Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Ý Nghĩa Căn Bản Trong Giáo Pháp Tứ Y

15 Tháng Chín 202216:20(Xem: 2512)
Ý Nghĩa Căn Bản Trong Giáo Pháp Tứ Y
Ý Nghĩa Căn Bản Trong Giáo Pháp Tứ Y

Pháp Vương Tử

Đường Tu Trọn Vẹn

Giáo pháp tứ y trong đạo Phật là giáo pháp nói về bốn phương pháp thực tập sự nương tựa (y cứ) dẫn đến giác ngộ giải thoát. Sự  nương tựa ở đây không phải sự dựa dẫm, mà là một nhu cầu đặc biệt như trời mưa, gió cần nương tựa một mái che, đói khát cần nương tựa một quán hàng và tâm còn vô minh, u tối cần nương tựa một minh sư khai ngộ để được sáng mắt sáng lòng…
Như vậy, hết thảy từ nhu cầu thiết yếu cấp bách trong đời sống vật chất cũng như sự phát triển đời sống tinh thần và tâm linh cũng không thể thiếu sự  NƯƠNG TỰA. Khi làm các phật sự cũng vậy: Phát đại tâm đại nguyện đồng với Phật sẽ được Phật hộ niệm. Đang làm tốt, được khen ngợi bỗng sinh kiêu ngạo cho rằng mình tài, mình giỏi, nghĩa là tâm mình sinh kiêu căng. Sự thay đổi ấy sẽ không được Phật hộ niệm nữa nên hỏng việc ở đoạn sau là thế.
Chuyện đạo - đời, thực ra cũng chỉ là một: Đời không có đạo, không nương tựa đạo thì xã hội xuống cấp bởi nền tảng đạo đức hỏng. Còn đạo đi vào đời là nơi chỗ thể hiện những giá trị đạo đức căn bản, tô đẹp cho cuộc đời
Bốn phương pháp thực tập sự nương tựa này gọi là GIÁO PHÁP TỨ Y.

THỨ NHẤT: Y PHÁP BẤT Y NHÂN

Nghĩa là: Nương tựa y cứ vào PHÁP, chứ không nương tựa, y cứ vào người nói pháp, giảng pháp. Bởi vì, trong thực tế, người có duyên với Phật được các vị thầy, tổ thu nhận để truyền pháp giới nhằm “tiếp dẫn hậu lai…” duy trì mạng mạnh phật pháp trường tồn và phát triển. 
Kinh Pháp Hoa có câu: “Thế gian tướng thường trụ” vậy thường trụ ở đâu? Phật dạy: Thường trụ trong mỗi con người, trong niềm tin ở con người. Thế nên, mỗi người hãy tự xây ngôi chùa tâm linh cho chính mình; ngôi chùa ấy mới là ngôi chùa bất hoại bằng cách nghe phápNghe pháp cũng là học pháp và cũng là đang tu, gọi là NHÂN QUẢ ĐỒNG THỜI. Tu là tự sửa mình, là dấu hiệu của trí tuệ. Tu sao cho đúng “pháp” đã được nghe, rồi thực hành sử dụng cốt lõi lời Phật dạy làm sao cho đời sống tinh thần và vật chất ngày một nâng cao, tiến bộ…diệu  dụng của giáo pháp có lực oai thần hàng phục được cả yêu ma và cũng khiến tượng đá phải… gật đầu, được thể hiện trong đôi câu đối: 

Pháp lực oai thần - Thiền định phóng quang ma khấu thủ
Sư đăng bảo tọa - Đàm kinh nhập diệu thạch đê đầu.

Vì thế những người thông tuệ, có năng khiếu sư phạm thì việc truyền thụ chính pháp ắt thu được kết quả tốt; cho dù trong đời sống thực của vị thầy đó còn chưa mẫu mực. Trong trường hợp đó ta không nên định kiếncố chấp, đánh mất một cơ hội tốt để nghe Pháp và người giảng Pháp; bởi Pháp chính là đạo, giảng pháp chính là giảng đạoNghe pháp để thấy đạo, thu nhận tinh hoa lời Phật dạy mà nhận ra con đường chân lý. Nên hành đạo theo Quán âm, nghe sâu, nhìn sâu. Nghe theo Quán âm là nghe mà không chấp tướng, hình thức nào giúp ta giác ngộ giải thoát chúng ta chọn, không nhầm lẫn chiếc áo với thầy tu.

Ta nghe pháp để thâm nhập vào tâm là Thanh văn thừa mà Kinh Hoa Nghiêm dạy rằng: Đầu tiên phải học thanh văn là học đạo đức. Trên bước đường cầu đạo Thiện tài được khuyên học đạo với Đức Vân tỳ kheo. Đức Vân tỳ kheo đi kinh hành trên mây chứ không đi trên mặt đất. Ý này gợi cho ta thấy: Người có đức hạnh thì tâm hồn luôn nhẹ nhàng thanh thoát. Người có đức hạnh thì sống trong gia đình hay hoạt động ngoài xã hội không làm mất lòng ai, ví như mây bay qua núi nhưng không làm trở ngại núi và núi cũng không cản mây. Rèn luyện thành người đức hạnh là vun bồi báo thân cho mình, từ đó mới phát triển trí tuệ mà tiến tu.

Đương nhiên, với vị thầy giảng pháp có được Thân giáo, tức đạo hạnh mới cảm hóa người khác dễ bởi có lực cảm hóa vô hình, không thấy bằng mắt thường được. Nếu người học có sự tiếp cận nào đó với vị thầy, sẽ nhanh chóng chuyển hóa, việc chứng ngộ giáo pháp chẳng mấy khó khăn. Thời Phật tại thế, có Xá lợi phất vừa trông thấy Tỳ kheo Mã Thắng đã chứng quả Dự lưu, là giải thoát. Hoặc Đức Phật Thích Ca thuyết pháp cho vua Tịnh Phạn, là phụ vương của Ngài - Vua nghe xong cũng liền chứng Dự lưuTôn giả Mục Kiền Liên thuyết pháp cho vua Tần bà sa la bị giam trong ngục, nghe xong nhà vua chứng Dự lưuNghe pháp, rửa sạch lòng trần, nghĩa là chỉ buông bỏ - đương nhiên là chỉ buông bỏ cái chấp, sẽ chứng được Thánh quả ngay.

Thiết nghĩ, đời nay cách Phật hơn 25 thế kỷ rồi, các chư Thánh cũng dần khuất bóng… bây giờ chỉ còn Pháp thân và Báo thân Phật mà thôi. Pháp thân và Báo thân Phật là thân chân lý tuyệt đối, gọi là THẬT TƯỚNG, bởi thật tướng là vô tướng (không phải là hóa thân, nhục thân là thân sinh diệt - thân này đều tan hoại theo luật Vô thường, vì nó hợp bởi tứ đại: đất, nước, gió, lửa nên chỉ hữu hạn mà thôi ). Khi tìm hiểu thêm về ý nghĩa của Phật tam thân ta càng thấy việc thực tập sự nương tựa pháp quan trọng biết ngần nào. Trong Giáo sử còn ghi lại, trước giờ nhập Đại Niết Bàn của Đức Thích Catôn giả A-nan đã thỉnh Phật cho lời Di giáo, và Đức Phật đã để lại lời căn dặn cuối cùng: “Hãy nương tựa Pháp. Pháp lãnh đạo!” (Kinh Di giáo).

Như vậy, sự nương tựa pháp là điều chúng ta luôn ghi nhớ để thực hành.

THỨ HAI: Y LIỄU NGHĨA KINH - BẤT Y BẤT LIỄU NGHĨA KINH

Vậy thế nào là Liễu nghĩa và thế nào là không Liễu nghĩa?
Kinh Liễu nghĩa là Kinh nói về chân lý tuyệt đối, cũng gọi là KHẾ LÝ, là chân tínhbất biến bởi đó là căn bản của sự vật. Tu hành phải đạt được bất biến - tức khế lý, liễu nghĩa. Từ liễu nghĩabất biến mới ứng vạn biến, tức tùy duyên. Không phải bất biến là chấp pháp (cố chấp,bảo thủ). Khi đã thấu triệt Bản tâm tự tính Liễu nghĩa thì người ta không còn vọng thức, lầm lỗi, là người đã đạt được Thánh tuệ. Còn Kinh Bất Liễu nghĩa là kinh phương tiện, chỉ nói về chân lý tương đối, nên được gọi là KHẾ CƠ. Vì là kinh  phương tiện nên dễ hiểuđánh thức người học người tu chính niệm tỉnh giác thấy rõ nguồn gốc khổ đau, thiện ác, từ đó chuyển hóa thân tâm, bớt khổ được vui. Kinh được thể hiện bằng ngôn ngữ thế gian nên có tính phàm tuệ. Mặc dù vậy Kinh Liễu nghĩa và bất Liễu nghĩa - cả hai đều là sự thật căn bản nên được gọi là NHỊ ĐẾ.

Sự thật tương đối trong Bất Liễu nghĩa cũng là sự thật đấy nhưng nó không sâu sắc không phải sự thật tột cùng mà chỉ nửa vời, tạm bợ… nhưng cũng quan trọng, không thể thiếu, để từ đó người học, người tu từng bước nhận thức thực tại, để thăng hoa tri thức trên bước đường ngộ đạo. Còn sự thật tuyệt đối cũng hàm chứa sự tương đối với Liễu nghĩaPhật học gọi là CHÂN ĐẾ - nhằm phân biệt với sự thật tương đối gọi là TỤC ĐẾ sẽ nói dưới đây:
Sự hiểu biết “sắc - không” của nhà Phật qua bài Kệ đáp Tăng chúng của Thiền sư Từ Đạo Hạnh, còn gọi là Đức Thánh Láng, chẳng hạn:
Tác hữu trần sa hữu
Vi không nhất thiết không

Có thì có tự mảy may/không thì cả thế giới này cũng không. Cái “có” của vật chất dẫu nhỏ như vi trần cũng là “có”. Đó là sự thật tương đối (tục đế), còn sự thật tuyệt đối (Liễu nghĩa - Khế lý) là sự thật: muốn pháp do duyên sinh và luôn chịu tác động hoại diệt của vô thường mà “cả thế giới này…” cũng không nằm ngoài quy luật ấy, nên nó là CHÂN ĐẾ.
Trong giáo pháp của đức Phật, chữ: không, vô thường được dùng nhiều và cũng dễ bị hiểu lầm ngay cả trong thời Phật tại thế, đừng nói gì đến thời đại văn minh thế kỷ 21 bây giờ. Trước hết chữ “không” này cần được hiểu trong giáo lý Duyên sinh, còn vô thường là mọi sự mọi vật luôn biến đổi nên hết thảy đều không có tự tính riêng biệt. Sở dĩ nó tồn tại vì phụ thuộc nhiều yếu tố, gọi là duyên. Ngay cả con người đang sống đấy, nhưng dưới con mắt duyên sinh gọi là sống gá, tạm thời thôi. Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn hiểu rõ điều ấy mới đưa vào ca từ của ông : “Tôi nay ở trọ trần gian…” vì là cõi tạm, là nơi “ở trọ” mà thôi. Thế nên, cả thế giới này cũng … không, chính là cái không của Liễu nghĩa, là sự thật tuyệt đối.

Sự học hiểu cũng vậy: từ thấp lên cao, từ cạn vào sâu; rồi cuối cùng là … để gió cuốn đi - là giải thoát các tri kiến là liễu ngộ: thấy được cái tuyệt đối. Còn như đặt cho nó một cái “danh” TỤC và CHÂN là nhằm phân biệt khi quán chiếu, thấy được thực tướng của các Pháp mà thôi.

THỨ BA: Y NGHĨA BẤT Y NGỮ

Nghĩa là: Căn cứ vào nghĩa lý chứ không hẳn là câu chữ. Đừng mắc kẹt vào câu chữ, ngôn từ; chỉ coi nó là phương tiện để đánh thức tuệ giác chứ nó không phải là tuệ giác, là ngón tay chỉ trăng chứ không phải vầng trăng. Bình chú đấy, kệ tụng đấy… nhưng vẫn vô ngôn, vẫn trực chỉ chân tâm, vẫn giáo ngoại biệt truyền, vẫn bất lập văn tự đối với ngôn ngữ, về ngôn ngữ. Vẫn biết chữ - không phải là không dùng, không tạo lập. Xây dựng ngôn từ, hoặc hiểu theo kiểu “ý tại ngôn ngoại”, chấp nhận nó ở cấp TỤC ĐẾ. Ngay cả kim ngôn của đức Phật, Ngài cũng bảo: Đừng vội tin chỉ vì tôn kính Ngài. Ngài muốn chỉ sau khi thực sự sống và thấy nó an lạchạnh phúc thì hãy tin theo lời chỉ dạy ấy. Lời dạy có tinh thần phê phán này là khởi điểm khai mở tuệ giác cho mỗi cá nhân con người chúng taThi hào Nguyễn Du quan niệm: “Linh văn bất tại ngữ ngôn khoa” - Cái hay trong ngôn từ, câu chữ đều vượt thoát mọi ràng buộc, đó là siêu ngữ nghĩa: mượn lời để tỏ ý - được ý thì quên lời. Chả vậy mà văn hào Nhật Bản Kawabata Yasunari (1899 - 1972) giải NOBEL văn chương 1968 từng nói: “Kinh Phật là tác phẩm văn chương vĩ đại nhất của nhân loại”.
Như đã dẫn - dẫu có Bất y ngữ, tức không nương tựa vào ngôn ngữ, nhưng cũng không thể bỏ TỤC về CHÂN được, mà phải nương tựa “ngữ” để sáng tỏ “nghĩa”. Lời kinh cũng là chân lý ảnh tượng mà chất liệu là ngôn ngữý niệm để người học, người tu thấy được bản chất trực tiếp từ kinh nghiệm người khác. Giáo dục Phật giáo là giáo dục đánh thứcĐánh thức hạt giống Phật còn đang ngủ vùi trong vô minh tham, sân, si. Giáo dục Phật giáo hoàn toàn không phải là nhồi nhét kiến thức hay một sự áp đặt nào.

THỨ TƯ: Y TRÍ BẤT Y THỨC

Nghĩa là: Nương tựa vào trí tuệ mà không nương tựa vào kiến thứcTrí tuệ thường được xem như một danh từ chung, nhưng thực ra, giữa trí và tuệ có đôi chút khác biệt, mặc dù nó liên quan mật thiết với nhau nhiều khi được sử dụng lẫn lộn tùy theo ngữ cảnh. Và hơn hết, Phật giáo luôn chú trọng và đề cao trí tuệ, hiểu theo nghĩa tri thức, nhất là những tri thức liên quan đến nguyên nhân của những nỗi khổ đau và cách thức vượt thoát nỗi khổ đau đó. Hiện thực cuộc đời luôn cần đến tri thức là vậy!
Trí, được phân ra nhiều loại: Chính trítà tríthế gian trínhất thiết trí… mà nghĩa thông thường của trí là năng lực nhận thức của con người đối với các sự vật và hiện tượng, khả năng phân biệt và đoán định được phải trái, đúng sai, chính tà. Vì có sự phân biệt tính đếm nên nó quyết đoán. Thế nên, đạt tới sự tướng hữu vi gọi là trí.

TUỆ - Đó là sự thông tỏ mà không còn phân biệt tính đếm. Tuệ - là một khái niệm trung tâm của Phật giáo, chỉ cho năng lực nhận thức không phải do suy luận hay khảo nghiệm mà có; là khả năng trực nhận ra thực tướng của sự vật và hiện tượng. Trong Luận Duy thức - quyển 9, nói: “Quán trong cảnh được mất đều là không thì chỉ có TUỆ mới đạt được, mới quyết định được”.

Tóm lạiLiễu biệt sự tướng trên phương diện hữu vi gọi là Trí. Thông đạt tính không thực tướng của vạn pháp gọi là Tuệ. Tuệ ở đây đồng nghĩa với Bát nhã với Giác ngộ. Khi nói, đạo Phật là đạo của trí tuệ, chính là trí tuệ được xét trên phương diện này.

Vì thế muốn tìm cầu trí tuệ bằng con đường này, chúng ta phải tự thân khảo nghiệm trong quá trình tu chứng của mình. Do vậy, chỉ có Y TRÍ, tuệ giác mới phát sinh, tức cái thấy khách quan được thông tỏ tận cùng; ở đó không có tham, sân, si bởi nó là thật tướng, tức CHÂN TƯỚNG. Cho nên nó đáng là chỗ được nương tựa, y cứ để học hiểu tăng ích trí tuệ. Còn “Bất y thức” tức không nương tựa vào kiến thức hoặc đối tượng của nhận thức.

Như ta biết, chức năng của Thức là sự phân biệt, phân tích, phân loại được thông qua các giác quan: Mắt, tai, mũi… gọi là Lục căn. Chữ “căn” là gốc, sáu cái gốc làm trung gian của suy luận và khái  niệm nên đương nhiên nó hàm chứa tham, sân, si - có tính chủ quan của cái ngã, cái tôi. Nó khác với trí tuệ là trực giác, khách quan nên không còn cái tôi, không hàm chứa tam độc tham sân si.

Tóm lại - trong giáo pháp Tứ yđức Phật đã đưa ra 4 cặp phạm trù, trong mỗi cặp có 2 đối tượng để tìm hiểu đó là “y”, tức sự nương tựa; và “bất y”, không nương tựa y cứ vào đó. Nhưng cả hai đều có tính căn bản nên được gọi là NHỊ ĐẾ. Và cũng từ sự “bất khả phân” này gợi  nhắc chúng ta về sự tu của chính mình. Đó là tu trong Ngũ uẩn, cũng gọi là Ngũ ấmNgũ uẩn chứa tham sân si luôn ngăn che sự tu. Nhưng cũng từ sự ngăn che của ngũ uẩn mà vọt lên, thăng hoa trí tuệ như hoa sen thơm ngát từ bùn lầy tỏa hương sắc cho đời. Tổ Thiền Bồ đề Đạt Ma bảo: phiền não là hột giống bồ đề. Cũng vậy: Khi cuộc đời còn bất ổn, khổ đau con người mới khởi tâm tu để thoát khổ được vui. Từ thị phi cuộc đời, từ ngũ uẩn ngăn che ta mới bước vào chính định. Bắt đầu chúng ta tu Tam tuệ và Văn - Tư - Tu. Tức lắng nghe, suy nghĩ rồi sau đó tự sửa mình. Rồi từ đó mới bước tiếp để tu Tam vô hậu học là tu giới, tu định và tu tuệ, là ba môn học căn bản trong đạo Phật. Muốn vậy phải từng bước thực tập sự nương tựa trong Giáo pháp tứ y mà đức Phật đã cặn kẽ chỉ bày.

Hãy tinh tiến!

Pháp Vương Tử
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12344)
Không biết tự bao giờ những câu nói dân dã quen thuộc của ba, của mẹ, của bà con hàng xóm vất vả tảo tần với cây lúa của khoai đã in sâu trong suy nghĩtâm thức của tôi
(Xem: 11841)
Việc Sầm Hoa dịch từ “tự viện” thành “chùa”, và lược dịch “Ấn Độ giáo cao cấp tăng lữ” thành “cao tăng” tức là đã có chủ ý nhắm đến đạo Phật, muốn bôi nhọ chư Tăng.
(Xem: 10784)
Những khám phá độc đáo và những lời dạy về sự giác ngộ đã trở nên gần gũi hơn qua việc thực hành tôn giáo, với khái niệm lúc ban đầu về Phật giáo đang tiến triển dần...
(Xem: 11279)
Con đường mà mỗi người phải trải qua quả thật đầy rẫy những chướng ngại, hoang mang và lầm lẫn. Vì thế phải cần có một vị thầy đích thật...
(Xem: 12337)
Trí Hải đã vượt suối trèo non tìm lên chùa Từ Vân trên núi Ngọc Trảng, phía Tây núi Kim Phụng, đến gặp thiền sư Trúc Lâm...
(Xem: 10376)
Diễm phúc sao trong phút cuối trong một đời kẻ vô nghì như tôi với quá nhiều tội lỗi lại được Hoà Thượng trụ trì ngồi niệm hồng danh Phật tiếp dẫn.
(Xem: 11542)
Hạnh phúc của con người không đến từ sự thù hận, tức giận cho nên sự trang trải tình thương trong cuộc sống xã hội là điều cần thiết nhất để hóa giải sự xung đột.
(Xem: 10919)
Xin nhớ rằng: chính nhờ những trải nghiệm khổ đau chúng ta mới đánh giá đúng đắn và hiểu thấu giá trị đích thực của hạnh phúcan lạc...
(Xem: 10687)
Thường hay tự nhủ rằng: Mình không có được cái diễm phúc sanh nhằm thời có Phật, nhưng được nghe Pháp Phật; được gặp người bạn đồng tu và được làm thân người.
(Xem: 10134)
Thiện tâm không chấp nhận máu đổ để chiến thắng nên ăn chay, không giết hại muôn loài là giải nghiệp sát sanh.
(Xem: 11484)
Những năm trước, hai gốc tùng trước sân như hai đứa trẻ, dáng điệu miệt mài trong cơn gió hiu hắt của mùa thu. Quanh năm suốt tháng, không một lời qua lại...
(Xem: 10259)
Đức Phật không phải là quan tòa để phán xử và tự cho mình có quyền phép để đưa người này vào Thiên Đàng hay đẩy người kia xuống Hỏa Ngục.
(Xem: 11164)
Tôi hát cho mẹ bài Năm Uẩn Chẳng Là Ta phổ nhạc từ Bát Nhã Tâm Kinh. Mắt mẹ vẫn nhắm chặt, hơi thở lên xuống đều đặn.
(Xem: 12733)
Cuộc tu là một chiến trận, binh lực phải được vận dụng để đối phó với những gì thật sự là đối phương, chẳng để nhằm vào những khóm lau bụi cỏ để hái hoa bắt bướm.
(Xem: 11089)
Ðối với đạo Phật, cái chính là tinh thần từ bi bình đẳng. Từ bi bình đẳng là một trong những đặc điểm nổi bật và quan trọng nhất trong Phật Giáo.
(Xem: 12013)
Sự khác biệt của mọi vật là do nghiệp riêng của chúng, chứ bản chất chúng vẫn là Chân Như. Như sóng sanh khởi từ đại dương, biến thành một làn sóng di động...
(Xem: 12030)
Một chậu quỳnh hoa có nhiều nụ là tin tức được mọi người đón chờ. Chậu hoa được đặt gần bên chánh điện, món quà sang nhất của thiền viện...
(Xem: 10512)
Tháng 8, đất trời hân hoan chào đón những đợt nắng mới, nô nức và nồng nhiệt như cảnh đồng loại đang nô đùa ngoài bể xa.
(Xem: 10943)
Khi đời sống nội tâm của bạn được lành mạnh, sung túc thì cuộc sống bên ngoài cũng sẽ ảnh hưởng theo và ngày càng trở nên phong phú.
(Xem: 10570)
Thực ra, tên gọi và hình thức món chay sẽ không là gì nếu ta không quá xem trọng nó. Mọi vật sẽ trở nên bình thường như những món quà hương vị của cuộc sống...
(Xem: 13557)
Thật vậy, luôn có một sự tương quan chặt chẽ giữa lòng vị thahạnh phúc. Nhiều công trình nghiên cứu còn cho thấy là hành động cho mang lại nhiều xúc động tốt đẹp hơn...
(Xem: 11259)
Thủy vừa nói vừa đưa mắt nhìn ra xa. Đôi mắt đen láy đượm buồn. Trong nhà Thủy là người giống mẹ hơn cả, đặc biệt là đôi mắt.
(Xem: 10601)
Vậy, Tiểu Sư Phụ đi đâu? Cô bé hỏi. Nhìn đôi mắt thủy sắc, tôi trả lời - trả lời với chính mình, đi đâu à? Tôi cũng hỏi câu này nhiều lắm rồi.
(Xem: 10466)
Ca ngợi con ngườihoa sen không chỉ là tôn vinh sự chiến thắng vinh quang sau cùng của chúng, mà còn là ca ngợi sự kiên nhẫn, chịu đựng, gian khổ khó khăn...
(Xem: 12735)
Không ai có thể biết trước những gì sẽ xảy ra vào ngày mai... Thế nhưng ta vẫn có một niềm tin... Vậy thì hãy hành xử một cách tốt đẹp nhất và không hối tiếc gì cả.
(Xem: 11686)
Tôi tự nghĩ hóa ra khủng hoảng kinh tế cũng là những gì liên hệ đến xúc cảm. Tôi nghĩ rằng người ta dung túng quá đáng các thứ xúc cảm tàn phá, chẳng hạn như sự tham lam...
(Xem: 15089)
Tôi cảm thấy rằng những hệ thống không thực tế do con người tạo ra cuối cùng sẽ trở lại trong cung cách nhân bản tự nhiên. Chúng tôi yêu mến tự do.
(Xem: 16344)
Tiết Vu Lan bâng khuân nhớ Cha công dưỡng dục, mùa Báo hiếu bùi ngùi thương Mẹ đức cù lao... Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 11855)
Ta hiện hữuhiện hữu với cha mẹ, với thầy, với bạn. Ta hiện hữuhiện hữu với con người, với muôn loài và với thiên nhiên. Không có cha mẹ thì sẽ không bao giờ có ta.
(Xem: 11685)
Không biết tự bao giờ, hình ảnh cái hàng rào quê bình dị, thân thương gắn liền với tuổi thơ nhọc nhằn nhưng cũng nhiều niềm vui đã in sâu trong tâm thức của tôi.
(Xem: 14070)
Như một vị Đạt Lai Lạt Ma đầu tiên du hành sang phương Tây, ngài cũng đã ca tụng những đạo đức bất bạo động đến hàng triệu người...
(Xem: 12221)
Con thuyền sau những tháng năm đưa khách qua sông, rồi đỗ mục ở bến sông đời lặng lẽ… Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 13753)
Điều cần thiết, trước nhất, là xóa tan cội rễ của những cảm xúc tiêu cực, của phiền não, tiêu trừ chính nguồn gốc của sân hậnthù oán.
(Xem: 12173)
Nắng đã biến thành là thứ tâm linh vô giá, che chở cho đời, cho con người, như bàn tay của Bồ tát Quán Thế Âm, đem niềm vui hạnh phúc cho nhân loại.
(Xem: 11623)
phải chăng sau cánh cửa hẹp là phương trời phóng khoáng, sau ưu phiềnan lạc thảnh thơi, sau bất hạnhhạnh phúc ngọt ngào…
(Xem: 13230)
Theo sự nghiên cứu, chúng tôi không hề thấy có việc đốt vàng mã cúng tế người chết được ghi trong tam tạng kinh điển của nhà Phật.
(Xem: 14348)
Tôi nghĩ con người phải mang theo tâm linh của họ - - và sự đấu tranh của họ. Và tôi nghĩ có thể là một phương pháp bất bạo động.
(Xem: 11869)
Chư Tăng sống có mục đích công ích thì quần chúng sẽ không xa rời đạo Phật; chư Tăngquần chúng đều hướng vào tâm linhcông ích xã hội...
(Xem: 12558)
Giáo lý của Đức Phật bao gồm hai mặt của một thực tại, đệ Nhất nghĩa đế thuộc bình diện siêu việtđệ nhị nghĩa đế thuộc về thế giới hiện tượng.
(Xem: 12185)
Chức năng chính của chùa chiền tự viện là hoằng duơng Phật pháp, thực tập lời Phật dạy và tổ chức các hoạt động có tính giáo dục chứ không chỉ là du lịch mà thôi.
(Xem: 12065)
Để có cái nhìn sâu sắc và thấu triệt được mọi vấn đề của cuộc sống, bạn chỉ cần lặng lẽ quan sát thân tâm mình và hoàn cảnh đương tại một cách rõ ràng, khách quan...
(Xem: 11655)
Trong một kiếp người ta có vật chất ta cũng không thể mang theo lúc chết, không có gì là của mình ngoài nghiệp, điều lành, phước báu mình đã tạo.
(Xem: 11488)
Ngày mới vào lớp một, ngày đó lớp một nhỏ nhất, không có mầm chồi lá như bây giờ, tôi đã có một người bạn. Khá thân. Hắn thương tôi lạ.
(Xem: 11504)
Ở khía cạnh tu học thì những người bạn đạo hoặc huynh đệ đồng tu chính là người thầy của mình, bởi sự tu tập và những kiến giải của họ...
(Xem: 11405)
Đây là cuộc lễ kéo dài nhiều ngày nhất và quan trọng nhất, vì, ngoài lễ cầu hòa bình, còn kèm chúc mừng sinh nhật và truyền quán đỉnh đặc biệt.
(Xem: 13314)
Tôi xem thật là quan trọng để có một đời sống hạnh phúc. Cội nguồn chính của hạnh phúc là trong chính chúng ta.
(Xem: 11690)
Cho đến nay tư tưởng Phật Giáo đã thấm nhuần trong tâm hồn Dân Tộc Việt Nam thành một khối keo sơn khó phai mờ và lay chuyển...
(Xem: 13393)
Ngược dòng thời gian, cách đây cả 2300 năm, Trung quốc là nước đã biết trồng dâu nuôi tầm, lấy kén ươm tơ dệt lụa... Lê Chương
(Xem: 11877)
Những hình ảnh về các sinh hoạt lễ hội của chùa và đình vẫn còn in đậm trong ký ức tôi cho đến ngày nay... Huỳnh Kim Quang
(Xem: 13706)
Vườn tâm hoa tuệ của những câu chuyện đầy yêu thương sẽ được theo những bước chân của mình trên những vấn đề của cuộc sống nơi xứ người để mang lên sẻ chia...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant