Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Bố Thí Mà Không Thấy Người Bố Thí

03 Tháng Mười Một 202213:35(Xem: 2134)
Bố Thí Mà Không Thấy Người Bố Thí
Bố Thí Mà Không Thấy Người Bố Thí

Tuệ Nguyệt
 Huệ Tường


Cuộc Đời Của Đức Phật.jgp

Hạnh “bố thí” là một trong sáu hạnh của Bồ-tát làm phương tiện đưa đạo vào đời, đem lại niềm vui và xoa dịu nỗi đau của chúng sanh.

Theo Từ điển Phật học Huệ Quang: “Bố là lấy của cải của mình phân phát cho người khác; thí là đem lòng của mình lo lắng cho mọi người” [1, tr.570]. “Bố thí” đơn giản là mở lòng ra đối với mọi người xung quanh, là điều kiện tất yếu vượt qua tập khí tham chấp, khổ đau. “Bố thí” có ba loại: tài thípháp thí và vô úy thíTu tập hạnh bố thí thì diệt trừ được lòng tham lamích kỷthể nhập tánh đại bi bình đẳng, đem lại ấm no cho chúng sanh, không còn buồn lo, sợ hãi.

Hành hạnh “bố thí” tuy nghe dễ tức là có tiền, có của cải thì bố thí. Nhưng làm thế nào “bố thí mà không thấy người bố thí” tức không an trụ vào “bố thí”, đạt đến cái “tánh không”. Trong kinh Kim cang, Đức Phật dạy: “Thiện Hiện, đối với các pháp, Bồ-tát không nên trú ở đâu cả mà làm bố thí. Không ở nơi sắc mà làm bố thí, không ở nơi thanh, hương, vị, xúc, pháp mà làm bố thíTrưởng lão Thiện Hiện, Bồ-tát hãy nên bố thí như thế: không ở đâu cả. Tại sao như vậy, vì nếu Bồ-tát không ở đâu cả mà bố thí thì được phước đức không thể lường được” [2, tr.23-24].

Vậy làm thế nào để bố thí mà không trụ trong sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp? Hoạt động của Bồ-tát chủ yếu là độ thoát chúng sanh, nhờ nhận thức sự thật của vạn pháp, không còn bị che lấp bởi tự ngã, không bị che phủ bởi u mê. Cho nên khi hành “bố thí” không đặt cái tâm mình vào vật mình cho, không dựa vào sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp đó là lục trần bao hàm lục căn và tương quan lục thức. Đây chính là “bất trụ ư sự” là cái thấy “tánh không” sống trong “tánh không” và hành bố thí cũng chẳng rời “tánh không”.

Mặt khác, “bố thí hạnh” cần phải hành bốn vô lượng tâm, tiếp đến là hành bốn nhiếp sự và cuối cùng là hành sáu ba-la-mật. Mục đích “bố thí” của kinh điển Nguyên thủy, phá trừ tâm tham lam, tánh bo bo, ích kỷ của cá nhân, để thoát khỏi cảnh nghèo khổ, đói kém ở đời sau.

Đến Đại thừa Phật giáo “bố thí” liên kết với “đại bi tâm” đưa chúng sanh giác ngộ giải thoát. Đối với bốn tâm vô lượng đó chính là tình thương mà đặc biệt tình thương này là tình thương của người mẹ đối với con. Cũng vậy, từ tâm của người hành “bố thí” giống như tình thương của người mẹ nuôi con, khi con lớn rồi còn để lại gia tài cho con, mong muốn cuộc sống của con về sau được hạnh phúc.

Tiếp đến là bi tâm, thấy cái khổ của người khác như cái khổ của mình, đó chính là tâm xúc động, tâm đại bi, tâm rung động đến cái khổ của người khác và muốn cho họ bớt khổ, muốn thay họ chịu khổ, cho đến tâm hỷ tâm xả cũng như vậy. Người hành bốn vô lượng tâm này thuần túy như rải tâm từ, từ thấp đến cao.

Trước tiên là rải tâm từ cho người thân sau rồi đến người sơ, đấy chính là nhân cách rộng tình thương. Đối với bốn nhiếp sự: bố thíái ngữ; lợi hành và đồng sự, bốn sự nhiếp này là mô thức, phương tiện tốt đẹp giúp cho đời sống tập thể đoàn kết hơn. Đồng thời bốn nhiếp sự này chính là cầu nối thực hành sáu ba-la-mật thành tựu. Mà ba-la-mật là tánh chất của những nhân vật phi thường nó xuất phát từ trí tuệ và lời nói của người thấy và biết. “Này Sumedha, nếu người muốn chứng đắc đạo quả tuệ và nhất thiết trí thì trước tiên người nên thường xuyên an trú trong pháp bố thí ba-la-mật và nỗ lực thực hành viên mãn pháp ấy” [6, tr.82].

“Bố thí ba-la-mật” là pháp quên mình trong hạnh bố thí. Tức “bố thí” với tâm niệm vô ngã, vô nhơn, vô chúng sanhvô thọ giả. “Bố thí” không để tâm vướng vào “tôi”, của “tôi”, tức là đình chỉ mọi vọng niệm về một bản ngã cố hữu, không chấp trước vào thân ngũ uẩn này. Mà thân ngũ uẩn này vốn không thì không mong cầu báo ân, đó là thí không. Người bố thí đã không thật thì làm sao có thật người nhận bố thí và vật dùng để thí cũng không, do đó không sanh tâm kiêu mạntham lamhối tiếc. “Bố thí” mà chấp trước thì phước đức hữu lậu nhưng “bố thí” không chấp trước thì phước đức không thể nghĩ bàn.

Hành “bố thí ba-la-mật tùy theo cơ duyêntùy theo đối tượng, tùy theo tâm niệm của mỗi loại chúng sanh riêng biệt. Đây chính là phẩm tính của Bồ-tát đó là “trí tuệ” (prajnà). Lòng từ bi rất quan trọng, nếu như từ bi càng lớn, càng mạnh mẽ thì sự hy sinh càng cao. Nhưng từ bi phải đi đôi với trí tuệtừ bi (maitreya) và trí tuệ (prajnà) giống như đôi cánh của con chim, nếu thiếu một trong hai cánh thì chim không bay được.

Cũng vậy, từ bi và trí tuệ là hai phẩm tính không thể thiếu đối với người hành Bồ-tát đạo. Bố thí đạt đến “không tánh” nên đi giữa từ bi và trí tuệ không thiên lệch bên nào cả, cho nên cả hai cùng song song tồn tại, như Edward Conze nói: “Bồ-tát là một tổng hợp của hai lực mâu thuẫn, đó là trí tuệ và từ bi. Trong trí tuệ của ngài, ngài không thấy người nào; trong từ bi của ngài, ngài quả quyết cứu vớt tất cả. Khả năng phối hợp những thái độ mâu thuẫn này là nguồn gốc của sự vĩ đại, là khả năng tự độ và độ tha” [5, tr.224].

Qua đó cho thấy từ bi và trí tuệ tuy hai mà một, nhờ có trí tuệ mà Bồ-tát thể nhập “tánh không”, và cũng nhờ thể nhập “tánh không” mà đại bi tâm của Bồ-tát tăng trưởngVì vậy có thể nói: “Từ bi trí tuệ bát-nhã mà phát sinh ra đại từ đại bi của chư Phật”.

“Bố thí mà không thấy người bố thí” là “bố thí” rốt ráo, là sự thấu suốt bản tánh của các pháp, các hiện tượng là “vô tự tánh”, “tánh không”. “Tánh không” ở đây, là quá trình thực hành bố thícho đến hành động tự tại và thành tựu kết quả ấy. “Tự tại” nghĩa là hiểu rõ vạn pháp giai không, nhờ giác ngộ như vậy mà thấy gốc khổ đau và con đường thoát khổ đau xa lìa tham ái và chấp trước ngũ uẩn.

“Tự tại” là không chấp trước vào hình sắc tướng mạokhông chấp vào âm thanh nghe thấy, không chấp trước vào mùi hương, không để ý đến vị ngon dở và cũng chẳng có sự phân biệt lớn nhỏ nặng nhẹ và chẳng còn niệm chấp trước pháp. Bố thí như vậy là thông đạt “tánh không” không trú vào tất cả vạn pháp , tránh xa chấp trước. Cho nên Nhân Trung luận viết: “người bố thí, người nhận bố thí và vật bố thí đều là đại tính không, nếu an trú trong cảnh giới như vậy mà hành trì bố thí, thì đó chính là bố thí ba-la-mật đích thực, là tối cứu cánh”.

“Bố thí mà không thấy người bố thí” nghĩa là “không trú tướng cũng không xả tướng” [3, tr.257]. Tướng ở đây chỉ cho người cho, người nhận và vật cho là mục đích và quả báo. Nếu như trú tướng tức chấp có, mà xả tướng thì chấp không, mà hồi hướng “bố thí” như vậy thì không đúng với tâm lý và mục đích của hồi hướng bố thí.

“Bố thí” không còn ở nghĩa làm ơn cho người khác mà còn diệt trừ xan tham nơi tự thân và chấp chặt ngã, ngã sở. Mà “bố thí” là con đường hành Bồ-tát đạo luôn lấy an lạc chúng sanh làm đối tượng, là nền tảng của sự tỉnh thức“lòng từ bi rộng lớn” và là yếu tố không thể thiếu để liễu hội “tánh không”.

Trên đây tuy nói từ “bố thí độ”, nhưng thực tế thì lục độ đều hành trì. Như vậy: “với sự bố thí về tài sản mà bố thí ba-la-mật được thành tựu, với sự bố thí về vô úy mà giới ba-la-mật và nhẫn ba-la-mật được thành tựu và với sự bố thí về pháp mà tinh tấn ba-la-mật, định ba-la-mật và trí tuệ ba-la-mật được thành tựu” [4, tr.87].

Thật vậy, đối với người con Phật dù xuất gia hay tại gia muốn thành tựu trí tuệ cứu cánhgiác ngộ giải thoát thì phải trải qua quá trình thành tựu “bố thí” thanh tịnh đúng pháp “tam luân không tịch”. Đặc biệt, đối với người xuất gia ngoài việc cứu tế vật chất (tài thí), dũng cảm đối mặt với khó khăn của cuộc đời, không lo âuphiền muộn (vô úy thí), thì hành giả phải ban phát cho mọi người những bữa ăn đầy dưỡng chất pháp vị (pháp thí), độ thoát chúng sanh thoát ly sanh tửliễu ngộ được thật tướng của vạn pháp, làm nhu nhuyến tâm ý, dễ thích ứng với các thiện pháp.

Tuệ Nguyệt

(Huệ Tường, học viên cao học Phật học khóa I

Học viện Phật giáo VN tại Huế)

____________________________

Tài liệu tham khảo:

1. Thích Minh Cảnh (chủ biên), Từ điển Phật học Huệ Quang, tập 3, 4, Nxb.Tổng Hợp TP.HCM.

2. Tỷ-kheo Trí Quang dịch (2012), Kinh Kim cang, Nxb.Tổng Hợp TP.Hồ Chí Minh.

3. Trưởng lão Tỷ-kheo Trí Quang dịch (2017), Kinh Ánh sáng hoàng kim, Nxb.Hồng Đức.

4. Tuệ Sỹ (2018), Thắng Man giảng luận, Nxb.Hồng Đức.

5. Edward Conze, Chân Pháp Nguyễn Hữu Hiệu dịch (1970), Tinh hoa và sự phát triển của đạo PhậtBan Tu thư Đại học Vạn Hạnh xuất bản, Sài Gòn.

6. Mingun Sayadaw, Tỳ-khưu Minh Huệ biên dịch (2018), Đại Phật sử, tập 1.A, Nxb.Hồng Đức.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 15614)
Mấy hôm nay, trời bắt đầu sang thu, thời tiết đã dần dần dịu lại, không khí mỗi lúc trở nên mát mẻ. Chỉ còn độ mươi ngày nữa thôi là đến ngày Lễ Vu Lan rồi.
(Xem: 17863)
Thử hình dung vào một ngày giữa năm Canh Dần 1920, Người đau nặng và trời nổi gió. Bên ngoài sấm rền, còn bên gối thì Người lấy ngón tay gõ nhịp...
(Xem: 13303)
Muốn hạnh phúc, mục tiêu chính của chúng ta là phải chiến đấu với những cảm xúc khổ đau này. Chúng ta chỉ có thể đạt được hạnh phúc khi chúng ta quyết tâmnỗ lực tu tập...
(Xem: 12160)
Trên con phố đìu hiu, buông rơi tình, mỏi mòn thả dài xuống làn sợi tóc sương ngon ngọt, thấm da buốt thịt, vì áo xanh tơ trời đã mòn mỏng theo năm tháng, không đủ để chở qua cơn giá lạnh...
(Xem: 14183)
Hành tung của chư vị Bồ Tát, mang nhục thân thị hiện cõi Ta bà, hóa độ chúng sanh, bằng cái nhìn bình thường của con người không thể nào biết được.
(Xem: 13832)
Vanga sinh ngày 31/1/1911, mất ngày 11/8/1996. Bà sống ẩn dật cả đời ở vùng hẻo lánh Kozhuth thuộc Petrich, Bungary. Vanga mất thị lực năm 12 tuổi...
(Xem: 13702)
Một ngày mùa đông năm Dân quốc thứ 25, trên tòa giảng trong chùa Cổ Lâm tại Nam Kinh, Hòa thượng Tuệ Học đang giảng kinh “Bát Đại Nhân Giác”.
(Xem: 14462)
Trên bàn thờ Phật hương tàn đã lâu. Hai cây nến đỏ cháy cũng gần hết. Ánh sáng lung linh mờ ảo trên mặt tượng Phật. Ẩn hiện nét cười hiền, siêu thoát.
(Xem: 16408)
Bố mẹ đi làm về. Bé gái miệng rất tươi: "Con chào bố mẹ ạ. Bố mẹ chào ông đi chứ?" Bố mẹ của bé lẳng lặng đi lên lầu.
(Xem: 21013)
Ngày còn nhỏ, tôi thường nghe dì dượng kể về chuyện tình của họ. Một tình yêu thật đẹp được tô điểm bằng những tình khúc của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn...
(Xem: 22171)
Tiến trình lịch nghiệm của con người được trải dài theo từng tiếng khóc, tiếng cười tự thủa nằm nôi. Ai trong chúng ta không có tiếng khóc đầu đời, nụ cười măng sữa?
(Xem: 12824)
MỤC NGƯU ĐỔ là tranh chăn trâu. Tranh ra đời tự triều đại nào, dưới ngọn bút lông nào, khó mà tra cứu cho đích xác được.
(Xem: 13658)
Tôi sinh ra dưới một mái chùa. Nghe kể rằng sư phụ tôi khi ấy còn trẻ, một hôm đi ngang bỗng động tâm hỏi: "Mô Phật, sao sau chùa lại phơi tã lót?"
(Xem: 23135)
Thơ thiền là một bộ phận của thơ nói chung. Thơ, dù là thơ thiền, thì cũng không thể đi ra ngoài nguyên lý của nó. Ở Trung Quốc, nguyên lý tối cổ của thơ...
(Xem: 13312)
Tôi sinh ra thì thế chiến II đang hồi kết thúc. Lớn lên chút nữa, khi biết nghe và hiểu, những chuyện vãn người lớn về việc đánh nhau đâu đó...
(Xem: 30174)
Văn hóa học là một ngành khoa học nghiên cứu về văn hóa còn khá non trẻ so với các ngành khoa học khác như triết học, toán học, xã hội học, nhân chủng học...
(Xem: 13514)
Ngày xửa ngày xưa có một cây táo rất to. Một cậu bé rất thích đến chơi với cây táo hàng ngày. Cậu bé rất yêu cây táo...
(Xem: 13245)
Tiếng sẻ gọi nhau trong nắng mai thật quá hiếm giữa những âm thanh rộn ràng khác. Trước mặt nhà của nhà thơ Quách Tấn chúng ta...
(Xem: 12934)
Những ngọn sóng cứ đập vào vách đá, hôm kia, hôm qua, rồi hôm nay cũng vậy. Mà hình như chưa bao giờ ngừng nghỉ, những con sóng cứ lô xô...
(Xem: 12841)
Cứ đúng mười hai giờ trưa chú Tâm Mãn, trịnh trọng trong chiếc áo năm thân màu lam, mang bình bát đựng cơm cúng Phật đặt lên bàn giữa của Tổ đường...
(Xem: 12869)
Sắp Tết đến nơi rồi. Ngồi bên vỉa hè ngập nắng trước ngôi chùa suốt ngày đóng cổng tam quan im ỉm tịch lặng, dì Thanh rơm rớm nước mắt nhìn dòng người ngược xuôi...
(Xem: 14066)
Sau khi thỉnh được 107 tiếng đại hồng chung, chú Tâm Thể dùng cán vồ chuông khẻ điểm hai tiếng keng keng trên lưng chuông để báo hiệu cho sư huynh...
(Xem: 15126)
Hằng năm cứ vào cuối thu, lá ngoài đường rụng nhiều và trên không có những đám mây bàng bạc, lòng tôi lại nao nức những kỷ niệm hoang mang của buổi tựu trường.
(Xem: 22024)
Kinh ThiKinh Dịch như đôi cánh của con chim nhạn mang chở định mệnh lịch sử của Trung Hoa bay lượn suốt mấy mươi thế kỷ trên vòm trời Viễn Đông.
(Xem: 15004)
Từ bộ phim khiến cho người xem liên tưởngso sánh với giáo điều của Phật gia ở nhiều chiều. Đặc biệt bộ phim rất ấn tượng và sâu sắc...
(Xem: 14270)
Một ngày kia, mẹ bất chợt đến thăm. Nhiều năm rồi bà không gặp tôi, thậm chí bà cũng chưa bao giờ nhìn thấy các cháu. Khi thấy một bà già...
(Xem: 19483)
Thiền sư là những vị chuyên tâm hành thiền và thông hiểu thiền định. Thiền là tiến trình tu tập đưa đến giải thoátgiác ngộ...
(Xem: 14170)
Cứ theo truyền thuyết Trung Hoa thì kẻ sanh trước loài người là ông Bàn Cổ làm chúa thiên hạ. Kế đó là vua Thiên Hoàng , Ðịa Hoàng và Nhơn Hoàng...
(Xem: 13311)
Tố Như, đó là trái tim cảm ứng với thiên thu, quán chiếu muôn đời trái tim Bồ Tát. Ðó là ánh sáng soi thấu vạn tượng, cảm chiếu chúng sinh.
(Xem: 12708)
Mưa thu rả rích, trời thu ảm đạm một màu, thỉnh thoảng một trận gió ào ào lùa qua khóm lá. Con đường mòn dẫn đến đỉnh núi gập ghềnh, khúc khuỷu...
(Xem: 12812)
Thời Phật Ca Diếp có một vị tỳ kheo trẻ tuổi, xướng tán rất hay. Khi cùng ở chung một chỗ với các vị tỳ kheo khác, thầy hay lộ vẻ kiêu ngạo...
(Xem: 15759)
Đứng bên ngoài khung cổng sắt đã khóa kỹ, Nghi nép vào hàng dậu được kết bằng cây dâm bụt, nhìn vào bóng tối yên lặng đang bao trùm cả tu viện.
(Xem: 12208)
Có người hỏi tôi rằng: “Thưa Thầy, phải sống làm sao cho thoải mái, không bị mọi thứ chi phối mình và phải giải quyết cuộc sống nầy ra sao, khi khổ đau đưa đến?”
(Xem: 13455)
Chùa nằm trên một cồn đất nhỏ bên cạnh dòng sông quanh năm nước lớn. Đêm, nghe tiếng ễnh ương ồm oam hòa với tiếng nước vỗ lên bờ kè đá...
(Xem: 15094)
Nếu như tháp là hình ảnh biểu trưng của Đức Phật vốn mang tính ước lệ, thì tượng lại thuộc dòng chảy nghệ thuật điêu khắc mang tính nhân dạng...
(Xem: 14798)
Người Việt có một câu nói: Mỹ là thiên đường giới trẻ, địa ngục giới già. Nay tôi đã vào cái tuổi giữa 70, câu nói này thật là thấm thía... Ôi, Thấm Thía, Tuổi Già Ở Mỹ ! Nguyễn Đức Nguyên
(Xem: 12378)
Cô gái Việt Nam vô cùng rụt rè xuất hiện trước cửa văn phòng giáo sư Baddley sau tiếng gõ rất khẽ. Anh chàng trợ lý có gương mặt rất sáng...
(Xem: 13863)
Năm ứng thân của đức Phật được 80 tuổi, Ngài đưa A Nan đi hành hóa tới tháp Già Bà La, ở đấy có rất nhiều vị tỳ kheo vân tập.
(Xem: 16391)
Rằm tháng Tư có ba sự kiện quan trọng mà người Phật tử nào cũng biết. Đó là ngày Phật đản sanh, thành đạoniết bàn, gọi chung là ngày lễ Vesak
(Xem: 14570)
Đã tròn một năm con xa quê. Ngày ấy ra đi mưa rơi dầm dề, nước chảy từng dòng len lỏi qua từng ngõ xóm. Ở nơi mới này, con vẫn thường thả bộ...
(Xem: 17531)
Những ý nguyện cuối cùng của ngài Alexander Đại Đế khi sắp chết. Ngài Alexander Đại Đế cho triệu tập các quan trong triều đình...
(Xem: 12958)
Yếu tính của Phật pháp là sự vận hành diệu dụng của từ bitrí tuệ. Cho nên, Phật pháp trước hết là ngôi nhà dưỡng lão, là viện cô nhi, là trại tế bần.
(Xem: 14819)
Anh đã ra đi từ đó, từ thời buổi hỗn mang. Trong từng khoảnh khắc sát na, từng quãng liên tục vi tế của hạt bụi, anh từ chối chính mình.
(Xem: 14584)
Đến tháng 10 khi cây lá ở miền đông bắc Hoa Kỳ đã ngã vàng, người ta thấy ở khắp các thị trấn, thành phố và vùng quê đều có những hình ảnh...
(Xem: 28516)
Việt Nam là một trong những nước ở vùng Đông Nam Á, nhiệt đới gió mùa được thiên nhiên ưu đãi, nên có nhiều loại trái cây độc đáo.
(Xem: 14117)
Theo qui chế nhà chùa, Sa di (danh từ gọi chung cho các chú tiểu) được chia làm hai hạng: hạng thứ nhất, tuổi từ 7 đến 12, gọi là Sa di Khu Ô...
(Xem: 13243)
Ngày của Mẹ, xin tặng một đóa hoa hồng cho những ai còn Mẹ. Và xin tặng một biển hoa hồng cho những ai mất mẹ vì biển hoa hồng ấy như lá rừng lao xao...
(Xem: 13879)
Kể lại câu chuyện tại sao tôi quy-y Phật giáo thì hơi dài và cũng hơi phức tạp, câu chuyện đó có vẻ như một vở tuồng nhiều tình tiết...
(Xem: 10655)
Kinh nghiệm sống là kinh nghiệm đầu tiên và tối cùng của hy vọngthất vọng, của hạnh phúc và khổ đau – ta mơ ước quá nhiều, nên ta khổ đau càng lắm...
(Xem: 14793)
Thuở nhỏ, gia đình cậu bé rất nghèo, tới bữa, chẳng mấy khi có đủ cơm ăn, mẹ liền lấy cơm ở trong chén mình chia đều cho các con.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant