Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tánh Nghe

30 Tháng Năm 202215:46(Xem: 2559)
Tánh Nghe

TÁNH NGHE

Nguyễn Thế Đăng


 Lòng Biết Ơn Bài Kinh Đầu Tiên Của Đức Phật



Tánh nghe được giảng nhiều trong Kinh Lăng Nghiêm. Sau đây, chúng ta sẽ dùng vài đoạn Kinh Lăng Nghiêm để tìm hiểu và nhận biết tánh nghe.

1/Sự hiện hữu của tánh nghe

Một trong những thí dụ chứng minh có sự hiện hữu, thậm chí thường trực, của tánh nghe, được Đức Phật chỉ dạy trực tiếp cho ngài A Nan: “Nay ta thử đem các việc thế gian để giải trừ cái nghi của ông”.

Đức Phật bảo La Hầu La đánh một tiếng chuông và hỏi A Nan có nghe không. A Nan và đại chúng đều nói: Dạ, có nghe. Khi tiếng chuông dứt, được hỏi có nghe không, A Nan và đại chúng trả lời: Thưa, không có nghe.

Đánh chuông lần hai, rồi lần ba, khi còn tiếng chuông, tất cả đã trả lời là có tiếng. Tiếng chuông dứt, tất cả trả lời là không có tiếng.

Bấy giờ Đức Phật nói:

A Nan, tiếng dứt không còn vang, ông nói là không nghe. Nếu thật không nghe thì tánh nghe đã diệt, đồng như cây khô, thì khi tiếng chuông lại được đánh lên, làm sao ông còn nghe được?

Biết rằng có biết rằng không, đó là tiếng của trần hoặc có hoặc không, chứ tánh nghe này đâu có vì ông mà thành có thành không. Tánh nghe mà quả thật không có thì cái gì biết là không có tiếng? Thế nên, A Nan, trong cái nghe, cái tiếng tự có sanh có diệt, chẳng phải vì ông nghe tiếng sanh tiếng diệt mà khiến cho tánh nghe của ông thành có thành không”.

Tiếng thì có sanh có diệt, do đó cái nghe của tai thành ra khi có khi thì không. Nhưng tánh nghe thì thường trực, có tiếng thì nghe, không có tiếng vẫn nghe, nghe cái không có tiếng.

 

Để rõ hơn, chúng ta trích từ kinh nghiệm trực tiếp của các thiền sư. Trong tự truyện của Đại sư Hám Sơn (1545-1623) viết:

Vào năm 1575 tôi ba mươi ba tuổi. Hồi mới bắt đầu kỳ thiền này, khi nghe tiếng gió hú và tiếng băng đập vào núi, tôi rất xao động, như là tiếng hàng ngàn quân và ngựa đánh trận. Tôi hỏi Diệu Phong, sư đáp: “Tất cả xúc tình phát xuất từ tâm, không phải ở ngoài tới. Ông không nghe các bậc cổ đức nói, ‘Ba mươi nghe tiếng nước chảy mà không chuyển ý căn thì thế nào cũng chứng Quan Âm viên thông’. Tôi bèn lên một cầu gỗ chơ vơ ngồi thiền mỗi ngày. Thoạt đầu tôi nghe tiếng suối chảy rất rõ, dần dần tôi chỉ nghe được khi muốn nghe. Nếu tâm động, tôi còn nghe, tâm tịnh thì chẳng nghe gì. Một hôm trong khi ngồi thiền trên cầu, tôi quên là mình có thân. Nó đã biến mất cùng những âm thanh chung quanh. Từ đó tôi không còn bị tiếng động nào quấy nhiễu nữa”.

Khi không nghe tiếng nào mà vẫn biết là không nghe tiếng, cái biết không có tiếng ấy là tánh nghe, hay nói theo Kinh Lăng Nghiêm là “nghe cái không nghe, không có tiếng”.

 

Thiền sư Thái Lan Ajahn Chah (1918-1992) nói:

Rồi tôi hiểu: Khi tâm hợp nhất trong thiền định, nếu bạn hướng chú ý ra ngoài, bạn có thể nghe tiếng động, nhưng nếu bạn để nó trụ trong sự trống không của nó, nó hoàn toàn vắng lặng…

Từ trạng thái tâm thức bình thường tôi tiếp tục thiền, tâm lại đi sâu vào trong. Lần này toàn thể vũ trụ vỡ tan thành những mảnh li ti. Trái đất, núi non, đồng ruộng… tất cả mọi thứ trong thế giới phân hủy thành những nguyên tử của không gianCon người biến mất, mọi sự đều biến mất, hoàn toàn không có gì tồn tại nữa.

Tâm, sau khi đi vào trong, trụ lại đó một thời gian, chỉ sau một thời gian dài nó mới ra khỏi trạng thái đó. Tâm tự làm tất cả. Tôi chỉ là người quan sát, người chứng kiến”.

Thiền định là tâm đi vào trong, đến mức không thấy gì, không nghe gì, mọi sự đều biến mất, nhưng lúc ấy vẫn có cái biết, không phải là cái biết của ý thức phân biệt, cái biết rằng không nghe gì cả. Cái biết rằng không nghe gì cả, nghe cái không nghe, là tánh nghe, hay chính xác là tánh biết biểu lộ qua cái nghe. Sở dĩ các kinh điển Bắc tông gọi là tánh, vì nó là “người quan sát, người chứng kiến”, không lệ thuộcdính dáng gì đến đối tượng âm thanh hay hình sắc, hay là các tướng.

Kinh nói tánh giác chia thành cái biết ở sáu căn. Ở mắt gọi là tánh thấy, ở tai gọi là tánh nghe, ở mũi gọi là tánh ngửi… nhưng tất cả sáu căn đồng một nguồn tánh giác. Nguồn ấy được gọi là “tinh minh”: tinh là tinh tuý, hay bản tánh; minh là ánh sáng, sáng tỏ. Nguồn thanh tịnh và sáng chiếu này được các Kinh khác gọi là bản tánh của tâm, bản tâm.

Một căn đã về nguồn
Sáu căn thành giải thoát…
Xoay nghe, gốc lòa trừ 
Trần tiêu, Giác viên tịnh
Tịnh tột, quang thông suốt
Lặng chiếu trùm hư không…
Sáu căn cũng như thế
Vốn y một tinh minh
Phân thành sáu hòa hợp
Một căn đã về nghỉ
Sáu dụng đều chẳng thành…

 

Bồ tát Quán Thế Âm là vị đã thực hiện hóa hoàn toàn tánh nghe này. Cho nên không những danh hiệu ngài đồng nghĩa với tánh nghe, mà trong Kinh Lăng Nghiêm khi Đức Phật bảo Bồ tát Văn Thù chọn căn nào để thực hành có nhiều hiệu quả, ngài đã chọn Nhĩ căn viên thông của Bồ tát Quán Thế Âm

 

2/ Kinh nghiệm tánh nghe

Sau đây là Bồ tát Quán Thế Âm kể lại sự thực hành để chứng ngộ hoàn toàn tánh nghe, hay Nhĩ căn viên thông như sau:

Bấy giờ Bồ tát Quán Thế Âm liền từ chỗ ngồi đứng dậyđảnh lễ dưới chân Phật và thưa rằng: Bạch Thế Tôn, con nhớ hằng sa kiếp về trước có Phật ra đời hiệu là Quán Thế Âm, từ Đức Phật ấy con phát tâm Bồ đềĐức Phật ấy dạy con từ Văn (Nghe), Tư (Suy nghĩ) và Tu (Thực hành), nhập vào tam ma đề.

Ban đầu ở trong cái nghe, vào dòng mất đối tượng được nghe (sở). Cái được nghe và chỗ vào đã vắng lặng, hai tướng động tĩnh rõ ràng chẳng sanh. Như vậy dần dần tăng tiến thêm, cái nghe (chủ thể nghe, năng) và cái được nghe (đối tượng được nghe, sở) đều hết.

Chẳng dừng lại nơi hết cái nghe và cái được nghe thì cái năng giác và sở giác đều Không. Không và giác cùng tột tròn vẹn thì năng Không và sở Không đều diệt.

Sanh diệt đã diệt, tịch diệt hiện tiền. Tức thì vượt khỏi thế gian lẫn xuất thế gian, tròn sáng khắp mười phương, được hai điều tột bậc: Một là trên hợp với Bản Giác Diệu Tâm của mười phương chư Phật, cùng với chư Phật đồng một lực Từ; hai là, dưới hợp với tất cả mười phương chúng sanh sáu nẻo, cùng với các chúng sanh đồng một Bi ngưỡng”.

Đây là công phu xoay lại cái nghe có chủ thể nghe và âm thanh được nghe để đi sâu vào tánh nghe không còn chủ thể và đối tượng.

Đại chúng và A Nan!
Xoay cơ nghe điên đảo
Xoay nghe, nghe tự tánh
Tánh thành: vô thượng đạo.
Viên thông thật như vậy
Đây một đường Niết bàn
Của hằng sa chư Phật.

Khi đi sâu vào cái nghe để đến tận tánh nghe, mọi phân hai năng giác và sở giác, năng Không và sở Không đều dứt, chỉ còn một tánh nghe hay tánh giác trùm khắp.

Đó là sự đi từ tướng vào tánh: “Mười hai là tiêu dung hình tướng trở lại thành tánh nghe, là đạo tràng bất độngthâm nhập thế gian mà không hoại thế gian…

Mười ba là sáu căn viên thông, sáng chiếu tất cả không hai, trùm khắp mười phương cõi, thành đại Viên Cảnh Không Như Lai tạng…

Tóm lại có thể tóm tắt sự thực hành là không chạy theo các âm thanh, mà xoay lại cái nghe để nghe vào tánh nghe luôn luôn có mặt:

Tánh nghe chẳng nhân duyên
Nhân thanh có danh tự
Xoay nghe thoát khỏi tiếng
Giải thoát đâu có danh
Một căn đã về nguồn
Sáu căn thành giải thoát…
Xoay nghe, nghe tự tánh
Tánh thành: vô thượng đạo.

Và tánh nghe hay tánh giác, hay bản tánh của tâm, là tánh Không-Minh và Từ Bi, như đoạn kể của Bồ tát Quán Thế Âm ở trên.

Khi thành tựu tánh nghe thì “cái thấy, nghe, hay, biết hợp nhất với Thường Lạc Ngã Tịnh của Như LaiSáng tỏ tinh thuần, tất cả các biến hiện không còn là phiền não, đều hợp với diệu đức thanh tịnh Niết bàn”.

 

3/ Vài câu chuyện về Khai Thị Ngộ Nhập tánh nghe.

Có nhà sư hỏi Hòa thượng Huyện Tỉnh về công án ‘Cây bách trước sân’ của ngài Triệu Châu.

Hòa thượng nói: Ta không từ nan mà nói với ông, nhưng liệu ông có tin không?

Nhà sư nói: Lời của Hòa thượng con đâu dám không tin.

Hòa thượng nói: Ông có nghe tiếng giọt mưa rơi từ đầu mái nhà chăng?

Nhà sư hoát nhiên tỏ ngộ, bất giác la lên, ‘Chao ôi!’

Ngài bảo: Ông thấy đạo lý gì? Nhà sư dùng kệ đáp:

Giọt mưa đầu mái
Rõ ràng rành rẽ!
Phá nát càn khôn
Ngay đó tâm dứt.

Khi tâm thức đã được chuẩn bị đầy đủ, đã chín muồi, một âm thanh bình thường có thể đánh thức sự nhận ra tánh nghe.

Patrul Rinpoche (1808-1887) một thành tựu giả Đại Toàn Thiện Tây Tạng, một buổi chiều ở trên núi với đại đệ tử là Nyoshul Lungtok. Họ cùng thực hành namkhai naljor, yoga như hư không, nằm trên đất, nhìn bầu trời đầy sao. Patrul Rinpoche hỏi:

- Con có thấy những ngôi sao trên trời không?

- Dạ có.

- Con có nghe tiếng chó sủa dưới tu viện Dzogchen không?

- Dạ có.

- Con có nghe ta đang nói với con không?

- Dạ có.

- Vậy đó, bản tánh của tâm, tất cả Đại Toàn Thiện chỉ là thế đấy.

Nyoshul kể lại, “ngay lúc ấy, tôi chứng ngộ rằng tất cả đều bao gồm ở bên trong, chẳng phải cái gì ngoài. Tánh giác Rigpa, tâm Phật nguyên sơ là vốn sẳn ở bên trong. Mọi sự là trò phô diễn của Rigpa, tánh giác vốn sẳn đủ từ xưa nay.

Qua câu chuyện này cho thấy tánh nghe là một hiện hữu thường hằng nơi mỗi con người, chỉ cần tịnh hóa tâm thức và lời khai thị đúng lúc của thầy thì thấy ra nó.

Sư Đông Sơn đến Thiền sư Vân Nham, hỏi rằng: Vô tình thuyết pháp, kẻ nào được nghe?

Thiền sư đáp: Vô tình được nghe.

Hỏi: Vì sao tôi chẳng nghe?

Thiền sư Vân Nham dựng đứng phất tử, nói: Lại nghe chăng?

Đáp: Chẳng nghe.

Thiền sư nói: Ta thuyết pháp, ông còn không nghe huống là vô tình thuyết pháp.

Hỏi: Vô tình thuyết pháp, kinh nào nói?

Thiền sư Vân Nham nói: Há chẳng thấy kinh A Di Đà nói, ‘chim, nước, cây cối, thảy đều niệm Phậtniệm Pháp, cây cỏ vô tình hòa tấu vui ca sao?’.

Sư Động Sơn ngay đó tỉnh ngộ, bèn nói bài tụng:

Thật lạ lùng, thật lạ lùng!
Vô tình thuyết pháp, chẳng nghĩ bàn
Nếu đem tai ngóng càng không hiểu
Nhãn xứ nghe thanh mới tỏ thông”.

Vô tình thuyết pháp là “tiếng vỗ của một bàn tay”, công án của Thiền sư Nhật Bản Bạch Ẩn Huệ Hạc (1685-1768)

Lại có thiền sư Báo Từ lên tòa giảng, nghe chim tu hú kêu, bèn hỏi nhà sư: ‘Tiếng gì thế?’

Sư đáp: Tiếng chim tu hú.

Thiền sư nói:

Nếu muốn không mời vô gián nghiệp
Chớ báng Như Lai chánh pháp luân”.

Thiền sư Bổn Tịnh có bài kệ:

Thấy, nghe, hay, biết, không chướng ngại
Sắc, hương, vị, xúc, thường Tam muội
Như chim trong không, chỉ thế bay
Không nắm, không bỏ, không thương ghét
Nếu rõ ứng xứ chẳng phải tâm
Mới được gọi là Quán Tự Tại”. 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 20710)
Trước miếu Quan Âm mỗi ngày có vô số người tới thắp hương lễ Phật, khói hương nghi ngút. Trên cây xà ngang trước miếu có con nhện chăng tơ...
(Xem: 13553)
Con thấy rằng nếu người ta làm thơ hay viết văn ca tụng ba thì cũng chỉ có những hình ảnh, những biểu tượng dù cao cả, sáng chói nhưng không khỏi nét khô khan...
(Xem: 14259)
Những buổi chiều tàn, khi khách hành hương đã vãn, thì thằng Hoàng thường thơ thẩn một mình quanh các con đường mòn ngoằn ngoèo bên sườn núi đá lởm chởm với đầy hang hốc.
(Xem: 12296)
Đã lâu rồi, gặp lại nhau, chúng mình đều già hết. Người bạn thân ở lúc nào đó, nay nhìn lại, cũng khó nhận ra. Mái tóc đã bạc, vầng trán có nhiêu gạch dài...
(Xem: 12798)
Xưa có một tên đạo chích rất lành nghề. Một hôm, con trai ngỏ ý muốn học nghề của cha. Tên ăn trộm liền dẫn con đi thực tập. Hai cha con đến một nhà giàu có...
(Xem: 14357)
Chuông, tiếng Phạn gọi là ghanta, ở Trung Quốc dịch là chung, khánh, là pháp khí dùng để gõ thông báo giờ giấc làm Phật sự và để tập hợp mọi người trong chùa.
(Xem: 14357)
Hai mươi ba năm trước, có một người con gái trẻ lang thang qua làng tôi, đầu bù tóc rối, gặp ai cũng cười cười, cũng chả ngại ngần ngồi tè trước mặt mọi người.
(Xem: 15683)
Mùa đông ở đây không có tuyết, nhưng cũng đủ lạnh cho những chiếc lá ngả màu và em tôi quấn thêm chiếc khăn quàng cổ. Tôi thích mùa đông...
(Xem: 13003)
Mỗi năm có bốn mùa và mỗi mùa có ba tháng. Thời gian được chia ra như thế thật rõ ràng ở các châu Úc, châu Âu và châu Mỹ.
(Xem: 17411)
Má không biết đường sá thành phố, cũng chẳng mấy khi lên Sài Gòn, họa hoằn là đi khám bệnh hoặc lên thăm bà con. Mỗi khi lên thành phố, má thường rất lo lắng.
(Xem: 15729)
Trong cuộc sống trầm luân khổ hải này, chúng ta không chịu buông xảtham luyến tất cả những gì ‘của mình’; ai cũng đầu tắt mặt tối, bận rộn suốt cuộc đời...
(Xem: 12486)
Kinh điển nhà Phật thường nói lòng từ bi của Phật và các vị bồ-tát đối với chúng sinh giống như lòng thương của cha mẹ đối với con cái.
(Xem: 12463)
Mới vừa đây, trên cành cây, có nhiều cánh hoa mai vàng nở, mắt mơ màng sau bao năm tháng ẩn nhẫn chờ đợi ngày khoe áo mới. Có những cành đào sum sê là hoa...
(Xem: 14027)
Cứ mỗi lần nhớ thầy, giấy mực là người bạn duy nhất để con trút ra vô vàn tiếng nói tự cõi lòng của một người đệ tử tận chốn phương xa. Mỗi tuần một lá...
(Xem: 15999)
Danh từ Generation Gap nghĩa là Khoảng Cách Thế Hệ (mỗi thế hệ cách nhau từ 20-40 năm để người trẻ tuổi lớn lên trở thành người lớn tuổi)...
(Xem: 13613)
Tôi gọi người cha là Anh, còn con trai ông là Dũng, vì hai cha con ông thật... anh dũng. Mỗi sáng, họ có mặt ở công viên rất sớm.
(Xem: 14963)
Sau những cái nóng nực gay gắt của mùa hạ đã đi qua, trời bắt đầu sang thu, thoáng đâu đây cơn gió đầu thu nhè nhẹ thổi sang như báo hiệu trong thiên hạ một điều gì đó.
(Xem: 14502)
Liệu hạnh phúc của con người có bị đám yêu tinh kia giấu mất? Câu trả lời tùy thuộc chính bản thân chúng ta trong quá trình tìm kiếm hạnh phúc cho mình...
(Xem: 13584)
Một thời Thế Tôn trú ở Kapilavatthu, dạy các Tỷ kheo: Này các Tỷ kheo, từ tâm giải thoát được thực hành, được tu tập, được làm cho sung mãn, được tác thành cỗ xe...
(Xem: 13443)
Khi tôi viết những dòng chữ này thì tôi vẫn còn cách người mẹ già của tôi đến gần một ngàn cây số. Và những dòng chữ rất riêng tư này, tôi tin rằng...
(Xem: 11710)
Đúng vào hôm tôi vừa ở Phật Học Đường Báo Quốc về thì Vĩnh đến thăm. Anh đến mang cho tôi một chồng sách Phật viết bằng tiếng Pháp mà anh mới gởi mua ở tận xứ xa.
(Xem: 13835)
Làng tôi có ba ấp, mỗi ấp có một ngôi chùa. Tôi ở ấp Quảng Đức, lên năm tuổi đã biết tên chùa là Châu Lâm, đã thấy ông thầy chùa đầu tiên trong đời,...
(Xem: 12962)
Cạnh con đường mòn, ven sườn núi tại Ngọc Nam, có một ngôi chùa nhỏ hoang vắng, nằm im lìm giữa một nơi hẻo lánh và quạnh quẽ. Mùa xuân năm ấy,...
(Xem: 14929)
Con đường tơ lụa bắt đầu từ Phúc Châu, Hàng Châu, Bắc Kinh (Trung Quốc) qua Mông Cổ, Ấn Độ, Afghanistan, Kazakhstan, Iran, Iraq, Thổ Nhĩ Kỳ, Hy Lạp...
(Xem: 12582)
Cơn trốt tàn nhẫn quét ngang cánh đồng trống, ngang qua những căn nhà gỗ mong manh, xoáy mạnh và bốc lên cao những người, thú, đất đá và cây cối…, rồi vô tình thả xuống lại trên những đồng cỏ...
(Xem: 17415)
Có hai hạt lúa nọ được giữ lại để làm hạt giống cho vụ sau vì cả hai đều là những hạt lúa tốt, đều to khỏe và chắc mẩy. Một hôm, người chủ định đem chúng gieo...
(Xem: 16423)
Như đã nói, nhiều bạn trẻ chọn những xâu chuỗi màu tối của Phật giáo, lẫn giữa những sắc màu sinh động khác, thoạt đầu chỉ vì muốn tạo cho mình một phong cách mới lạ...
(Xem: 14570)
Trong một khu nhỏ ở phía Tây quảng trường Washington, đường phố chạy ngoằn ngoèo và tự cắt thành những mảnh nhỏ gọi là “biệt khu”. Những “biệt khu” này tạo thành những góc...
(Xem: 14834)
Thầy thơ lại rút chiếc hèo hoa ở giá gươm, phe phẩy roi, đi xuống phía trại giam tối om. Nơi góc chiếc án thư cũ đã nhạt màu vàng son, một cây đèn đế leo lét rọi vào một khuôn mặt nghĩ ngợi.
(Xem: 26794)
Tinh thần hiếu đễ của người Á Đông nói chung và dân tộc Việt Nam nói riêng đã thấm sâu vào xương tủy của mọi người, và phát khởi ra sự sinh hoạt bên ngoài...
(Xem: 14699)
Sau hai năm học con vẫn học giỏi với số phẩy trên 8,0, con cố gắng từng ngày vì niềm hy vọng của ba má, niềm tin của các em và của nhiều người gửi gắm.
(Xem: 13594)
Thượng Tọa Thích Quang Lạc ấn nút cho chiếc ghế bành Lazy boy giữ độ nghiêng vừa ý, đoạn ngã người lún sâu vô lớp nệm mousse dầy cộm,...
(Xem: 13805)
Khi chàng dũng sĩ về đến chân núi thì trăng cũng vừa lên. Trăng mười chín soi sáng cảnh núi rừng cô tịch. Ánh trăng nhấp nháy đùa giỡn trên lá cây.
(Xem: 13725)
Đức Phật ra đời - như trong kinh Pháp Hoa nói - chỉ vì một đại sự nhân duyên lớn. Đó là: "Mở bày cho chúng sanh hiểu để vào tri kiến Phật".
(Xem: 15005)
Em thấy mẹ chẳng cần vi tính, vẫn âm thầm lập trình cá, cơm, rau. Biết chị Hai cái áo ủi không ngay, còn anh nữa đôi giày cả tuần chưa chịu đánh!
(Xem: 15341)
Đi theo ông bà, cha mẹ, trí nhớ của con nít - ở những lứa tuổi từ 6 - 7 tuổi đến 11-12 tuổi, vẫn gắn bó với Chào con rắn, Ma gia đuổi bắt, Đánh nẻ, Đập chuồn chuồn...
(Xem: 14039)
Biển sâu thẳm, biển mênh môngdiễm tuyệt, biển bao dung vô lượngbiến ảo vô biên... Vì thế biển cũng là Tâm.
(Xem: 14964)
Trong một số lượng lớn học trò, Rajeev là một người có tài nhất, chăm chỉ, sáng tạo,nên anh ta tiếp thu nhanh hơn nhiều so với các bạn đồng môn.
(Xem: 13793)
Có một vị bồ-tát rất tầm thường ở trong nhà của tôi, nhà của các bạn, nhà của mọi gia đình ở xứ này. Vị bồ-tát ấy cũng có mặt ở các văn phòng, hãng xưởng...
(Xem: 14700)
Cuộc sống không phải là một mẻ lưới của số phận. Cuộc sống chính là một mối giao hoà bất tận giữa mỗi cá thể đang tồn tại. Và trong mối giao hoà đó...
(Xem: 14684)
Không và Có tương quan mật thiết với nhau như bóng với hình. Có bao nhiêu cái có thì cũng có bấy nhiêu cái không. Nếu cái có vô cùng vô tận, thì cái không cũng vô tận...
(Xem: 16666)
Lý tưởng giáo dục và những phương pháp thực hiện lý tưởng này, hiển nhiên Phật giáo đã có một lịch sử rất dài.
(Xem: 18241)
Bảo Lâm bước chậm lại... ý như để lắng nghe tiếng chim hót líu lo từ phía khu rừng trúc. Vài tia nắng nhẹ vừa xuất hiện phía hừng đông, bầu trời trong xanh văng vắt...
(Xem: 27156)
Trần Nhân Tông (1258-1308) là con đầu của Trần Thánh Tông. Ông là một vị vua anh minh quả cảm, nhiều lần xông pha trận mạc đánh tan quân Nguyên Mông...
(Xem: 23733)
Con chó của ta luôn ở bên cạnh ta trong phú quý cũng như lúc bần hàn, khi khỏe mạnh cũng như lúc ốm đau. Nó ngủ yên trên nền đất lạnh, dù gió đông cắt da cắt thịt...
(Xem: 26461)
Nó đưa tay quệt đôi mắt mọng nước giọng đầy kiên quyết nói với cậu Út: - Nếu con thấy người đàn bà ấy xuất hiện ở nhà này lần nữa, con sẽ không tha đâu.
(Xem: 16691)
Mười năm vườn xưa xanh tốt Hai mươi năm nắng rọi lều tranh Mẹ tôi gọi tôi về Bên bến nước rửa chân
(Xem: 18941)
Hàn Mặc Tử rất chú trọng về âm nhạc và màu sắc. Đó chính vì tâm hồn Tử có nhiều trạng thái cá biệt, nhiều khi rất bí ẩn u huyền; để diễn tả, phải dùng màu sắc...
(Xem: 17743)
Người tài xế bặm môi nhíu sát hai lông mày vào nhau. Những nếp nhăn hằn lên, khổ sở. Tôi chong mắt nhìn ra trước xe. Những cánh đồng trải rộng, trải dài,...
(Xem: 13977)
Lịch sử chứng minh cho thấy trong xã hội con người có nhiều phát triển tích cực diễn ra do kết quả của lòng từ bi. Chẳng hạn sự hủy diệt thương vụ buôn bán người nô lệ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant