Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Nhu Cầu Hạnh Phúc

03 Tháng Ba 202214:56(Xem: 3920)
Nhu Cầu Hạnh Phúc

Nhu Cầu Hạnh Phúc

Tuệ Thiện

 Nhu Cầu Hạnh Phúc



Hạnh phúc
 là một ước vọng, một nhu cầu muôn đời của con người. Nhưng Hạnh phúc là gì? Thế nào là Hạnh phúc? Có chăng một Hạnh phúc có ý nghĩa phổ quát chung cho tất cả loài người? Chúng ta cũng biết rằng sự tầm cầu hạnh phúc đã được ghi nhận trong bản tuyên ngôn độc lập của Hoa-kỳ năm 1776 như một quyền không thể thiếu nơi con người.

 

Chúng ta có thể có hàng trăm định nghĩa về hạnh phúc, mỗi người cảm nhận một cách khác nhau. Chữ hạnh phúc bao gồm 4 khía cạnh: vật thể, tinh thầntâm linh và xã hộiCon người có sung sướng chăng với một thân thể bịnh hoạn, một tinh thần nhu nhược, một tâm linh khô cạn và trong một xã hội thối nát?

 

Về vật thể chúng ta có nhiều trạng thái thể hiện sự khoái cảm như: khỏe khoắn, khoan khoái, hoan lạc, khoái lạc, sướng khoái, lạc thúthỏa mãn...Về tinh thần có những tâm trạng diễn tả hạnh phúc như vui vẻ, hớn hở, mừng rỡ, hoan hỉhân hoansung sướng, thoả thích, thỏa ý, mãn nguyện, toại lòng, toại nguyện... Về tâm linh chúng ta có những trạng thái tâm như hỉ lạc, an lạc, định tĩnh, buông xả, dứt khổ, giải thoát... Về xã hội chúng ta có những dân tộc sống trong nền văn minh nhân bản có đầy đủ an bìnhan ninh, công bình, công lýtự dobình đẳng, tương trợ...Tất cả những cảm giác, những tâm trạng, những thực tại trên đều có thật, nhưng chúng không bền vững, chóng qua. Một cá nhân với một cơn nóng giận có thể làm đỗ vỡ hạnh phúc gia đình mà hai người đã dày công xây dựng. Ngay cả một chế độ một sớm một chiều bị lật đỗ và áp đặt một nền độc tài khát máu như ở Campuchia, Á Phú Hãn, Hồng Kông...Vậy có thể có một Hạnh phúc bền vững không?

Có tôn giáo cho rằng cõi trần gian là địa ngụcchúng ta xuống đây để đền tộiHạnh phúc bền vững chỉ đạt được sau khi chết. Emmanuel Kant cũng nói như thế: hạnh phúc sâu đậm, lâu bền chỉ có ở cõi trên, và được qui định bởi cuộc sống đạo đức, thoát tục ở cõi trần.

 

Chữ hạnh phúc bao hàm một tình cảm thỏa mãn với 4 sắc thái:

-có những thỏa mãn thoáng qua như thụ hưởng những lạc thú qua các giác quan hay qua tinh thần như thú vui nghe nhạc,đọc sách;

-cũng có những trãi nghiệm thoáng qua thật tuyệt diệu xuất thần của các thiền gia hay những trạng thái chứng đắc của các nhà tu làm đánh dấu và thay đổi cả một cuộc đời tu tập.

-có những thỏa mãn lâu bền gắn liền với một phần của cuộc đời hay trong một lảnh vực nào đó của cuộc sống như thành công nổi tiếng trong sự nghiệp hay để lại một công trình lưu danh hậu thế.

-Sau cùng có những thỏa mãn bao trùm trọn vẹn cuộc sống mà nhà nghiên cứu R. Veenhoven dùng để định nghĩa chữ Hạnh phúc.

 

Những nghiên cứu khoa học cho biết Hạnh phúc con người được quyết định bởi 3 điều kiện sau đây: sự Di truyền chi phối 50%, có những người sinh ra đã có xu hướng tiền định là sung sướng hay đau khổ. Điều nầy nhờ những khảo cứu trên những trẻ em sinh đôi thật (có cùng yếu tố di truyền) bị tách ra nuôi dưỡng trong hai gia đình khác nhau. Sau đó là những điều kiện ngoại cảnh như: vị thế xã hộihoàn cảnh gia đìnhquốc gia và môi trường sinh sống...(10-15%). Sau cùng là yếu tố nội tại như ý chí để thay đổi hoàn cảnh, thay đổi cách sống, cách suy nghĩthái độ nhìn đời chi phối 40-35% còn lại. (Ruut Veenhoven, bibliography of happiness)

 

Những nghiên cứu tâm lý xã hội cho thấy là người dân sống trong những nước mà an ninh được bảo đảm, có tự do dân chủ, có luật pháp bảo vệ, có nền giáo dục khai phóng và thông tin rộng rãi thì người dân được hạnh phúc hơn; 80% dân Mỹ tuyên bố là sung sướng. Nhưng trong các quốc gia phát triển số bịnh trầm cảm tăng lên gấp 10 lần so với năm 1960. Ở Thụy Điển con số tự tử tăng 260% trong thành phần sinh viên từ năm 1950 (Andrew Solomon, Le démon intérieur)

Năm 2015, Nhật Bổn có 24.025 người tự tử, xếp hạng thứ 17 trên thế giới bởi OMS, đa số vì bịnh hoạn, công ăn việc làm và chính sách kinh tế (5,8 lần cao hơn chết vì tai nạn giao thông)(nippon.com).

 

Năm 2013, giáo sư Martin Seligman, cha đẻ của thuyết Tâm lý học Tích cực, đưa ra mô hình PERMA với 5 yếu tố căn bản của Hạnh phúc chân thực như sau:

 

1-Cảm xúc tích cực (Émotions Positives) như hân hoanlạc thúbiết ơn, nồng nhiệt...nghĩa là phải nuôi dưỡng tình cảm lạc quan trong mọi tình huống sẽ giúp cho con người trở nên cởi mỡ, sáng tạo, đủ kiên nhẫn để đối phó với những thử thách. Các nghiên cứu cho thấy là sống thường xuyên với tâm trạng tích cực có tác động hiệu quả trên tình trạng phúc lạc của con người.

2-Dấn thân (Engagement) là sự trải nghiệm tối ưu trong công việc, thể thao, âm nhạc...quên mình, quên cả thời gian, bị cuốn hút vào trạng thái chú tâm tỉnh giác trong hiện tại.

3-Liên hệ tích cực (Relations positives): những sự liên hệ tốt đẹp với bạn bè, thân quyếnđồng nghiệp là nguồn gốc của hạnh phúc và sức khỏe tinh thần. Những người lớn tuổi mất dần những liên hệ nầy do già yếu, bịnh tật hoặc do thay đổi tính tình, tự cô lập. Sự nâng đở của tập thể là cần thiết để vượt qua những khó khăn nhất thời. Sự gần gủi thân mật trong tình yêu, hay tình bạn làm tăng sự điều tiết chất ocytocine là kích tố của sự trung thành, của thiện cảm và hợp tác.

4-Ý nghĩa cuộc đời (Meaning of life): bình thường chúng ta ít khi đặt câu hỏi «cuộc đời có ý nghĩa gì chăng?», nhưng khi đứng trước cái chết của một người, nhứt là người trẻ tuổi câu hỏi đó hiện ra trong trí não ta. Có lẽ vì cuộc đời quá ngắn ngủi mà vũ trụ lại bao la và ước muốn của con người thì vô hạn.

Đi tìm thú vui hoan lạc hay tiền của vật chất sẽ không bao giờ được thỏa mãn vì lòng ham muốn ngày càng gia tăng, rồi có một lúc «ngoảnh mặt lại» thấy đời là một khoảng trống không! Lúc đó con người muốn đi tìm một hạnh phúc bền vữngtrường cửu.

 

Theo văn hóa Đông phương, có ba con đường để xây dựng sự nghiệp cuộc đời là Lập công, Lập ngôn, Lập Đức:

 

-Lập công dành cho những ai muốn ra làm quan, làm chính trị để giúp nước, giúp dân hay mỡ rộng ra xã hội ngày nay cho những người làm trong các ngành nông, công, thương mà thành công trong sự nghiệp của mình (nhất nghệ tinh, nhất thân vinh)

 

-Lập ngôn dành cho các giáo sư, văn, thi, nghệ sĩ viết sách, dạy học, sáng tạo những tác phẩm giá trị để đời:

                              Trăm năm bia đá cũng mòn,

                              Ngàn năm bia miệng vẫn còn trơ trơ.

 

-Lập đức dành cho những vị đi vào con đường xã hội, y khoa, tôn giáotâm linh để trước hết chuyển hóa cho chính mình rồi sau đó đem ra giáo huấn cho thiên hạquần chúng.

Tam Lập này có thể phối hợp từng 2 cái hoặc cả 3 như trường hợp Nguyễn Công Trứ hay vua Trần Nhân Tông...

Tây phương thì nhấn mạnh trên 3 chiều hướng mà con người thường đi tìm ý nghĩa cuộc sống :

               -Tình cảm và sự Liên hệtình thươngtình bạngia đình.

               -Nhận thức (cognitive): tín ngưỡng, triết lý đời sống và các giá trị.

               -Hành xử (comportement): hành động, cư xử trong đời sống thích hợp với những giá trị.

 

5-Tâm trạng Mãn nguyện (sentiment d'Accomplissement): có những mục tiêu rõ ràng trong cuộc sống và cố gắng thực hiện thành công những mục tiêu ấy giúp ta hân hoansung sướng và củng cố lòng tin trong khả năng của chính mình. Nhưng cuộc sống trải qua nhiều giai đoạn, sự thành công cũng như sự thất bại ở mỗi giai đoạn đưa đến kết quả cuối cùng. Thất bại cho ta kinh nghiệm để vươn lên. Thành công cho ta sự mãn nguyện về cuộc sống của mình. Mục tiêu càng khó khăn thì chiến thắng càng vinh quang, nhưng đừng quên những chiến thắng nhỏ ban đầu, chúng góp phần kiến tạo tâm trạng mãn nguyện chung của cuộc sống.

Theo luật gia và đạo-đức-gia người Anh Jeremy Bentham đã tiên liệu thì yếu tố thứ 5 nầy là tiêu chuẩn cao nhứt của hạnh phúc vì nó phản ảnh mức độ dung hợp giữa những điều kiện bên ngoài và khả năng bên trong của con người. Theo ông thì « hạnh phúc là tổng cộng của những khoái lạc và khổ đau »

 

PHẬT GIÁO NÓI GÌ VỀ HẠNH PHÚC ?

 

Trong lịch sử nhân loạiĐức Phật Thích Ca là người đầu tiên đã giảng dạy những phương thức đem đến hạnh phúc cho con người và cả cho thiên giới.

 

Phật giáo coi đời là bể khổ nhưng không vì đó mà cấm đoán con người hưởng thụ những phúc lạc đến một cách tự nhiên do quả phước mà con người đã tạo ra trong kiếp này hay từ những kiếp trướcCon người sống không phải chỉ có một kiếp mà là vô lượng kiếpSố kiếp của chúng sinh là vô thủy vô chung nếu không biết làm cách nào để vượt thoát khỏi vòng luân hồi.

 

Phật đã chỉ dạy cho con người con đường để chấm dứt sự tái sanhcon đường mà ngài đã trải nghiệm và bao nhiêu các vị thánh đã đi qua. Đó là Bát Chánh Đạo, không còn con đường nào khác. Nếu bảo rằng có một con đường khác (như tụng niệm chẳng hạn) thì đó là sai lầm, là ngụy biện và không phải của Phật giáo.

 

Phật giáo không chủ trương tầm cầu hưởng lạc hay lợi dưỡng như trong khoái lạc chủ nghĩa (hédonisme) của Épicure cũng không chủ trương khổ hạnh vì trên đường đi tìm hạnh phúc vĩnh viễn Đức Phật đã trải qua những giai đoạn ấy và ngài thấy cả hai con đường ấy đều sai lầmvô ích. Ngài đã chọn con đường trung đạo, lấy ý chí và trí tuệ để đạt tới sự giải thoát vĩnh viễn khỏi khổ đau, luân hồi. Sau này Aristote ở Hy Lạp cũng suy nghĩ giống ngài "Hạnh phúc là một sinh hoạt của tâm hồn phù hợp với đạo đức" (Éthique à Nicomaque, VII, 14). Ông thuộc trường phái Duy Hạnh Phúc (Eudémonisme) cùng với những triết gia khác như Sénèque, Épictète, xem hạnh phúc là đạt được mục đích sống đúng theo những giá trị mà mình đã chọn lựa.

 

Đức Phật đưa ra 3 mức độ hạnh phúc xếp hạng từ thấp lên cao tùy theo khả năng và sự dấn thân của người Phật tử trên con đường tu tập :

 

  1. An lạc và hạnh phúc thể hiện ngay trong đời sống hiện tại (dittha-dhamma -hitasukha) đạt được bằng cách phát triển những khả năng nội tại như chú tâmtỉnh giácan định tâm hồnrèn luyện tri giác và trí thông minh cảm xúc để biết mình,  hiểu người, buông xả (lâcher-prise) và điều chỉnh tâm…
  2. Hạnh phúc cho đời sau (samparayika - hitasukha) đạt được bằng sự dấn thân làm những việc công đức và các trách nhiệm xã hội để dành phước báo cho các kiếp sau.
  3. Cuối cùng hạnh phúc cao cả tối thượng là Niết Bàn, là sự giải thoát khỏi vòng sanh tử luân hồiđạt được bằng cách tu tập theo Bát Chánh Đạo.(1)

 

Có một hạnh phúc bền vững thật sự chăng ? Tiến sĩ khoa học Pháp đồng thời là nhà sư tu theo Phật giáo Tây Tạng Matthieu Ricard xác nhận là có. Chính ông đã đạt được Hạnh phúc chân thật và bền vững nhờ tu tập thiền định học hỏi và noi gương hai vị thầy là ngài Khyentsé Rinpoché và Đức Đạt-Lai Lạt-Ma. Ông Ricard nói «tôi có thể xác nhận không phải để khoe khoang rằng tôi là một người hạnh phúc, vì việc đó cũng bình thường  như tôi nói là tôi biết đọc hay tôi khỏe mạnh đó thôi»... «Hạnh phúc mà tôi cảm nhận hiện nay trong từng giây phút sống, cho dù phải trải qua mọi hoàn cảnh, được hình thành với thời gian trong những điều kiện phù hợp với sự hiểu rõ nguyên nhân của hạnh phúc và khổ đau». Rồi ông nêu ra thí dụ về những người đã đạt được hạnh phúc bền vững như ông Tendzin Tcheudrak, là bác sĩ của đức Đạt-lai Lạt-ma, đã bị tra tấn dã man trong tù và những trại lao động cưỡng bách của Trung cộng, chỉ còn lại ông và 4 người nữa được sống sót sau hơn 20 năm, tưởng đã chết vì đói và bị tra tấn.  Sau khi được thả tự do, ông được một bác sĩ tâm thần theo dõi, ông nói rằng đôi lúc ông cũng cảm thấy thù hận những tên tra tấn, nhưng sau đó luôn luôn trở về với thiền từ bi và trạng thái tâm an lạc. Chính nhờ vậy mà ông còn sống sót bình yên, tâm an tịnh, không sợ hãi, không ác mộng  và không bị hội chứng hậu-chấn-thương. Khi hỏi trong những năm tháng ấy, cái gì làm ông sợ nhứt, ông nói rằng tôi sợ nhất là đánh mất lòng từ bi đối với những người tra tấn mình.(8)

Một vị thầy tâm linh chứng đắc là một bằng chứng cho thấy là não bộ của vị ấy đã thay đổi một cách bền vững, có thể là vĩnh viễn. Khoa học cũng đã chứng minh sự biến đổi lâu bền của não bộ những vị thiền sư kinh nghiệm lâu năm, trong sự vận hành và cả trong cấu trúc như sự gia tăng quan trọng các sóng não với tần số gamma (25-42 Hz) và sự phối hợp rung động đồng-bộ của những vùng não khác nhau (une connectivité et une synchronisation entre diverses zones cérébrales) cũng như sự tăng thể tích của vỏ não.(12)

               Như vậy hạnh phúc có thể là sự thỏa mãn những cảm giác vật thể qua mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý, như khi ta được nghe một bản nhạc truyền cảm hay một bài thơ diễn tả đúng tâm trạng của mình, nhưng những cảm giác nầy lại chóng qua; cũng có thể là một  tình cảm sung sướng được sống trong một môi trường lành mạnh, một nước nên sống; hay một tâm trạng mãn nguyện khi ta thành công trong mục đích sống; hoặc là một trạng thái xuất thần được giải thoát khỏi nổi thống khổ triền miênđọa đày của người nô lệ được phóng thích, của một con người thoát khỏi được vòng sanh tử luân hồi. Cho dù trong hoàn cảnh nào, nên nhớ rằng một hạnh phúc thực sự bền vững là có thực, nhưng có thể đạt được hay không là do ý chí con người có muốn thực hiện hay không và gương sáng của những người đạt được chân hạnh phúc vẫn hiễn hiện sờ sờ trước mắt chúng ta.

 

TÀI LIỆU THAM KHẢO

 

 1)  Bhikkhu Bodhi, "An anthology of discourses from the Pali Canon". dịch giả Nguyên Nhật Trần Như Mai, "Hợp tuyển lời Phật dạy từ kinh tạng Pâli", Viện nghiên cứu Phật học Việt Nam, nxb Hồng Đức.

 2)  Tỳ kheo Giới Nghiêm, "Hạnh Phúc Kinh (Mangala Sutta)", Hội PGNT Kỳ Viên Tự, Fontenay-Sous-Bois.

 3)   Tỳ kheo Maha Thông Kham, "38 Pháp Hạnh Phúc", nxb Tôn Giáo.

 4)   Trang Tử, "Nam Hoa Kinh", người dịch và bình chú Nguyễn Duy Cần, nxb Xuân Thu.

 5)   Trần Quang Thuận, "Hành trình tâm linh", nxb Phương Đông.

 6)   François Durpaire, "Histoire mondiale du Bonheur", nbx Cherche-Midi.

 7)   Frédéric Lenoir, "Du bonheur, Un voyage philosophique", nxb Fayard.

 8)   Matthieu Ricard, "Plaidoyer pour le Bonheur ", nxb Pocket.

 9)   Christophe André, Odile Jacob, "Et n'oublie pas d'être heureux".

10)  Davina Delor, "Le bonheur selon Bouddha", nxb Michel Lafon.

11)   Ruut Veenhoven, "Happiness as an aim in public policy". @

12)   Wolf Singer, Matthieu Ricard, «Cerveau & Méditation», Allary Éditions.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 2625)
Ajahn Lee Dhammadharo (1907–1961), là thiền sư theo truyền thống tu trong rừng của Phật giáo Thái Lan Nguyên thủy (Thai Forest Tradition).
(Xem: 2509)
“Xưa kia, ông Bạch Cư Dị hỏi Ô Sào thiền sư: ‘Thế nào là đại ý Phật Pháp?’ Ngài Ô Sào đáp: ‘Đừng làm các điều ác, vâng giữ các hạnh lành.’
(Xem: 2317)
Tu tập tâm linhhộ trì Chánh pháp là sự hướng nguyện của người học Phật và hành theo Phật và mục đích cuối cùngthành Phật.
(Xem: 2630)
Chúng ta nhiều khi đứng ở vào một tình thế khó xử, trước hai thái độ chủ trương bởi đạo Phật
(Xem: 2413)
Khi tôi viết về đề tài sống với cái đau, tôi không cần phải dùng đến trí tưởng tượng của mình.
(Xem: 3218)
Dưới hiên mưa vắng hồn khua nước Thả chiếc thuyền con ngược bến không
(Xem: 2283)
Trong kinh Tăng chi bộ (6.19, kinh Maraṇasati, HT.Thích Minh Châu dịch), Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 2381)
Tất cả chúng ta đều quen thuộc với khái niệm vô thường, nhưng giải thoát vô tướng là gì?
(Xem: 2510)
Tánh nghe được giảng nhiều trong Kinh Lăng Nghiêm. Sau đây, chúng ta sẽ dùng vài đoạn Kinh Lăng Nghiêm để tìm hiểunhận biết tánh nghe.
(Xem: 2451)
Ngài trụ trì thiền viện Baan Taad nằm tại vùng nông thôn gần ngôi làng nơi ngài đã sinh ra và lớn lên.
(Xem: 2520)
Tội lỗi, ác nghiệp tồn tại ở trong tâm, không nằm ở ngoài thân nên tắm rửa chỉ trừ được bụi bẩn trên người mà thôi, không chuyển hóa được tâm ô uế.
(Xem: 2165)
"Một thời Đức Phật đến Uất-bệ-la, bên bờ sông Ni-liên-nhiên, ngồi dưới gốc cây A-đa-hòa-la Ni-câu-loại vào lúc mới thành đạo.
(Xem: 2542)
Trong Tăng Chi Bộ 6.19, Kinh Maraṇasati, Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 3020)
Sau khi Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, bài kinh Ngài dạy đầu tiên đó là bài kinh Vô Ngôn. Cốt lõi của bài kinhlòng biết ơn.
(Xem: 2620)
Dẫu có bao công đức, Như tôn kính chư Phật và thực hành bố thí, Tích lũy qua hàng ngàn kiếp sống, Một phút sân hận sẽ thiêu hủy tất cả.
(Xem: 2675)
Bất cứ thứ gì có hình sắc đều đem đến phiền não.
(Xem: 2946)
Trong kinh Trung A-hàm, kinh Trưởng lão thượng tôn buồn ngủ[1] đề cập đến một loại phiền não thường xuất hiện trong quá trình tu tập của bất kỳ ai, đó là phiền não buồn ngủ
(Xem: 2517)
Du nhập vào Việt Nam từ rất sớm, từ những năm đầu công nguyên, Phật giáo đã được tín ngưỡng truyền thống của người Việt tiếp nhận,
(Xem: 2554)
Giới, Định, Tuệ (Pāli: Tisso Sikkhā) là Tam học, cũng gọi là Tam vô lậu học – một thuật ngữ vô cùng quan trọng
(Xem: 4025)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 2755)
Cầu Pháp có nghĩa là tìm hiểuthực hành Chánh pháp. Hiểu đúng về lời Thế Tôn dạy, thấy rõ con đường tu từ phàm lên Thánh,
(Xem: 3016)
Trên thế gian này, không có bất kỳ sự tồn tại nào mang ý nghĩa độc lập mà có thể xuất hiện, muốn tồn tại được chính là nhờ vào các mối quan hệ hỗ tương tạo nên
(Xem: 3281)
Pháp Thủ Nhãn lấy Kinh Hoa Nghiêm làm bộ sườn của sự học hỏi gọi là Lý. Thực hành theo pháp 42 Thủ Nhãn của chú Đại Bi là Sự, là nền tảng của Thủ Nhãn.
(Xem: 2274)
Trong cuộc sống, khổ đau là điều mà con người không thể tránh được: khổ do tâm, khổ do thân và khổ do hoàn cảnh.
(Xem: 2488)
“Phật chủng tùng duyên khởi” – giống Phật do duyên sanh. Không phải chỉ có tạo “duyên” là được mà phải có chủng tử (hạt giống) đã gieo trong nhiều đời nhiều kiếp.
(Xem: 2771)
Trong gần 60 năm qua, tôi đã làm việc với rất nhiều nhà lãnh đạo của các chính phủ, công ty và các tổ chức khác nhau. Qua đó, tôi thấy xã hội của chúng ta đã phát triển và thay đổi như thế nào.
(Xem: 2976)
Mới vào đề chắc có người sẽ thắc mắc tại sao một người tu sao lại nói đến chữ Tình để làm gì? Xin quý vị hãy từ từ đọc vào nội dung sẽ hiểu.
(Xem: 2843)
Viên ngọc và hoa sen Phật tánh là cái không thể hư hoại, dầu trong lửa phiền não cháy mãi của thế gian sanh tử này.
(Xem: 2595)
Khi vào nhà đạo, làm con của Đức Phật thì như trăm sông hòa vào biển cả.
(Xem: 2606)
Trong kinh Tăng Chi Bộ[1] có chép: “Một hôm, có người Bà la môn đến gặp đức Phật, ông ta bạch rằng
(Xem: 3175)
Căn cứ vào lời Phật dạy căn bản trong Kinh Nam Truyền là vào các ngày mồng 1, 8, 14, 15, 23 và 30 là những ngày trai mà người Phật tử
(Xem: 2585)
Lòng Từ không chỉ là chất liệu cho sự hạnh phúc của bản thân mà nó còn là hạt giống cho sự hạnh phúc của toàn nhân loại.
(Xem: 2253)
Này thiện nam tử, ngươi trụ trong giải thoát tự tại chẳng thể nghĩ bàn của Bồ tát, thọ những hỷ lạc của tam muội Bồ tát,
(Xem: 2359)
Để bắt đầu, trước tiên, hãy điều chỉnh động lực của mình, bằng cách nghĩ rằng hôm nay, mình có mặt ở đây để lắng nghe giáo pháp cao cả,
(Xem: 2463)
Trong sự tu hành, danh lợi là những thứ chướng ngại không dễ vượt qua. Lợi thì thô, dễ thấy và còn có điểm dừng nhưng danh thì vi tế và vô hạn.
(Xem: 2579)
Theo kinh Đại bát Niết-bàn (Trường bộ kinh), trước lúc viên tịch, Thế Tôn an cư mùa mưa tại Baluvā, bị bệnh trầm trọng, rất đau đớn.
(Xem: 2665)
Theo Phật giáo, mặc dầu có nhiều quan điểm hạnh phúc khác nhau, nhưng tất cả không ngoài hai phạm trù: hạnh phúc từ kinh nghiệmcảm thọ giác quan trong cuộc sống
(Xem: 2708)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương II, phẩm Các Hi Vọng, đức Phật dạy: “Có hai hạng người này, này các tỳ kheo, khó tìm được ở đời. Thế nào là hai?
(Xem: 3243)
Tiếng chuông điểm dứt Bát Nhã Tâm Kinh như hoà vào không gian tĩnh lặng khiến làn gió thoảng qua cũng dịu dàng ngân theo lời kinh vi diệu “ … Sắc tức thị không. Không tức thị sắc …”
(Xem: 2541)
Khi nhìn thấy chư Tăng – Ni xếp chân ngồi thiền định, tôi (T.Sư Goenka) nhớ lại lời dạy của đức Phật.
(Xem: 2114)
“Bấy giờ đồng tử Thiện Tài cung kính đi nhiễu bên phải đại Bồ tát Di Lặc xong bèn thưa rằng: Cầu xin đại thánh mở cửa lầu gác cho con được vào.
(Xem: 2569)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương III, phẩm Lớn, bài kinh Sở Y Xứ, đức Phật có nói về quan điểm của ngoại đạo.
(Xem: 2032)
Trước đây không lâu tôi có đọc một quyển sách của một học giả Phật giáo lỗi lạc và tôi chú ý đến nhận định sau đây:
(Xem: 2796)
Đức Phật luôn luôn nhấn mạnh vào tầm quan trọng của cuộc sống bình ổn. Ngài luôn luôn hướng dẫn nhân loại, chúng sinh hướng đến sự hòa bình
(Xem: 2872)
Một câu hỏi có thể nêu lên: Đức Phật sau khi thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, Ngài dạy bài Kinh nào đầu tiên?
(Xem: 2904)
Trong thế gian này hận thù không bao giờ làm chấm dứt hận thù, chỉ có không hận thù mới xoá tan hận thù. Đó là quy luật tự ngàn xưa. Kinh Pháp Cú 5
(Xem: 2687)
Đức Phật đã nhiều lần răn dạy nếu cứ tranh chấp, đấu đá, hơn thua thì câu chuyện bất hòa sẽ kéo dài đến vô tận.
(Xem: 2481)
Tất cả chúng ta đều quen thuộc với khái niệm vô thường, nhưng giải thoát vô tướng là gì?
(Xem: 2756)
Đời sống của con người thọ mạng nhiều lắm chỉ trên dưới trăm năm. Trong chuỗi thời gian này con người hưởng hạnh phúc không bao nhiêu,
(Xem: 2333)
Đạo đứccăn bản làm người. Một khi có đạo đức rồi, chúng ta mới có thể đứng vững được.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant