Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Abhidhamma Là Gì?

14 Tháng Hai 202218:57(Xem: 3673)
Abhidhamma Là Gì?
ABHIDHAMMA LÀ GÌ?

Minh Đức Triều Tâm Ảnh

Buông Xả Hơn Thua Nhưng Không Im Lặng

Người ta thường nói môn Abhidhamma rất khó học, và lại không thực tế. Rất khó học vì nó phân tích rất chi li, vi tế những vận hành, diễn tiến của tâm. Không thực tế vì nó bàn đến những vấn đề ở ngoài sự hiểu biết bình thường của con người; ở ngoài chuyện áo cơm, tiền bạc, thế sự và thế tình...

Nhận xét ấy không phải là sai. Tuy nhiên, nếu chịu khó nghiên cứu, học hỏi, làm quen một số thuật ngữ để vượt qua những giới hạn ban đầu thì chúng ta sẽ nhìn bộ môn này với đôi mắt khác thế.

Abhidhamma rất lợi ích cho người học Phật, tu Phật. Nhờ sự phân tích chi li ấy mà ta có thể thấy rõ những dấy khởi vi tế của tâm niệm; đồng thời thấy rõ những yếu tố tâm lý cùng sự phát sanh tương quan của chúng. Ở đây, ta sẽ có được cái nhìn nội quán, chiếu soi để thấy rõ mình một cách tận tường hơn. Còn vấn đề thực tế hay không thực tế thường tùy thuộc quan niệm, sự hành trì hoặc sự lập cước của kiến tri. Môn Abhidhamma, theo tôi, nó thực tế, thiết thực nhất trên đời này; vì tâm niệm, tư tưởng là cái đang là, đang vận hành, đang diễn tiến. Nó chính là sự sống, là dòng sống; và nó tạo nên thế gian, thế giới. Ngoài ra, đi sâu vào Abhidhamma, ta sẽ thấy ở đây trình bày, giảng nói về một sự thật khác xa với những sự thật ước lệ của thế gian. Nó là sự thật bất di dịch, không thay đổi dẫu trải qua sự biến thiên của thời gian, không gian, lịch sử, thời đại, và quốc độ. Nó là sự thật, nhưng mà là sự thật ở ngoài quan niệm thế tình, ở ngoài sự hiểu biết thường tục, vượt khỏi giới hạn của ý thứctrí năng quen thuộc của chúng ta.

Abhidhamma thường dịch là vô thượng pháp, thắng pháp, vi diệu pháp. “Abhi” nghĩa là cao thượng, cao cả, thù thắng, vi diệu. Do vậy, Abhidhamma nó cao hơn, lớn hơn, vi diệu hơn Kinh tạngLuật tạng. Nói như vậy không có nghĩa Kinh, Luật tạng là thấp. Cao hơn, vi diệu hơn, hàm chỉ phương cách trình bày Pháp chứ không phải là nguyên nhân thù thắng đưa đến giác ngộ, giải thoát. Có một số người học Abhidhamma là nhằm để thu góp, tích lũy kiến thức, tăng trưởng bản ngã, rơi vào hý luận, huyền đàm, rơi vào chấp kiếnsở tri thì vẫn là những trình độ thấp thỏi, những đại họa, những căn bệnh trầm kha! Thời Phật tại thế, nhiều vị tỳ-khưu chỉ chấp trì Luật và nghe Kinh vẫn giác ngộ, giải thoát như thường. Thậm chí có nhiều vị chỉ nghe một câu kệ ngôn thôi đã đắc Thánh quả! Họ có cần gì môn học Abhidhamma đâu! Do vậy, Abhidhamma cao cả, thù thắng vì trình bày những pháp tế vi, sâu nhiệm, cần thiết và hữu ích cho những ai có đời sống tu học nghiêm túc, tinh cần thiền địnhthiền tuệ, muốn trang bị cho mình những thấy biết chân xác, vi diệu, tinh tế về tâm và về pháp. Nó là thuốc bổ cho người trí nhưng lại là độc dược cho người ngu. Lợi cho Thiền sư chân tu và có hại cho một số Pháp sư huyên thuyên giảng nói mà không chịu thực nghiệm, tu tập.

Là môn tâm lý học của Phật giáo?

Abhidhamma thường được giới nghiên cứu, các nhà học giả xưa nay, đông cũng như tây xem như là môn tâm lý học của Phật giáo. Điều ấy có đúng chăng?

Môn tâm lý học tây phương là một bộ môn khoa học với nỗ lực khảo sát phần tinh thần của con người và giải mã nó bằng ức đoán, suy luận hoặc phương pháp kiểm chứng. Những hoạt động của lý trí, tình cảm, ký ức, vô thức, tiềm thức... đều được các nhà tâm lý đem ra phân tích, tổng hợp, trắc đạc, mổ xẻ, đào xới... rất chi li, thấu đáo. Sự nghiêm túc, tinh minhphương pháp rất khoa học của các nhà tâm lý đã một phần nào giải thích được miền tâm bí hiểm của con người. Tuy nhiên, một phần không phải là tất cả. Đôi khi do suy luận, ức đoán hoặc kiểm chứng vội vã, nông cạn mà đưa ra những kết luận tưởng như là thực thấy, thực biết! Lại nữa, các nhà tâm lý đã coi tâm như một đối tượng khách quan để khảo sát. Họ tin vào tư duy ngã tính, dựa vào khả năng của người quan sát, tin vào giác quan trao cho thông số nên thường thiếu chính xác. Các ý niệm về chủ thể, khách thể như môn tâm lý học rất xa lạ với Abhidhamma - vốn dựa vào sự thật duyên khởi vô ngã tính.

Thế giới tâm của Abhidhamma, do vậy rất lung linh, ảo diệu, nhưng rất hiện thực (vijjamāna) nó không thể bị quy định, giới hạn trong những ý niệmphạm trù bất xác. Nói rõ hơn, muốn thấy rõ thế giới tâm của Phật giáo, không thể dùng lý trí khoa học thực nghiệm, các loại trí (ñāṇa) thế gian mà phải có thắng trí (abhiñāṇa), hoặc rốt ráo hơn, phải có trí tuệ (paññā) trực giác chiếu soi. Vả chăng, không bao giờ tâm lý học tây phương biết rõ toàn bộ về tâm Dục giới. Còn tâm Sắc giới, Vô sắc giới, Siêu thế giới lại càng bất khả.

Như vậy, việc so sánh, xem Abhidhamma như môn tâm lý học Tây phương, xem ra có vẻ khiên cưỡng, áp đặt, chỉ tương hợp nơi danh từ hoặc vài trạng thái tâm lý hời hợt, thô tháo ở bên ngoài. Muốn thấy rõ thế giới tâm của Abhidhamma phải tu tập thiền định và thiền quán (samādhi và vipassanā), ấy là điều kiện cần và đủ vậy. Các bộ môn khoa học nỗ lực khảo sát về tâm đều bất khả.

Là môn siêu hình học của Phật giáo?

Môn siêu hình học Tây phương bàn về những lãnh vực siêu hình. Họ bàn về thượng đế, sự tạo thiên lập địa hoặc tìm hiểu các nguyên nhân sinh ra con ngườivạn hữu. Họ cố đi tìm một thực thể đầu tiên, ví dụ là nước hay lửa... hoặc một nguyên lý siêu nhiên nào chi phốiđiều hành vũ trụ! Như vậy, siêu hình học Tây phương nói về những lãnh vực mơ hồ, vô hình bằng khả năng của lý trí suy luận chứ không có thực kiện minh chứng. Ngay các môn về hình nhi thượng của đạo học Đông phương cũng hoàn toàn do con người đẻ ra, suy luận nên, và chúng đều là thế giới trừu tượng bất khả giác.

Abhidhamma không phải thế. Abhidhamma không bàn những vấn đề như siêu hình học Tây phương hoặc như hình nhi thượng của Đông phương.

Nếu hiểu siêu hình là bàn những vấn đề ở ngoài sự hiểu biết của con người; ngoài, trên kiến thứctrí năng thường nghiệm của con người thì tạm thời chấp nhận môn Abhidhamma là như thế. Tuy nhiên, khi Abhidhamma nói về những vấn đề vượt thế giới lý niệm của con người, không phải nói chỉ để mà nói, nói để chứng tỏ sự cao siêu, huyền bí... mà nói là để mà tu tập. Thế giới vượt thoát, ở ngoài lý niệm của Abhidhamma, con người có thể chứng nghiệm, thấy rõ ngay tại đây và bây giờ; tức vẫn là thế giới của khả chứng, khả giác và khả nghiệm. Sắc giới tâm, vô sắc giới tâm, siêu thế giới tâm là những tâm ở thế giới cao và xa – ngoài sự hiểu biết của con người – nhưng ai cũng có thể tu tập, thiền địnhthiền quán để thực nghiệm nó ra sao. Chính do mặc cảm tự ti, sợ rằng Phật giáo không có bộ môn siêu hình học cao siêu như Tây phương mà các nhà học Phật đã làm một sự so sánh rất ngây thơ, đáng phàn nàn vậy.

Là môn đạo đứcluân lý của Phật giáo?

Ai cũng hiểu rằng, đạo đứcluân lý thế gian thường tùy thuộc tín ngưỡng, truyền thống văn hóa, tập quán, phong tục trải qua từng thời đại. Lại nữa, đạo đức, luân lý quốc độ này khác quốc độ kia, thời này không giống với thời nọ. Bộ môn đạo đức học và luân lý học cũng cố gắng tìm ra một tiêu chuẩn phổ quát, một thước đo chung cho con người. Cũng có một số giá trị tinh thần được tìm thấy, được đem vào nhà trường để giảng dạy, mang đến một số lợi ích nhất định cho thế hệ nào đó trong tương giao cộng đồng xã hộicon người. Tuy nhiên, bao giờ, các môn học này cũng không thể hoàn bị nhân cách con người, hoàn thiện trọn vẹn các giá trị nhân văn và mỹ học vì nó tùy thuộc tôn giáo, tín ngưỡng hoặc các thể chế chính trị. Bao giờ nó cũng cục bộ và phiến diện.

Đạo Phật trong Abhidhamma không nói đến đạo đứcluân lý. Nghĩa là không nói anh phải sống như thế này mới trở thành người tốt, sống như kia là xấu; không nói anh phải có bổn phận với dòng họ, gia đình, làng xóm; phải cần có nghĩa vụ này, nghĩa vụ nọ. Abhidhamma có nói đến thiện, ác nhưng không nói hành động như thế này là thiện, như thế kia là ác. Thiện, ác trong Abhidhamma không tùy thuộc xã hộitùy thuộc nơi con người. Tùy thuộc nơi con người nhưng không lấy con người làm tiêu chuẩn, làm thước đo, làm giá trị phổ quát. Vả chăng, con người vẫn hàm tàng một hầm thói hư, tật xấu và cũng có cả kho báu đức hạnh. Vậy, rõ ràng, tiêu chuẩngiá trị ấy ở nơi tâm. Tâm nào khiến con người nhiễm nặng tham sân si, rời xa mục đích giác ngộ giải thoát; tâm ấy được gọi là bất thiện. Tâm nào khiến con người giảm nhẹ tham sân si, tiến gần đến mục đích giác ngộ, giải thoát; tâm ấy được gọi là thiện. Như vậy, rõ ràng, Abhidhamma khác xa đạo đứcluân lý thế gian.

luận tạng của Phật giáo?

Cần phải minh định rằng, những vấn đề được Đức Phật đề cập trong Abhidhamma là do sự thấy biết như thực của ngài, do sự sáng suốt giác ngộ của ngài. Chúng không phải được nói ra do lý luận, luận bàn, suy luận, luận giải, luận kiến, luận thức, luận tri...

Những kiến giải của chư tổ đại thừa thường y cứ từ kinh văn nguyên thủy, có tính cách triển khai tư tưởng, giảng rộng thêm những điểm quá cô đọng, hoặc quá giản đơn, quả thậtcông đức lớn của quý ngài. Lại nữa, cũng nhờ những kiến giải sâu rộng của chư tổ, có khế lý, khế cơĐạo Phật phát triển qua nhiều thời đại, nhiều quốc độvăn hóatín ngưỡng đa dạng, bất đồng. Tuy nhiên, phải thừa nhận rằng, do quyền biến phương tiện cho phù hợp với lý cơ, chư tổ khó tránh khỏi những kiến giải do sự thấy biết riêng tư hoặc do suy luận. Vì lý do đó, các luận của các tông phái phát triển đi sau không còn được gọi là như thị thuyết, như thực thuyết; mà được gọi là luận thì hoàn toàn chính xác. Ví dụ: “Duy thức luận” của Vô Trước - Thế Thân, “Đại thừa khởi tín luận” của Mã Minh, “Trung quán luận” của Long Thọ...

Abhidhamma không phải là những luận ấy, chỉ nên gọi là tạng Abhidhamma, vì nó là như thị thuyết, như thực thuyết.

Abhidhamma có phải do Phật thuyết không?

Có nhiều học giả, nhà nghiên cứu nghi ngờ là Abhidhamma không phải do Phật thuyết mà do các vị sư uyên bác về sau soạn thảo. Nhưng theo truyền thống Theravāda, Abhidhamma là do Đức Phật thuyết giảng tại cung trời Đao Lợi vào hạ thứ 7 để đáp đền ân cù lao huyết nhũ đến mẹ là bà Mahāmāyā; sau đó, Đức Phật thuyết tóm tắt tinh yếu cho Tôn giả Sāriputta (Xá-Lợi-Phất) nghe rồi Tôn giả giảng nói rộng rãi đến Tăng chúng.

Cũng có thuyết trung dung, cho rằng, những cơ bản của Abhidhamma có từ thời Phật, do Phật thuyết; nhưng hình thành nền văn học Abhidhamma là do chư Tăng bác học lập bút, sớm nhất là từ kỳ kết tập Tam Tạng lần thứ ba, vào khoảng 218 năm sau Phật Nhập Diệt. Cụ thể là bộ Kāthāvatthu (Dị bộ luận) những điểm tranh luận giữa các bộ phái do ngài Moggallānaputta biên soạn.

Dù do tương truyền hoặc do sử liệu của các bộ phái có sự dị biệt, giá trị của Abhidhamma không vì vậy mà giảm sút; trái lại, càng tôn tầm mức quan trọng của Abhidhamma trong đời sống học Phật và tu Phật của nhiều thời đại. Các tông phái đều phải lấy Abhidhamma làm cơ sở để viết các bộ luận đi sau; ví dụ: Thành duy thức và A-tỳ-đàm-câu-xá (Abhidhammakosa)...

Cuối cùng, điểm đáng nói là văn học Abhidhamma rất chuyên biệt và đặc thù. Những thuật ngữ Đức Phật dùng ở đây rất khác so với Kinh tạngLuật tạng. Trong Kinh, Luật tạng, Đức Phật thường dùng những danh từ tục đế, thường ngữ như người, loài vật, hữu tình, tự ngã, đàn ông, đàn bà... Nhưng trong Abhidhamma, mọi pháp được chia chẻ tỉ mỉ, tinh tế hơn; và những danh từ thuộc pháp ngữ, chân đế như uẩn, xứ, giới... lại được sử dụng.

Tóm lại, để kết luận, Abhidhamma là môn học về Tâm, cũng khảo sát những diễn tiến, vận hành của tâm lý mà không phải là tâm lý học. Nói về những vấn đề cao siêu vượt thế giới hữu hình, lý trí thường nghiệm của con người mà không phải siêu hình học. Nói về những trạng thái tâm thiện, tâm bất thiện, là tốt, là xấu mà không phải môn đạo đức, luân lý học. Giảng nói những vấn đề tương tự các luận của chư tổ mà không phải là luận...

Nói về Tâm nhưng không luận giảng một cách mơ hồ, trừu tượng. Vì do trí tuệ thấy như thực, biết như thực nên đức Phật đã nói về những sát-na tâm rất cụ thểcặn kẽ. Chính những sát-na tâm ấy sinh diệt quá nhanh để cho chúng ta mang ảo giác về ngã, linh hồn, tự ngã. Sát-na tâm này máy móc, khách quan; sát-na tâm kia do Tư (cetanā) điều động nên tạo nghiệp... Học Abhidhamma, chúng ta sẽ thấy rõ chúng ta không có tâm mà chỉ có sát-na tâm. Nhưng sát-na tâm ấy cũng không thực tính, không có ngã tính vì nó vừa sinh lại vừa diệt trong thời gian 1/17 triệu giây! Rồi, 1/17 triệu giây ấy kết nối miên tục mà tạo nên các yếu tố tâm lý. Nếu các yếu tố tâm lý này được kết hợp bởi các tâm sở tốt lành thì ta sẽ trở nên con người tốt lành; được kết hợp bởi các tâm sở xấu ác thì ta sẽ trở nên con người xấu ác... Các tầng trời Sắc giới, Vô sắc giới, các tầng Thánh quả đều y như thế. Nó chính xáchợp lý như sự phân tích của khoa học.

Người tu thiền định và thiền quán mà không học Abhidhamma, quả thật, như đi đêm mà không có đèn, ngoại trừ có thiền sư đích thực chỉ lối soi đường.

Minh Đức Triều Tâm Ảnh
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 4627)
Thời đại bây giờ hầu như con người cứ bị xoáy vào cơn lốc của cuộc sống một cách mãnh liệt, thế nên rất nhiều người cảm thấy bức bối...
(Xem: 3985)
Theo Kim Cang Thừa, con đường nhanh chóng để tỉnh thức là nhìn thẳng vào tâm của chính bạn và nhận ra bản tánh thật của tâm.
(Xem: 3265)
Hiện nay, Phật giáo Việt Nam đang đẩy mạnh công tác hoằng pháp, coi đó là chiến lược mũi nhọn để phát triển Phật giáo.
(Xem: 3476)
Sau khi đức Thế Tôn thành đạo, Ngài suy tư và tuyên bố rằng: “Xa lìa dục vọng, được sự tịch tịnhthù thắng nhất!”
(Xem: 3836)
Tại Kinh Thành có một vị cư sĩ, có thể nói là bậc “Thiên kinh vạn quyển”, viết không biết bao nhiêu bài bình giảng về giáo lý...
(Xem: 4003)
Khi cầu nguyện, tâm trở nên tĩnh lặng và tập trung. Đó là việc khá tốt cho đời sống nhân loại khi những cầu nguyện mang tính chân, thiện, mỹ.
(Xem: 3577)
Thế là đến chiều tối, đức Phật và chúng tỳ-khưu mới tới được nơi dự định. Trăng vừa lên, sương mù bàng bạc, không gian như trải một màn lụa mỏng.
(Xem: 4553)
Mưa xuân không tầm tã, không kéo dài. Chỉ một hai cơn, trong một hai ngày, vừa đủ tắm ướt những ngọn lá và...
(Xem: 3898)
Tenzin Gyatso, Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 của Tây Tạng, là một nhân vật quen thuộc của công chúng.
(Xem: 3373)
Như tất cả những vị nghiên cứu đều biết rằng Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh do cố Hòa Thượng Thích Tịnh Hạnh chủ trương, hầu hết được dịch thẳng từ bản chữ Hán của Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh
(Xem: 3844)
Vào giữa thập niên 1980, Elizabeth Harris, một Kitô hữu người Anh, cảm thấy sự thúc giục phải buông bỏ đức tin tôn giáo cố hữu của mình để...
(Xem: 3549)
Tenzin Gyatso, người được những tín đồ và những người ngưỡng mộ ngài tôn xưng là Đức Thánh Thiện Đạt Lai Lạt Ma.
(Xem: 2892)
Bài Pháp thoại (Dharma Talk) ngày 28 tháng 3 năm 2021 tại Chùa Beeh Low See, Singapore và Chùa Mahakaruna Buddhist Center cũng như Chùa Vihara Mahavira Graha Medan tại Indonesia.
(Xem: 3563)
“Một thời Đức Phật ở Câu-tát-la, du hành giữa nhân gian và có đại chúng Tỳ-kheo đi theo.
(Xem: 3828)
"Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm, là gì?" Xếp Kinh lại gối nơi đầu, ngủ trong dòng suối mát của lời Kinh nhiệm mầu.
(Xem: 2969)
Theo quan điểm của anh chị, Nhẫn nhụcAn phận khác và giống nhau chỗ nào? Quý anh chị chia sẽ kinh nghiệm Người Huynh Trưởng thực hành Hạnh Nhẫn Nhục như thế nào trong đời sống và sinh hoạt GĐPT?
(Xem: 5131)
Mưa xuân không tầm tã, không kéo dài. Chỉ một hai cơn, trong một hai ngày, vừa đủ tắm ướt những ngọn lá và thấm một lớp mỏng
(Xem: 3600)
Vào ngày rằm tháng 4, năm 623 trước công nguyên tại vườn Lâm Tỳ Ni gần thành Ca Tỳ La Vệ, một nơi hiện nay là...
(Xem: 3382)
Vào giữa thập niên 1980, Elizabeth Harris, một Kitô hữu người Anh, cảm thấy sự thúc giục phải buông bỏ đức tin tôn giáo cố hữu của mình để bước vào thế giới một đức tin khác.
(Xem: 3988)
Tenzin Gyatso, người được những tín đồ và những người ngưỡng mộ ngài tôn xưng là Đức Thánh Thiện Đạt Lai Lạt Ma, tự gọi ngài là một thầy tu giản dị
(Xem: 3961)
Thiền sư Seigan Shōtetsu (1381-1459) là một trong vài người làm thơ nhiều nhất trong thi giới Nhật Bản.
(Xem: 4436)
Bây giờ chúng ta đến trình độ thậm thâm nhất của từ ái và bi mẫn, trình độ này là có thể bởi kiến thức về tính không của sự tồn tại cố hữu.
(Xem: 3818)
Huyền Trân Công Chúa, một anh thư rực sáng của nền trời nước Việt!
(Xem: 4170)
Bốn mươi câu trích dẫn lời Đức Phật dưới đây được chọn lọc trong số 60 câu đã được đăng tải trên một trang mạng bằng tiếng Pháp
(Xem: 3864)
Giảng luận về bài “ Bình Ngô Đại Cáo” ( 曹鶴岱平 ) ( Great Proclamation of Đại Việt Victory over Northern Invaders, translated by Prof. Nguyễn Cao Hách – University of Saigon )
(Xem: 3837)
Tôi nhớ lại một cuộc trao đổi đầy băn khoăn vài năm trước đây mà tôi có với một người Mỹ
(Xem: 3880)
Vào ngày 06.3.2021, Tu Viện Pháp Vương khởi sự cho một công trình "Ngày Hội Trồng Cây". Quí Phật tử vân tập về mảnh đất yêu thương của mình mà Tu Viện đã sẵn sàng cho khoảnh vườn cây ăn trái.
(Xem: 3872)
Tôi chưa bao giờ được rèn luyện trong khoa học. Kiến thức của tôi chính yếu có từ việc đọc những tin tức bao gồm...
(Xem: 4365)
Vấn đề Nam tôngBắc tông là một vấn đề tương đối rất cũ – cũ đến hơn một ngàn năm trăm năm kể từ ngày con người có được cái hạnh phúc biết đến giáo pháp của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni.
(Xem: 4236)
Đức Phật không phải là một vị Thượng đế, vậy thì tại sao giáo huấn của Ngài là một tôn giáo và tại sao Phật tử tôn thờ Ngài như Thượng đế?
(Xem: 3428)
Cách nay chừng vài tuần lễ tôi nhận được một phong thư dày gửi đi từ Thầy Thanh An ở Tích Lan, trong đó có quyển sách trên. Sách do nhà xuất bản Hồng Đức ấn hành năm 2020
(Xem: 3404)
Bây giờ chúng ta đến trình độ thậm thâm nhất của từ ái và bi mẫn, trình độ này là có thể bởi kiến thức về tính không của sự tồn tại cố hữu.
(Xem: 3346)
Vào lúc Hán học còn thịnh hành tại Việt Nam trước 1975, những nghiên cứu về phật giáo đa phần quy chiếu vào kinh sách hay ...
(Xem: 5709)
Phật tánh là tạng báu tánh giác (giác bảo tạng) mà tất cả chúng sanh đều sẳn có, như kho vàng ròng của người...
(Xem: 3691)
Phật Giáo Việt Nam kể từ khi lập quốc (970) đến nay đã đóng góp rất lớn cho nền Văn Học Việt Nam qua các triều đại...
(Xem: 4009)
Trong chương này tôi sẽ giải thích về tính vô thường, trình độ thứ nhất của hai trình độ của tuệ giác vào tiến trình của sinh tử luân hồi.
(Xem: 4165)
Trong Kinh Thập Thiện Nghiệp Đạo, Đức Thế Tôn đã dạy cho Long Vương ở tại cung điện Long Vương Ta Kiệt La rằng...
(Xem: 3699)
Cứ mỗi độ xuân về, khoảng đầu tháng chạp là nhà ngoại rộn ràng tất bật.
(Xem: 4351)
Chú mục đồng chậm rãi bước xuống sông. Bên cạnh chú, con trâu lớn nhất đàn ngoan ngoãn xuống theo.
(Xem: 4150)
Có một vấn đề tưởng chừng như đáng cho Phật tử chúng ta để ý: Vấn đề ân nghĩa.
(Xem: 4212)
Mỗi năm Tết đến, khi những làn mưa Xuân nhè nhẹ, gió Xuân mơn man ùa về trên những vườn mai vàng, những cành đào
(Xem: 3674)
Hoằng pháp là một trong những trách nhiệm quan trọng của người đệ tử Phật. Chính vì thế mà chư tổ dạy rằng
(Xem: 3489)
con người, chúng ta sống trong đời này đều trải qua nhiều giai đoạn với niềm vui lẫn nỗi buồn.
(Xem: 3900)
Cuộc pháp thoại giữa Đức PhậtTrưởng lão Tu Bồ Đề trong kinh Kim Cang Bát Nhã là một pháp thoại sâu sắc
(Xem: 3944)
Trong văn học Phật giáo nói chung và văn học Thiền tông nói riêng thời hình ảnh con trâu với trẻ mục đồng đã trở thành thi liệu, biểu tượng...
(Xem: 3678)
Trên con đường tu hành, hành giả thường gặp phải những thứ chướng ngại và những thứ chướng ngại đây gọi chung là “Ma”.
(Xem: 5303)
Trong nền văn hóa của chúng ta, mọi người cảm thấy rất khó để hướng lòng nhân ái đến bản thân.
(Xem: 3102)
Cảm Nhận Sự Thấu Cảm - Nguyên bản: Feeling Empathy. Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma . Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 7342)
Tư Tưởng Phật Giáo Trong Văn Học Thời Trần - Tác giả: Nguyễn Vĩnh Thượng
(Xem: 3508)
Mối Tơ Vương Của Huyền Trân Công Chúatác phẩm có tính đặc trưng nhất về thủ pháp nghệ thuật lồng ghép truyện trong truyện, đan xen tình tiết, cài cắm tư tưởng khi trần thuật của nhà văn Thích Như Điển
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant