhọc nên gọi là nhập đại bi tâm. Nếu đối với bậc sư trưởng xem như Phật, đây gọi là tin tưởng cung kính học hỏi nơi thầy. Nếu nhất tâm siêng cầu các môn ba la mật mà không cầu việc gì khác, đây gọi là siêng cầu các ba la mật” (phẩm Phát Thú, thứ hai mươi).

Như thế, thực hành Bồ tát hạnh là hành trí huệ tánh Không đi cùng với đại bi cứu giúp, độ thoát chúng sanh.

 “Ngài Tu Bồ Đề nói: “Người thực hành Bồ tát đạo vì cứu tất cả chúng sanh nên tâm chẳng lìa bỏ tất cả chúng sanh, bởi vì vô sở đắc vậy.

Bồ tát phải thường chẳng lìa niệm này: chính là niệm Đại bi”.

Ngài Xá Lợi Phất lại hỏi: “Muốn khiến đại Bồ tát thường chẳng lìa niệm này: chính là niệm đại bi. Nếu đại Bồ tát thường chẳng lìa niệm đại bi, thì ngay giờ đây tất cả chúng sanh phải là Bồ tát, bởi vì tất cả chúng sanh cũng chẳng lìa các niệm.

Ngài Tu Bồ Đề nói: “Lành thay! Lành thay! Ngài Xá Lợi Phất muốn chất vấn tôi mà lại trở thành nghĩa của tôi.

Tại sao thế? Vì chúng sanh không có nên niệm cũng Không. Vì tánh chúng sanh không có nên tánh niệm cũng Không. Vì pháp chúng sanh không có nên pháp niệm cũng Không. Vì chúng sanh lìa nên niệm cũng lìa. Vì chúng sanh rỗng không nên niệm cũng rỗng không. Vì chúng sanh bất khả tri nên niệm cũng bất khả tri.

Này ngài Xá Lợi Phất! Vì sắc không có nên niệm cũng Không. Vì tánh sắc không có nên tánh niệm cũng Không. Vì pháp sắc không có nên pháp niệm cũng Không. Vì sắc lìa nên niệm cũng lìa. Vì sắc rỗng không nên niệm cũng rỗng không. Vì sắc bất khả tri nên niệm cũng bất khả tri. Cho đến Vô thượng Bồ đề cũng vậy.

Này ngài Xá Lợi Phất! Đại Bồ tát thực hành Bồ tát đạo, tôi muốn chớ lìa niệm này: chính là niệm đại bi”.

Bây giờ Đức Phật khen ngợi: “Lành thay! Lành thay! Đây chính là Bát nhã ba la mật của đại Bồ tát. Ai muốn nói thì phải nói như vậy. Tu Bồ Đề nói về Bát nhã ba la mật đều là tuân thừa ý của Phật. Đại Bồ tát học Bát nhã ba la mật thì phải học như lời của Tu Bồ Đề nói.” (phẩm Vô Sanh, thứ hai mươi sáu)

Trước hết Bồ tát thực hành Bồ tát đạo phải chẳng bao giờ lìa niệm đại bi. Nếu lìa bỏ, không có niệm đại bi thì chẳng phải là Bồ tát.

Nhưng đại bi ấy phải gắn liền với tánh Không. Trí huệ tánh Không là cái thấy thật tướng của tất cả các pháp, kể cả chúng sanh, là tánh Không. Đại bi gắn liền với tánh Khôngđại bi mà không có chủ thể và đối tượng, đại bi mà “không có các tướng ngã, nhân, chúng sanh, thọ mạng, tác giả, khởi giả, tri giả…” (phẩm Tu Tập Đúng, thứ ba).

Tại sao “chúng sanh không có nên niệm cũng không”? Vì trong cái thấy của trí huệ Bát nhã, chúng sanh là “vô tự tánh, rỗng không, vô sở hữu, bất khả đắc”. Chúng sanh là “như huyễn như mộng”. Tất cả các pháp, sắc thanh hương vị xúc đều như thế.

Và “chúng sanh không có, sắc không có nên niệm cũng Không”. Niệm phân biệtnguyên nhân tạo ra nghiệp. Niệm đã Không thì nghiệp cũng Không, nghiệp cũng như mộng như huyễn. Với trí huệ thấy tánh Không, thấy chúng sanh, niệm của họ, nghiệp của họ đều như mộng như huyễn thì Bồ tát mới có thể vì đại bi mà ở lại thế gian sanh tửvô số kiếp để cứu độ chúng sanh.

Chính vì đại bi hợp nhất với tánh KhôngBồ tát có thể làm như đoạn kinh đã được trích ở trên, “Tôi vì mỗi mỗi chúng sanh mà nhẫn chịu cần khổ trong địa ngục đến hằng sa kiếp chừng nào chúng sanh ấy thành Phật nhập Niết bàn, đây là vì tất cả chúng sanh mười phương mà nhẫn thọ sự khổ nhọc nên gọi là nhập đại bi tâm”. Đại bi nhờ tánh Không mà có thể chịu đựng như vậy, vì trong tánh Không không có thời gian, không gian, không có địa ngục và không có chúng sanh và nghiệp của chúng sanh.

Đại bi hợp nhất với tánh Không khiến cho Bồ tát, việc làm của Bồ tátchúng sanh đều như mộng như huyễn cho nên Bồ tát làm việc ở thế gian mà vẫn giải thoát.

Ngài Tu Bồ Đề nói: Nầy các Thiên tử! Tất cả các pháp đều như mộng, không có người nói, không có người nghe, không có người biết.

Nầy các ngài! Tất cả các pháp đều như huyễn, trong đó không có người nói, không có người nghe, cũng không có người biết” (phẩm Thiên Vương, thứ hai mươi bảy).

 

Vấn đề chúng sanh, chịu khổ vì chúng sanh để giáo hóa cứu độ chúng sanh là công việc nặng nhọc khó khăn nhất của tâm đại bi, nhưng nhờ trí huệ tánh Không mà sự khổ nhọc ấy được nhẹ nhàng, thậm chí đó là công việc đưa đến giải thoát. Trong khi làm việc vì chúng sanh, Bồ tát nhờ đồng thời sống trong tánh Không mà sự dính mắc với chúng sanh, điều gây ra những phiền não cho Bồ tát như tham, sân, si, kiêu mạn, đố kỵ, tiêu tan dần. Như thế Bồ tát tự giải thoát khỏi chấp ngãchấp pháp trong khi nỗ lực giải thoát cho những người khác.

Đại Bồ tát đúng với tâm Nhất thiết trí, nghĩ rằng tôi sẽ làm cho vô lượng vô biên vô số tất cả chúng sanh an trụ sáu ba la mật. Tôi sẽ đặt tất cả chúng sanh nơi bốn niệm xứ cho đến mười tám pháp bất cộng. Tôi sẽ làm cho tất cả chúng sanh được quả Tu đà hoàn cho đến Nhất thiết chủng trí. Nhưng thật khôngchúng sanh an trụ sáu ba la mật cho đến được Nhất thiết chủng trí. Vì sao thế? Vì pháp tướng như huyễn vậy. Ví như nhà huyễn thuật giỏi.

Đây gọi là đại Bồ tát đại trang nghiêm” (phẩm Trang Nghiêm, thứ mười bảy).

Đại trang nghiêm cùng ý nghĩa với một câu nói được Kinh nhắc lại nhiều lần “Tịnh Phật quốc độ, thành tựu chúng sanh”. Câu kinh này để tóm tắt con đường Bồ tát, cũng được ghi lại nhiều trong các kinh Đại thừa.

Đại bi cứu độ chúng sanh kết hợp với trí huệ thấy thật tướng của chúng sanh, theo kinh nói, là rất khó, dễ gây kinh sợ, mê mờ buồn chán:

Ngài Tu Bồ Đề nói với các Thiên tử: Chư đại Bồ tát ở nơi các pháp chẳng chứng bậc Thanh Văn, Bích Chi Phật chẳng lấy làm khó. Chư đại Bồ tát đại trang nghiêm, tôi sẽ độ vô lượng vô biên vô số chúng sanh, nhưng biết chúng sanh rốt ráo bất khả đắc mà độ chúng sanh, đây mới là khó.

Các Thiên tử! Đại Bồ tát phát tâm Vô thượng Bồ đề nguyện rằng tôi sẽ độ tất cả chúng sanh. Chúng sanh thật chẳng thể đắc, người này muốn độ chúng sanh như muốn độ hư không.

Vì sao thế? Vì hư không là lìa, phải biết chúng sanh cũng là lìa. Vì hư không là Không, phải biết chúng sanh cũng là Không. Vì hư không chẳng kiên cố, phải biết chúng sanh cũng không kiên cố. Vì hư không hư dối, phải biết chúng sanh cũng hư dối.

Các Thiên tử! Thế nên biết chỗ làm của đại Bồ tát là khó, vì lợi ích chúng sanh không chỗ có (vô sở hữu)đại trang nghiêm. Bồ tát này vì chúng sanh mà kết thệ nguyện là muốn tranh đấu cùng với hư không. Bồ tát này kết thệ nguyện rồi nhưng cũng chẳng thấy có chúng sanh để vì chúng sanh kết thệ nguyện. Tại sao? Vì chúng sanh là lìa, phải biết thệ nguyện cũng lìa. Vì chúng sanh hư dối phải biết thệ nguyện cũng hư dối.

Nếu đại Bồ tát nghe pháp như thế mà lòng chẳng sợ, chẳng mê mờ nghi ngại, phải biết đó là đại Bồ tát hành Bát nhã ba la mật…

Đức Phật dạy: Này Tu Bồ Đề! Đại Bồ tát thành tựu hai pháp sau đây thì ma chẳng phá hoại được: một là quán tất cả các pháp là Không, hai là chẳng lìa bỏ tất cả chúng sanh” (phẩm Hư Không, thứ sáu mươi lăm).

Quán tất cả các pháp là Không, đó là Trí huệ. Chẳng lìa bỏ tất cả chúng sanh, đó là đại bi. Nhưng tại sao chỉ nói là “quán” mà không nói là “chứng, thể nhập”? Bởi vì nếu chứng, thể nhập hoàn toàn tánh Không thì phải bỏ chúng sanh. Vấn đề này Kinh nói như sau:

Đức Phật dạy: Này Tu Bồ Đề! Như thế đó, đại Bồ tát hành Bát nhã ba la mật, học quán Không, an trụ trong Không; học quán Vô tướng, Vô tác, an trụ trong Vô tướng Vô tác, tu bốn niệm xứ cho đến tu tám thánh đạo, dầu thực hành ba mươi bảy phẩm trợ đạo mà chẳng tác chứng quả Tu Đà Hoàn cho đến chẳng tác chứng quả A La HánĐộc Giác Phật” (phẩm Học Không Bất Chứng, thứ sáu mươi).

Bồ tát học tất cả Phật pháp, tất cả Ba Thừa, nhưng chẳng tác chứng quả A La HánĐộc Giác Phật, bởi vì tác chứng Không thì sẽ nhập Niết bàn, sẽ lìa bỏ chúng sanh.

Cho nên Kinh thí dụ con đường Bồ tát như chim bay lượn trong hư không; chẳng an trụ trong hư không (ở trong Niết bàn Không, Vô tướng, Vô tác, mà cũng chẳng rớt xuống đất (sanh tử).

Này Tu Bồ Đề! Cũng vậy, đại Bồ tát ở trong tất cả chúng sanh, tâm từ bi hỷ xả tràn đầy cùng khắp, an trụ trong bốn tâm vô lượng, đầy đủ sáu ba la mật, chẳng chứng lấy quả vô lậu, học Nhất thiết chủng trí, nhập ba môn giải thoát: Không, Vô tướng, Vô tác. Bấy giờ Bồ tát chẳng theo tất cả các tướng mà cũng chẳng chứng Vô tướng tam muội. Vì chẳng chứng Vô tướng tam muội nên chẳng sa vào các bậc Thanh VănĐộc Giác Phật.

Này Tu Bồ Đề! Ví như chim có đủ cánh, bay lượn trong hư không chẳng bị rơi rớt, dầu chim ở trong hư không mà cũng chẳng an trụ trong hư không.

Cũng vậy, đại Bồ tát dầu học Không, Vô tướng, Vô tác giải thoát môn nhưng chẳng tác chứng. Vì chẳng tác chứng nên chẳng sa vào bậc Thanh Văn, Độc Giác Phật. Do chưa đầy đủ mười trí lực, đại từ, đại bi, vô lượng Phật pháp, Nhất thiết chủng trí nên chẳng chứng lấy Không, Vô tướng, Vô tác giải thoát môn” (phẩm Học Không Bất Chứng, thứ sáu mươi).

Tóm lại không chỉ nhờ tánh Không mà còn nhờ đại bi chẳng bỏ chúng sanh, Bồ tát mới khỏi sa vào giải thoát của bậc Thanh VănĐộc Giác Phật, để đạt đến quả Phật, làm lợi lạc cho tất cả chúng sanh.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 10703)
Những khám phá độc đáo và những lời dạy về sự giác ngộ đã trở nên gần gũi hơn qua việc thực hành tôn giáo, với khái niệm lúc ban đầu về Phật giáo đang tiến triển dần...
(Xem: 11244)
Con đường mà mỗi người phải trải qua quả thật đầy rẫy những chướng ngại, hoang mang và lầm lẫn. Vì thế phải cần có một vị thầy đích thật...
(Xem: 12220)
Trí Hải đã vượt suối trèo non tìm lên chùa Từ Vân trên núi Ngọc Trảng, phía Tây núi Kim Phụng, đến gặp thiền sư Trúc Lâm...
(Xem: 10363)
Diễm phúc sao trong phút cuối trong một đời kẻ vô nghì như tôi với quá nhiều tội lỗi lại được Hoà Thượng trụ trì ngồi niệm hồng danh Phật tiếp dẫn.
(Xem: 11517)
Hạnh phúc của con người không đến từ sự thù hận, tức giận cho nên sự trang trải tình thương trong cuộc sống xã hội là điều cần thiết nhất để hóa giải sự xung đột.
(Xem: 10899)
Xin nhớ rằng: chính nhờ những trải nghiệm khổ đau chúng ta mới đánh giá đúng đắn và hiểu thấu giá trị đích thực của hạnh phúcan lạc...
(Xem: 10665)
Thường hay tự nhủ rằng: Mình không có được cái diễm phúc sanh nhằm thời có Phật, nhưng được nghe Pháp Phật; được gặp người bạn đồng tu và được làm thân người.
(Xem: 10105)
Thiện tâm không chấp nhận máu đổ để chiến thắng nên ăn chay, không giết hại muôn loài là giải nghiệp sát sanh.
(Xem: 11455)
Những năm trước, hai gốc tùng trước sân như hai đứa trẻ, dáng điệu miệt mài trong cơn gió hiu hắt của mùa thu. Quanh năm suốt tháng, không một lời qua lại...
(Xem: 10234)
Đức Phật không phải là quan tòa để phán xử và tự cho mình có quyền phép để đưa người này vào Thiên Đàng hay đẩy người kia xuống Hỏa Ngục.
(Xem: 11134)
Tôi hát cho mẹ bài Năm Uẩn Chẳng Là Ta phổ nhạc từ Bát Nhã Tâm Kinh. Mắt mẹ vẫn nhắm chặt, hơi thở lên xuống đều đặn.
(Xem: 12706)
Cuộc tu là một chiến trận, binh lực phải được vận dụng để đối phó với những gì thật sự là đối phương, chẳng để nhằm vào những khóm lau bụi cỏ để hái hoa bắt bướm.
(Xem: 11001)
Ðối với đạo Phật, cái chính là tinh thần từ bi bình đẳng. Từ bi bình đẳng là một trong những đặc điểm nổi bật và quan trọng nhất trong Phật Giáo.
(Xem: 11936)
Sự khác biệt của mọi vật là do nghiệp riêng của chúng, chứ bản chất chúng vẫn là Chân Như. Như sóng sanh khởi từ đại dương, biến thành một làn sóng di động...
(Xem: 11986)
Một chậu quỳnh hoa có nhiều nụ là tin tức được mọi người đón chờ. Chậu hoa được đặt gần bên chánh điện, món quà sang nhất của thiền viện...
(Xem: 10486)
Tháng 8, đất trời hân hoan chào đón những đợt nắng mới, nô nức và nồng nhiệt như cảnh đồng loại đang nô đùa ngoài bể xa.
(Xem: 10923)
Khi đời sống nội tâm của bạn được lành mạnh, sung túc thì cuộc sống bên ngoài cũng sẽ ảnh hưởng theo và ngày càng trở nên phong phú.
(Xem: 10551)
Thực ra, tên gọi và hình thức món chay sẽ không là gì nếu ta không quá xem trọng nó. Mọi vật sẽ trở nên bình thường như những món quà hương vị của cuộc sống...
(Xem: 13521)
Thật vậy, luôn có một sự tương quan chặt chẽ giữa lòng vị thahạnh phúc. Nhiều công trình nghiên cứu còn cho thấy là hành động cho mang lại nhiều xúc động tốt đẹp hơn...
(Xem: 11225)
Thủy vừa nói vừa đưa mắt nhìn ra xa. Đôi mắt đen láy đượm buồn. Trong nhà Thủy là người giống mẹ hơn cả, đặc biệt là đôi mắt.
(Xem: 10577)
Vậy, Tiểu Sư Phụ đi đâu? Cô bé hỏi. Nhìn đôi mắt thủy sắc, tôi trả lời - trả lời với chính mình, đi đâu à? Tôi cũng hỏi câu này nhiều lắm rồi.
(Xem: 10445)
Ca ngợi con ngườihoa sen không chỉ là tôn vinh sự chiến thắng vinh quang sau cùng của chúng, mà còn là ca ngợi sự kiên nhẫn, chịu đựng, gian khổ khó khăn...
(Xem: 12707)
Không ai có thể biết trước những gì sẽ xảy ra vào ngày mai... Thế nhưng ta vẫn có một niềm tin... Vậy thì hãy hành xử một cách tốt đẹp nhất và không hối tiếc gì cả.
(Xem: 11664)
Tôi tự nghĩ hóa ra khủng hoảng kinh tế cũng là những gì liên hệ đến xúc cảm. Tôi nghĩ rằng người ta dung túng quá đáng các thứ xúc cảm tàn phá, chẳng hạn như sự tham lam...
(Xem: 15064)
Tôi cảm thấy rằng những hệ thống không thực tế do con người tạo ra cuối cùng sẽ trở lại trong cung cách nhân bản tự nhiên. Chúng tôi yêu mến tự do.
(Xem: 16317)
Tiết Vu Lan bâng khuân nhớ Cha công dưỡng dục, mùa Báo hiếu bùi ngùi thương Mẹ đức cù lao... Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 11781)
Ta hiện hữuhiện hữu với cha mẹ, với thầy, với bạn. Ta hiện hữuhiện hữu với con người, với muôn loài và với thiên nhiên. Không có cha mẹ thì sẽ không bao giờ có ta.
(Xem: 11627)
Không biết tự bao giờ, hình ảnh cái hàng rào quê bình dị, thân thương gắn liền với tuổi thơ nhọc nhằn nhưng cũng nhiều niềm vui đã in sâu trong tâm thức của tôi.
(Xem: 14012)
Như một vị Đạt Lai Lạt Ma đầu tiên du hành sang phương Tây, ngài cũng đã ca tụng những đạo đức bất bạo động đến hàng triệu người...
(Xem: 12135)
Con thuyền sau những tháng năm đưa khách qua sông, rồi đỗ mục ở bến sông đời lặng lẽ… Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 13663)
Điều cần thiết, trước nhất, là xóa tan cội rễ của những cảm xúc tiêu cực, của phiền não, tiêu trừ chính nguồn gốc của sân hậnthù oán.
(Xem: 12086)
Nắng đã biến thành là thứ tâm linh vô giá, che chở cho đời, cho con người, như bàn tay của Bồ tát Quán Thế Âm, đem niềm vui hạnh phúc cho nhân loại.
(Xem: 11550)
phải chăng sau cánh cửa hẹp là phương trời phóng khoáng, sau ưu phiềnan lạc thảnh thơi, sau bất hạnhhạnh phúc ngọt ngào…
(Xem: 13136)
Theo sự nghiên cứu, chúng tôi không hề thấy có việc đốt vàng mã cúng tế người chết được ghi trong tam tạng kinh điển của nhà Phật.
(Xem: 14252)
Tôi nghĩ con người phải mang theo tâm linh của họ - - và sự đấu tranh của họ. Và tôi nghĩ có thể là một phương pháp bất bạo động.
(Xem: 11786)
Chư Tăng sống có mục đích công ích thì quần chúng sẽ không xa rời đạo Phật; chư Tăngquần chúng đều hướng vào tâm linhcông ích xã hội...
(Xem: 12466)
Giáo lý của Đức Phật bao gồm hai mặt của một thực tại, đệ Nhất nghĩa đế thuộc bình diện siêu việtđệ nhị nghĩa đế thuộc về thế giới hiện tượng.
(Xem: 12104)
Chức năng chính của chùa chiền tự viện là hoằng duơng Phật pháp, thực tập lời Phật dạy và tổ chức các hoạt động có tính giáo dục chứ không chỉ là du lịch mà thôi.
(Xem: 11991)
Để có cái nhìn sâu sắc và thấu triệt được mọi vấn đề của cuộc sống, bạn chỉ cần lặng lẽ quan sát thân tâm mình và hoàn cảnh đương tại một cách rõ ràng, khách quan...
(Xem: 11560)
Trong một kiếp người ta có vật chất ta cũng không thể mang theo lúc chết, không có gì là của mình ngoài nghiệp, điều lành, phước báu mình đã tạo.
(Xem: 11411)
Ngày mới vào lớp một, ngày đó lớp một nhỏ nhất, không có mầm chồi lá như bây giờ, tôi đã có một người bạn. Khá thân. Hắn thương tôi lạ.
(Xem: 11458)
Ở khía cạnh tu học thì những người bạn đạo hoặc huynh đệ đồng tu chính là người thầy của mình, bởi sự tu tập và những kiến giải của họ...
(Xem: 11321)
Đây là cuộc lễ kéo dài nhiều ngày nhất và quan trọng nhất, vì, ngoài lễ cầu hòa bình, còn kèm chúc mừng sinh nhật và truyền quán đỉnh đặc biệt.
(Xem: 13236)
Tôi xem thật là quan trọng để có một đời sống hạnh phúc. Cội nguồn chính của hạnh phúc là trong chính chúng ta.
(Xem: 11593)
Cho đến nay tư tưởng Phật Giáo đã thấm nhuần trong tâm hồn Dân Tộc Việt Nam thành một khối keo sơn khó phai mờ và lay chuyển...
(Xem: 13345)
Ngược dòng thời gian, cách đây cả 2300 năm, Trung quốc là nước đã biết trồng dâu nuôi tầm, lấy kén ươm tơ dệt lụa... Lê Chương
(Xem: 11833)
Những hình ảnh về các sinh hoạt lễ hội của chùa và đình vẫn còn in đậm trong ký ức tôi cho đến ngày nay... Huỳnh Kim Quang
(Xem: 13646)
Vườn tâm hoa tuệ của những câu chuyện đầy yêu thương sẽ được theo những bước chân của mình trên những vấn đề của cuộc sống nơi xứ người để mang lên sẻ chia...
(Xem: 12384)
Tất cả những gì Ngài chọn, tất cả cả những gì Ngài làm và tất cả những gì Ngài nói đều là hành hoạt của một vị Thánh, của một vị Phật.
(Xem: 11132)
Trong đạo Phật, cái thương đích thực nó được làm bằng cái hiểu, không hiểu thì không có thương. Cha mà nếu không hiểu con thì càng thương con, con càng khổ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant