Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tánh Nghe

30 Tháng Năm 202215:46(Xem: 2478)
Tánh Nghe

TÁNH NGHE

Nguyễn Thế Đăng


 Lòng Biết Ơn Bài Kinh Đầu Tiên Của Đức Phật



Tánh nghe được giảng nhiều trong Kinh Lăng Nghiêm. Sau đây, chúng ta sẽ dùng vài đoạn Kinh Lăng Nghiêm để tìm hiểu và nhận biết tánh nghe.

1/Sự hiện hữu của tánh nghe

Một trong những thí dụ chứng minh có sự hiện hữu, thậm chí thường trực, của tánh nghe, được Đức Phật chỉ dạy trực tiếp cho ngài A Nan: “Nay ta thử đem các việc thế gian để giải trừ cái nghi của ông”.

Đức Phật bảo La Hầu La đánh một tiếng chuông và hỏi A Nan có nghe không. A Nan và đại chúng đều nói: Dạ, có nghe. Khi tiếng chuông dứt, được hỏi có nghe không, A Nan và đại chúng trả lời: Thưa, không có nghe.

Đánh chuông lần hai, rồi lần ba, khi còn tiếng chuông, tất cả đã trả lời là có tiếng. Tiếng chuông dứt, tất cả trả lời là không có tiếng.

Bấy giờ Đức Phật nói:

A Nan, tiếng dứt không còn vang, ông nói là không nghe. Nếu thật không nghe thì tánh nghe đã diệt, đồng như cây khô, thì khi tiếng chuông lại được đánh lên, làm sao ông còn nghe được?

Biết rằng có biết rằng không, đó là tiếng của trần hoặc có hoặc không, chứ tánh nghe này đâu có vì ông mà thành có thành không. Tánh nghe mà quả thật không có thì cái gì biết là không có tiếng? Thế nên, A Nan, trong cái nghe, cái tiếng tự có sanh có diệt, chẳng phải vì ông nghe tiếng sanh tiếng diệt mà khiến cho tánh nghe của ông thành có thành không”.

Tiếng thì có sanh có diệt, do đó cái nghe của tai thành ra khi có khi thì không. Nhưng tánh nghe thì thường trực, có tiếng thì nghe, không có tiếng vẫn nghe, nghe cái không có tiếng.

 

Để rõ hơn, chúng ta trích từ kinh nghiệm trực tiếp của các thiền sư. Trong tự truyện của Đại sư Hám Sơn (1545-1623) viết:

Vào năm 1575 tôi ba mươi ba tuổi. Hồi mới bắt đầu kỳ thiền này, khi nghe tiếng gió hú và tiếng băng đập vào núi, tôi rất xao động, như là tiếng hàng ngàn quân và ngựa đánh trận. Tôi hỏi Diệu Phong, sư đáp: “Tất cả xúc tình phát xuất từ tâm, không phải ở ngoài tới. Ông không nghe các bậc cổ đức nói, ‘Ba mươi nghe tiếng nước chảy mà không chuyển ý căn thì thế nào cũng chứng Quan Âm viên thông’. Tôi bèn lên một cầu gỗ chơ vơ ngồi thiền mỗi ngày. Thoạt đầu tôi nghe tiếng suối chảy rất rõ, dần dần tôi chỉ nghe được khi muốn nghe. Nếu tâm động, tôi còn nghe, tâm tịnh thì chẳng nghe gì. Một hôm trong khi ngồi thiền trên cầu, tôi quên là mình có thân. Nó đã biến mất cùng những âm thanh chung quanh. Từ đó tôi không còn bị tiếng động nào quấy nhiễu nữa”.

Khi không nghe tiếng nào mà vẫn biết là không nghe tiếng, cái biết không có tiếng ấy là tánh nghe, hay nói theo Kinh Lăng Nghiêm là “nghe cái không nghe, không có tiếng”.

 

Thiền sư Thái Lan Ajahn Chah (1918-1992) nói:

Rồi tôi hiểu: Khi tâm hợp nhất trong thiền định, nếu bạn hướng chú ý ra ngoài, bạn có thể nghe tiếng động, nhưng nếu bạn để nó trụ trong sự trống không của nó, nó hoàn toàn vắng lặng…

Từ trạng thái tâm thức bình thường tôi tiếp tục thiền, tâm lại đi sâu vào trong. Lần này toàn thể vũ trụ vỡ tan thành những mảnh li ti. Trái đất, núi non, đồng ruộng… tất cả mọi thứ trong thế giới phân hủy thành những nguyên tử của không gianCon người biến mất, mọi sự đều biến mất, hoàn toàn không có gì tồn tại nữa.

Tâm, sau khi đi vào trong, trụ lại đó một thời gian, chỉ sau một thời gian dài nó mới ra khỏi trạng thái đó. Tâm tự làm tất cả. Tôi chỉ là người quan sát, người chứng kiến”.

Thiền định là tâm đi vào trong, đến mức không thấy gì, không nghe gì, mọi sự đều biến mất, nhưng lúc ấy vẫn có cái biết, không phải là cái biết của ý thức phân biệt, cái biết rằng không nghe gì cả. Cái biết rằng không nghe gì cả, nghe cái không nghe, là tánh nghe, hay chính xác là tánh biết biểu lộ qua cái nghe. Sở dĩ các kinh điển Bắc tông gọi là tánh, vì nó là “người quan sát, người chứng kiến”, không lệ thuộcdính dáng gì đến đối tượng âm thanh hay hình sắc, hay là các tướng.

Kinh nói tánh giác chia thành cái biết ở sáu căn. Ở mắt gọi là tánh thấy, ở tai gọi là tánh nghe, ở mũi gọi là tánh ngửi… nhưng tất cả sáu căn đồng một nguồn tánh giác. Nguồn ấy được gọi là “tinh minh”: tinh là tinh tuý, hay bản tánh; minh là ánh sáng, sáng tỏ. Nguồn thanh tịnh và sáng chiếu này được các Kinh khác gọi là bản tánh của tâm, bản tâm.

Một căn đã về nguồn
Sáu căn thành giải thoát…
Xoay nghe, gốc lòa trừ 
Trần tiêu, Giác viên tịnh
Tịnh tột, quang thông suốt
Lặng chiếu trùm hư không…
Sáu căn cũng như thế
Vốn y một tinh minh
Phân thành sáu hòa hợp
Một căn đã về nghỉ
Sáu dụng đều chẳng thành…

 

Bồ tát Quán Thế Âm là vị đã thực hiện hóa hoàn toàn tánh nghe này. Cho nên không những danh hiệu ngài đồng nghĩa với tánh nghe, mà trong Kinh Lăng Nghiêm khi Đức Phật bảo Bồ tát Văn Thù chọn căn nào để thực hành có nhiều hiệu quả, ngài đã chọn Nhĩ căn viên thông của Bồ tát Quán Thế Âm

 

2/ Kinh nghiệm tánh nghe

Sau đây là Bồ tát Quán Thế Âm kể lại sự thực hành để chứng ngộ hoàn toàn tánh nghe, hay Nhĩ căn viên thông như sau:

Bấy giờ Bồ tát Quán Thế Âm liền từ chỗ ngồi đứng dậyđảnh lễ dưới chân Phật và thưa rằng: Bạch Thế Tôn, con nhớ hằng sa kiếp về trước có Phật ra đời hiệu là Quán Thế Âm, từ Đức Phật ấy con phát tâm Bồ đềĐức Phật ấy dạy con từ Văn (Nghe), Tư (Suy nghĩ) và Tu (Thực hành), nhập vào tam ma đề.

Ban đầu ở trong cái nghe, vào dòng mất đối tượng được nghe (sở). Cái được nghe và chỗ vào đã vắng lặng, hai tướng động tĩnh rõ ràng chẳng sanh. Như vậy dần dần tăng tiến thêm, cái nghe (chủ thể nghe, năng) và cái được nghe (đối tượng được nghe, sở) đều hết.

Chẳng dừng lại nơi hết cái nghe và cái được nghe thì cái năng giác và sở giác đều Không. Không và giác cùng tột tròn vẹn thì năng Không và sở Không đều diệt.

Sanh diệt đã diệt, tịch diệt hiện tiền. Tức thì vượt khỏi thế gian lẫn xuất thế gian, tròn sáng khắp mười phương, được hai điều tột bậc: Một là trên hợp với Bản Giác Diệu Tâm của mười phương chư Phật, cùng với chư Phật đồng một lực Từ; hai là, dưới hợp với tất cả mười phương chúng sanh sáu nẻo, cùng với các chúng sanh đồng một Bi ngưỡng”.

Đây là công phu xoay lại cái nghe có chủ thể nghe và âm thanh được nghe để đi sâu vào tánh nghe không còn chủ thể và đối tượng.

Đại chúng và A Nan!
Xoay cơ nghe điên đảo
Xoay nghe, nghe tự tánh
Tánh thành: vô thượng đạo.
Viên thông thật như vậy
Đây một đường Niết bàn
Của hằng sa chư Phật.

Khi đi sâu vào cái nghe để đến tận tánh nghe, mọi phân hai năng giác và sở giác, năng Không và sở Không đều dứt, chỉ còn một tánh nghe hay tánh giác trùm khắp.

Đó là sự đi từ tướng vào tánh: “Mười hai là tiêu dung hình tướng trở lại thành tánh nghe, là đạo tràng bất độngthâm nhập thế gian mà không hoại thế gian…

Mười ba là sáu căn viên thông, sáng chiếu tất cả không hai, trùm khắp mười phương cõi, thành đại Viên Cảnh Không Như Lai tạng…

Tóm lại có thể tóm tắt sự thực hành là không chạy theo các âm thanh, mà xoay lại cái nghe để nghe vào tánh nghe luôn luôn có mặt:

Tánh nghe chẳng nhân duyên
Nhân thanh có danh tự
Xoay nghe thoát khỏi tiếng
Giải thoát đâu có danh
Một căn đã về nguồn
Sáu căn thành giải thoát…
Xoay nghe, nghe tự tánh
Tánh thành: vô thượng đạo.

Và tánh nghe hay tánh giác, hay bản tánh của tâm, là tánh Không-Minh và Từ Bi, như đoạn kể của Bồ tát Quán Thế Âm ở trên.

Khi thành tựu tánh nghe thì “cái thấy, nghe, hay, biết hợp nhất với Thường Lạc Ngã Tịnh của Như LaiSáng tỏ tinh thuần, tất cả các biến hiện không còn là phiền não, đều hợp với diệu đức thanh tịnh Niết bàn”.

 

3/ Vài câu chuyện về Khai Thị Ngộ Nhập tánh nghe.

Có nhà sư hỏi Hòa thượng Huyện Tỉnh về công án ‘Cây bách trước sân’ của ngài Triệu Châu.

Hòa thượng nói: Ta không từ nan mà nói với ông, nhưng liệu ông có tin không?

Nhà sư nói: Lời của Hòa thượng con đâu dám không tin.

Hòa thượng nói: Ông có nghe tiếng giọt mưa rơi từ đầu mái nhà chăng?

Nhà sư hoát nhiên tỏ ngộ, bất giác la lên, ‘Chao ôi!’

Ngài bảo: Ông thấy đạo lý gì? Nhà sư dùng kệ đáp:

Giọt mưa đầu mái
Rõ ràng rành rẽ!
Phá nát càn khôn
Ngay đó tâm dứt.

Khi tâm thức đã được chuẩn bị đầy đủ, đã chín muồi, một âm thanh bình thường có thể đánh thức sự nhận ra tánh nghe.

Patrul Rinpoche (1808-1887) một thành tựu giả Đại Toàn Thiện Tây Tạng, một buổi chiều ở trên núi với đại đệ tử là Nyoshul Lungtok. Họ cùng thực hành namkhai naljor, yoga như hư không, nằm trên đất, nhìn bầu trời đầy sao. Patrul Rinpoche hỏi:

- Con có thấy những ngôi sao trên trời không?

- Dạ có.

- Con có nghe tiếng chó sủa dưới tu viện Dzogchen không?

- Dạ có.

- Con có nghe ta đang nói với con không?

- Dạ có.

- Vậy đó, bản tánh của tâm, tất cả Đại Toàn Thiện chỉ là thế đấy.

Nyoshul kể lại, “ngay lúc ấy, tôi chứng ngộ rằng tất cả đều bao gồm ở bên trong, chẳng phải cái gì ngoài. Tánh giác Rigpa, tâm Phật nguyên sơ là vốn sẳn ở bên trong. Mọi sự là trò phô diễn của Rigpa, tánh giác vốn sẳn đủ từ xưa nay.

Qua câu chuyện này cho thấy tánh nghe là một hiện hữu thường hằng nơi mỗi con người, chỉ cần tịnh hóa tâm thức và lời khai thị đúng lúc của thầy thì thấy ra nó.

Sư Đông Sơn đến Thiền sư Vân Nham, hỏi rằng: Vô tình thuyết pháp, kẻ nào được nghe?

Thiền sư đáp: Vô tình được nghe.

Hỏi: Vì sao tôi chẳng nghe?

Thiền sư Vân Nham dựng đứng phất tử, nói: Lại nghe chăng?

Đáp: Chẳng nghe.

Thiền sư nói: Ta thuyết pháp, ông còn không nghe huống là vô tình thuyết pháp.

Hỏi: Vô tình thuyết pháp, kinh nào nói?

Thiền sư Vân Nham nói: Há chẳng thấy kinh A Di Đà nói, ‘chim, nước, cây cối, thảy đều niệm Phậtniệm Pháp, cây cỏ vô tình hòa tấu vui ca sao?’.

Sư Động Sơn ngay đó tỉnh ngộ, bèn nói bài tụng:

Thật lạ lùng, thật lạ lùng!
Vô tình thuyết pháp, chẳng nghĩ bàn
Nếu đem tai ngóng càng không hiểu
Nhãn xứ nghe thanh mới tỏ thông”.

Vô tình thuyết pháp là “tiếng vỗ của một bàn tay”, công án của Thiền sư Nhật Bản Bạch Ẩn Huệ Hạc (1685-1768)

Lại có thiền sư Báo Từ lên tòa giảng, nghe chim tu hú kêu, bèn hỏi nhà sư: ‘Tiếng gì thế?’

Sư đáp: Tiếng chim tu hú.

Thiền sư nói:

Nếu muốn không mời vô gián nghiệp
Chớ báng Như Lai chánh pháp luân”.

Thiền sư Bổn Tịnh có bài kệ:

Thấy, nghe, hay, biết, không chướng ngại
Sắc, hương, vị, xúc, thường Tam muội
Như chim trong không, chỉ thế bay
Không nắm, không bỏ, không thương ghét
Nếu rõ ứng xứ chẳng phải tâm
Mới được gọi là Quán Tự Tại”. 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1409)
Sống trên đời, có ai không mang ít nhiều âu lo? Người nghèo thì lo làm thế nào để mọi người trong gia đình mình đủ ăn đủ mặc.
(Xem: 1307)
Trong những chúng đệ tử Phật, thì chúng cư sĩ tại gia chiếm số lượng đông đảo và có những ảnh hưởng nhất định đối với diện mạo của Phật giáo nói chung.
(Xem: 1381)
Hạnh phúc chính là sự bình an của thân thể và sự yên tĩnh của tâm hồn.
(Xem: 1363)
Cái vòng tròn vô hình lại quay trọn môt vòng, mùa thu lại về với đất trời Bắc Mỹ.
(Xem: 1268)
Trong Trung luận của Bồ tát Long Thọ luận giảng về tánh Không, phần nhiều là những câu phủ định.
(Xem: 1326)
Trong năm bộ Nikaya của hệ Pali, Đức Phật thường nói đến sự “không có lõi cứng” của các hiện tượng, từ thân tâm, cho đến thế giớichúng sanh.
(Xem: 1337)
Mỗi người trong cuộc sống này luôn có một thử thách để chinh phụcvượt qua, đó là gì?
(Xem: 2013)
Một trong những hình thức ta nuôi dưỡng phiền giận về chính mình là mặc cảm tội lỗi.
(Xem: 1375)
Thế gian không có cái gì khổ cả, khổ chỉ là những ảo giác của con người.
(Xem: 1388)
Thực tập nhằm tăng cường khả năng tập trung hoặc chú ý đóng một vai trò quan trọng trong hầu hết các truyền thống tôn giáo lớn.
(Xem: 1270)
Trong phẩm Thế Chủ Diệu Nghiêm thứ nhất của Kinh Hoa Nghiêm, các thiên vương, các thần vương cho đến các Đại Bồ tát nói kệ tán thán Phật
(Xem: 1510)
Về pháp thiền quán vô thường tôi chia sẻ hôm nay, tôi sẽ không bàn đến đại vô thường như là cái chết, sự hủy diệt, sụp đổ hay sự chia ly.
(Xem: 1356)
Sau khi quy y Tam bảo, vì muốn tìm cầu tri thức, tôi đã nỗ lực nghiên cứu kinh điển. Kinh Phật mênh mông như biển cả,
(Xem: 1225)
Sống lâu, khỏe mạnh là một phước báu lớn. Nhưng không phải ai cũng có được phước báo này.
(Xem: 1197)
Ăn chay không thực hành trong tâm lý cứng nhắc, khắc nghiệt mà ăn chay cần duy trì trong một tâm thái an lạc, nhẹ nhàng và hạnh phúc!
(Xem: 1248)
Thiểu dục: là ít muốn. Tri túc: là biết đủ. “Thiểu dục tri túc”, tức là ít ham muốn và biết đủ.
(Xem: 1241)
Biết chế ngự tâm thì sẽ giảm đi hoặc chấm dứt hẳn những tham vọng, cuồng nộ, sân hận, bẳn gắt, ganh tỵ, đố kỵ, si mê...
(Xem: 1388)
Con người khi mất đi, vẫn còn âm hồn như trong đạo Phật vẫn luôn nhắc đến thuyết luân hồi,
(Xem: 1113)
Phra Ajaan Lee Dhammadharo (1907-1961), là một trong những vị thiền sư theo truyền thống tu khổ hạnh trong rừng.
(Xem: 1106)
Người thế gian không biết nên oán trách cha mẹ không có phước nên sanh mình ra khổ.
(Xem: 1166)
"Một thời Đức Phật du hóa tại thành Vương-xá, trong rừng Trúc, vườn Ca-lan-đa. Bấy giờ, Tôn giả Tam-di-đề cũng đi du hóa ở thành Vương-xá, tại Ôn tuyền lâm.
(Xem: 1296)
"Chánh niệm" - Đó là một từ được bàn tán nhiều khi một người lần đầu tiên tìm hiểu về thiền địnhPhật giáo. Chánh niệm là gì?
(Xem: 1323)
Trí huệ là cái mỗi chúng sanh đều vốn có, chỉ vì bị khuất lấp do những che chướng tạm thời, phiền não chướngsở tri chướng, mà không thấy không biết
(Xem: 1086)
Kinh Vu lan, một bản kinh ngắn nhưng hàm súc, tràn đầy ý nghĩa nhân văn, chan chứa đạo lý, thấm đẫm tình người và đặc biệtgiá trị giáo dục nhân cách với đặc trưng hiếu đạo.
(Xem: 1201)
Đôi khi chúng ta sống cùng nhau, đi ngang đời nhau, đối diệnvới nhau nhưng lại chẳng thấy nhau.
(Xem: 1140)
Các đặc điểm hợp lý trong giáo lý Phật giáo sơ kỳ đã có sức hấp dẫn lớn đối với các học giả châu Âu khi họ nghiên cứu vềPhật giáo.
(Xem: 1286)
Là người Việt Nam, chúng ta ai lại không biết bài hát “Lòng mẹ” của Y Vân với những câu hát như “Lòng mẹ bao la như biển Thái Bình rạt rào/ Tình mẹ tha thiết như dòng suối hiền ngọt ngào…”.
(Xem: 1277)
Ngày Lễ Vu Lan để mỗi người con nhớ đến sự hy sinh, tình thương bao lacông ơn của Cha Mẹ,
(Xem: 1406)
Ngày lễ Vu Lan, những người con ở xa thương nhớ cha mẹ, lòng vẫn luôn hướng về cha mẹ, hướng về nơi chôn nhau cắt rốn của mình.
(Xem: 1501)
Bám chấp là nguyên nhân của mọi đau khổ, phiền não. Đó là những gì làm phát sinh trạng thái hữu và sinh.
(Xem: 1255)
Đạo Phậttôn giáo từ bỏ bạo lực một cách mạnh mẽ nhất trong mọi hình thức.
(Xem: 1247)
Trong mọi truyền thống Phật giáo đều có việc tụng kinh, từ Nam tông, Bắc tông cho đến Mật tông.
(Xem: 1372)
“Hãy ví khổ như rác và hạnh phúc như những đoá hoa… Chuyển hóa khổ đau chính là biết cách biến rác trở lại thành hoa” (Thiền sư Nhất Hạnh).
(Xem: 1412)
Phra Ajaan Lee Dhammadharo (1907-1961), là một trong những vị thiền sư theo truyền thống tu khổ hạnh trong rùng.
(Xem: 1322)
Bất kỳ ai trên thế gian này đều mong muốn tìm cho mình hạnh phúc, an lạc, mà những niềm vui, lạc thú trên đời này rất nhiều.
(Xem: 1645)
Câu hỏi là làm thế nào để đem lại sự an tĩnhan lạc nội tâm trong đời sống hằng ngày của bạn
(Xem: 1295)
Phật giáo thời Hậu Lê tuy không phát triển mạnh như thời Lý-Trần, nhưng thể hiện nên nét đặc sắc về nhiều mặt của Phật giáo
(Xem: 1306)
Những phương cách để đối phó với bệnh khi nó xảy ra là gì? Bình thường phản ứng của chúng tacảm thấy ...
(Xem: 1339)
Phật pháp quả là biển học vô bờ, muôn ngàn pháp môn phương tiện, tùy theo căn cơ trình độ chúng ta chọn và thích hợp với các pháp môn tu khác nhau.
(Xem: 1188)
Hiện nay, vấn đề Bảo vệ Môi trường đang rất được quan tâm ở khắp các nước trên thế giới.
(Xem: 1211)
Hiện nay, ô nhiễm môi trường ngày càng trở nên nghiêm trọngViệt Nam và trên thế giới.
(Xem: 1348)
Để lĩnh hội trọn vẹn “cảm giác an lạc” sinh khởi nhờ thiền định, đòi hỏi các thiền sinh phải có một nền tảng định vững chắc.
(Xem: 1453)
Một hôm Ngài A Nan hỏi Đức Phật ? Bạch Đức Thế Tôn, sau khi một chúng sanh qua đời họ sẽ tái sanh về đâu?
(Xem: 1507)
Ba đứa chơi thân với nhau tự thuở nào, thiên hạ ai cũng bảo ba đứa ấy như hình với bóng
(Xem: 1673)
Năng lễ, sở lễ tánh Không tịch Cảm ứng đạo giao nan tư nghì
(Xem: 1538)
Nắng như thiêu đốt suốt những ngày qua. Luồng gió nóng thốc qua sân nhà tưởng chừng làm héo hắt thêm cho những
(Xem: 1434)
Ngũ là năm. Uẩn có nhiều nghĩa, như: chắc chắn, nhóm, thành phần hay yếu tố
(Xem: 1226)
Khi thân yên, ta có thể hiểu biết về thân. Khi tâm tĩnh lặng, ta có hiểu biết về tâm. Khi hơi thở tĩnh lặng, ta có hiểu biết về hơi thở.
(Xem: 1334)
Người tu ở một mình hay cùng với đại chúng, chuyên tu hay đi vào đời để hoằng phápsở thích, hạnh nguyện riêng của mỗi người.
(Xem: 1295)
Nhiều Thiền sư tiếp cận với cộng đồng Hoa Kỳ và Tây phương, trong những thời gian đầu dạy Thiền, thường tránh nói về giới,
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant