Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Bố Thí Mà Không Thấy Người Bố Thí

03 Tháng Mười Một 202213:35(Xem: 2126)
Bố Thí Mà Không Thấy Người Bố Thí
Bố Thí Mà Không Thấy Người Bố Thí

Tuệ Nguyệt
 Huệ Tường


Cuộc Đời Của Đức Phật.jgp

Hạnh “bố thí” là một trong sáu hạnh của Bồ-tát làm phương tiện đưa đạo vào đời, đem lại niềm vui và xoa dịu nỗi đau của chúng sanh.

Theo Từ điển Phật học Huệ Quang: “Bố là lấy của cải của mình phân phát cho người khác; thí là đem lòng của mình lo lắng cho mọi người” [1, tr.570]. “Bố thí” đơn giản là mở lòng ra đối với mọi người xung quanh, là điều kiện tất yếu vượt qua tập khí tham chấp, khổ đau. “Bố thí” có ba loại: tài thípháp thí và vô úy thíTu tập hạnh bố thí thì diệt trừ được lòng tham lamích kỷthể nhập tánh đại bi bình đẳng, đem lại ấm no cho chúng sanh, không còn buồn lo, sợ hãi.

Hành hạnh “bố thí” tuy nghe dễ tức là có tiền, có của cải thì bố thí. Nhưng làm thế nào “bố thí mà không thấy người bố thí” tức không an trụ vào “bố thí”, đạt đến cái “tánh không”. Trong kinh Kim cang, Đức Phật dạy: “Thiện Hiện, đối với các pháp, Bồ-tát không nên trú ở đâu cả mà làm bố thí. Không ở nơi sắc mà làm bố thí, không ở nơi thanh, hương, vị, xúc, pháp mà làm bố thíTrưởng lão Thiện Hiện, Bồ-tát hãy nên bố thí như thế: không ở đâu cả. Tại sao như vậy, vì nếu Bồ-tát không ở đâu cả mà bố thí thì được phước đức không thể lường được” [2, tr.23-24].

Vậy làm thế nào để bố thí mà không trụ trong sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp? Hoạt động của Bồ-tát chủ yếu là độ thoát chúng sanh, nhờ nhận thức sự thật của vạn pháp, không còn bị che lấp bởi tự ngã, không bị che phủ bởi u mê. Cho nên khi hành “bố thí” không đặt cái tâm mình vào vật mình cho, không dựa vào sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp đó là lục trần bao hàm lục căn và tương quan lục thức. Đây chính là “bất trụ ư sự” là cái thấy “tánh không” sống trong “tánh không” và hành bố thí cũng chẳng rời “tánh không”.

Mặt khác, “bố thí hạnh” cần phải hành bốn vô lượng tâm, tiếp đến là hành bốn nhiếp sự và cuối cùng là hành sáu ba-la-mật. Mục đích “bố thí” của kinh điển Nguyên thủy, phá trừ tâm tham lam, tánh bo bo, ích kỷ của cá nhân, để thoát khỏi cảnh nghèo khổ, đói kém ở đời sau.

Đến Đại thừa Phật giáo “bố thí” liên kết với “đại bi tâm” đưa chúng sanh giác ngộ giải thoát. Đối với bốn tâm vô lượng đó chính là tình thương mà đặc biệt tình thương này là tình thương của người mẹ đối với con. Cũng vậy, từ tâm của người hành “bố thí” giống như tình thương của người mẹ nuôi con, khi con lớn rồi còn để lại gia tài cho con, mong muốn cuộc sống của con về sau được hạnh phúc.

Tiếp đến là bi tâm, thấy cái khổ của người khác như cái khổ của mình, đó chính là tâm xúc động, tâm đại bi, tâm rung động đến cái khổ của người khác và muốn cho họ bớt khổ, muốn thay họ chịu khổ, cho đến tâm hỷ tâm xả cũng như vậy. Người hành bốn vô lượng tâm này thuần túy như rải tâm từ, từ thấp đến cao.

Trước tiên là rải tâm từ cho người thân sau rồi đến người sơ, đấy chính là nhân cách rộng tình thương. Đối với bốn nhiếp sự: bố thíái ngữ; lợi hành và đồng sự, bốn sự nhiếp này là mô thức, phương tiện tốt đẹp giúp cho đời sống tập thể đoàn kết hơn. Đồng thời bốn nhiếp sự này chính là cầu nối thực hành sáu ba-la-mật thành tựu. Mà ba-la-mật là tánh chất của những nhân vật phi thường nó xuất phát từ trí tuệ và lời nói của người thấy và biết. “Này Sumedha, nếu người muốn chứng đắc đạo quả tuệ và nhất thiết trí thì trước tiên người nên thường xuyên an trú trong pháp bố thí ba-la-mật và nỗ lực thực hành viên mãn pháp ấy” [6, tr.82].

“Bố thí ba-la-mật” là pháp quên mình trong hạnh bố thí. Tức “bố thí” với tâm niệm vô ngã, vô nhơn, vô chúng sanhvô thọ giả. “Bố thí” không để tâm vướng vào “tôi”, của “tôi”, tức là đình chỉ mọi vọng niệm về một bản ngã cố hữu, không chấp trước vào thân ngũ uẩn này. Mà thân ngũ uẩn này vốn không thì không mong cầu báo ân, đó là thí không. Người bố thí đã không thật thì làm sao có thật người nhận bố thí và vật dùng để thí cũng không, do đó không sanh tâm kiêu mạntham lamhối tiếc. “Bố thí” mà chấp trước thì phước đức hữu lậu nhưng “bố thí” không chấp trước thì phước đức không thể nghĩ bàn.

Hành “bố thí ba-la-mật tùy theo cơ duyêntùy theo đối tượng, tùy theo tâm niệm của mỗi loại chúng sanh riêng biệt. Đây chính là phẩm tính của Bồ-tát đó là “trí tuệ” (prajnà). Lòng từ bi rất quan trọng, nếu như từ bi càng lớn, càng mạnh mẽ thì sự hy sinh càng cao. Nhưng từ bi phải đi đôi với trí tuệtừ bi (maitreya) và trí tuệ (prajnà) giống như đôi cánh của con chim, nếu thiếu một trong hai cánh thì chim không bay được.

Cũng vậy, từ bi và trí tuệ là hai phẩm tính không thể thiếu đối với người hành Bồ-tát đạo. Bố thí đạt đến “không tánh” nên đi giữa từ bi và trí tuệ không thiên lệch bên nào cả, cho nên cả hai cùng song song tồn tại, như Edward Conze nói: “Bồ-tát là một tổng hợp của hai lực mâu thuẫn, đó là trí tuệ và từ bi. Trong trí tuệ của ngài, ngài không thấy người nào; trong từ bi của ngài, ngài quả quyết cứu vớt tất cả. Khả năng phối hợp những thái độ mâu thuẫn này là nguồn gốc của sự vĩ đại, là khả năng tự độ và độ tha” [5, tr.224].

Qua đó cho thấy từ bi và trí tuệ tuy hai mà một, nhờ có trí tuệ mà Bồ-tát thể nhập “tánh không”, và cũng nhờ thể nhập “tánh không” mà đại bi tâm của Bồ-tát tăng trưởngVì vậy có thể nói: “Từ bi trí tuệ bát-nhã mà phát sinh ra đại từ đại bi của chư Phật”.

“Bố thí mà không thấy người bố thí” là “bố thí” rốt ráo, là sự thấu suốt bản tánh của các pháp, các hiện tượng là “vô tự tánh”, “tánh không”. “Tánh không” ở đây, là quá trình thực hành bố thícho đến hành động tự tại và thành tựu kết quả ấy. “Tự tại” nghĩa là hiểu rõ vạn pháp giai không, nhờ giác ngộ như vậy mà thấy gốc khổ đau và con đường thoát khổ đau xa lìa tham ái và chấp trước ngũ uẩn.

“Tự tại” là không chấp trước vào hình sắc tướng mạokhông chấp vào âm thanh nghe thấy, không chấp trước vào mùi hương, không để ý đến vị ngon dở và cũng chẳng có sự phân biệt lớn nhỏ nặng nhẹ và chẳng còn niệm chấp trước pháp. Bố thí như vậy là thông đạt “tánh không” không trú vào tất cả vạn pháp , tránh xa chấp trước. Cho nên Nhân Trung luận viết: “người bố thí, người nhận bố thí và vật bố thí đều là đại tính không, nếu an trú trong cảnh giới như vậy mà hành trì bố thí, thì đó chính là bố thí ba-la-mật đích thực, là tối cứu cánh”.

“Bố thí mà không thấy người bố thí” nghĩa là “không trú tướng cũng không xả tướng” [3, tr.257]. Tướng ở đây chỉ cho người cho, người nhận và vật cho là mục đích và quả báo. Nếu như trú tướng tức chấp có, mà xả tướng thì chấp không, mà hồi hướng “bố thí” như vậy thì không đúng với tâm lý và mục đích của hồi hướng bố thí.

“Bố thí” không còn ở nghĩa làm ơn cho người khác mà còn diệt trừ xan tham nơi tự thân và chấp chặt ngã, ngã sở. Mà “bố thí” là con đường hành Bồ-tát đạo luôn lấy an lạc chúng sanh làm đối tượng, là nền tảng của sự tỉnh thức“lòng từ bi rộng lớn” và là yếu tố không thể thiếu để liễu hội “tánh không”.

Trên đây tuy nói từ “bố thí độ”, nhưng thực tế thì lục độ đều hành trì. Như vậy: “với sự bố thí về tài sản mà bố thí ba-la-mật được thành tựu, với sự bố thí về vô úy mà giới ba-la-mật và nhẫn ba-la-mật được thành tựu và với sự bố thí về pháp mà tinh tấn ba-la-mật, định ba-la-mật và trí tuệ ba-la-mật được thành tựu” [4, tr.87].

Thật vậy, đối với người con Phật dù xuất gia hay tại gia muốn thành tựu trí tuệ cứu cánhgiác ngộ giải thoát thì phải trải qua quá trình thành tựu “bố thí” thanh tịnh đúng pháp “tam luân không tịch”. Đặc biệt, đối với người xuất gia ngoài việc cứu tế vật chất (tài thí), dũng cảm đối mặt với khó khăn của cuộc đời, không lo âuphiền muộn (vô úy thí), thì hành giả phải ban phát cho mọi người những bữa ăn đầy dưỡng chất pháp vị (pháp thí), độ thoát chúng sanh thoát ly sanh tửliễu ngộ được thật tướng của vạn pháp, làm nhu nhuyến tâm ý, dễ thích ứng với các thiện pháp.

Tuệ Nguyệt

(Huệ Tường, học viên cao học Phật học khóa I

Học viện Phật giáo VN tại Huế)

____________________________

Tài liệu tham khảo:

1. Thích Minh Cảnh (chủ biên), Từ điển Phật học Huệ Quang, tập 3, 4, Nxb.Tổng Hợp TP.HCM.

2. Tỷ-kheo Trí Quang dịch (2012), Kinh Kim cang, Nxb.Tổng Hợp TP.Hồ Chí Minh.

3. Trưởng lão Tỷ-kheo Trí Quang dịch (2017), Kinh Ánh sáng hoàng kim, Nxb.Hồng Đức.

4. Tuệ Sỹ (2018), Thắng Man giảng luận, Nxb.Hồng Đức.

5. Edward Conze, Chân Pháp Nguyễn Hữu Hiệu dịch (1970), Tinh hoa và sự phát triển của đạo PhậtBan Tu thư Đại học Vạn Hạnh xuất bản, Sài Gòn.

6. Mingun Sayadaw, Tỳ-khưu Minh Huệ biên dịch (2018), Đại Phật sử, tập 1.A, Nxb.Hồng Đức.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 2481)
Giáo pháp tứ y trong đạo Phậtgiáo pháp nói về bốn phương pháp thực tập sự nương tựa (y cứ) dẫn đến giác ngộ giải thoát.
(Xem: 2463)
Giáo pháp của Đức Phật tuyên thuyết là một sự trải nghiệm sinh động mang tính ứng dụng rất thiết thực chứ không phải là những giáo thuyết
(Xem: 3054)
Duyên khởi cho bài viết này là từ một bản tin BBC News có nhan đề “Thiền định chánh niệm có thể khiến con người xấu tính đi?”— và từ một số cuộc nghiên cứu khác đã giúp chúng ta có cái nhìn đa diện hơn về Thiền chánh niệm, một pháp môn nhà Phật đang thịnh hành khắp thế giới.
(Xem: 2093)
Mặt trời khi xuất hiệnrạng rỡ, bừng sáng, dứt khoát xóa tan bóng tối để chiếm lĩnh cả không gian của thiên địa càn khôn. Mặt trăng thì không như vậy.
(Xem: 1976)
Từ cạnh tranh sinh tồn giữa các loài sinh vật, cho đến mâu thuẫn xã hội, hận thù tranh chấp, là những nét đặc trưng trong lịch sử tiến hóa, không chỉ riêng loài người.
(Xem: 2289)
Phật tử chúng ta được biết rằng, đã quy y Tam bảothọ trì năm giới ...
(Xem: 2108)
Hơn nửa đời người, hay cả cuộc đời, nếm đủ đắng cay buồn tủi, niềm vui thì khiêm tốn, nỗi buồn quá mênh mông. Chòng chành theo con thuyền thân phận, lúc tàn khoảnh khắc theo cổ máy thời gian, nhìn lại trong rêu phong tĩnh lặng, trên khuôn mặt nhiều nếp chập chùng của ưu phiền, mới hiểu rằng “Ta có đại hoạn do ta có thân. Nếu ta không thân sao có đại hoạn”.
(Xem: 2092)
Khi mà vật chất chi phối cuộc sống, khi mà kinh tế làm chủ đạo nồng cốt kiến trúc xã hội, đạo đức truyền thống dân tộc và nhân cách con người trở thành thứ yếu.
(Xem: 2409)
Đạo Phật nói cuộc đời là biển khổ mênh mông không có ngày thôi dứt, vì nhân loại lúc nào cũng...
(Xem: 2257)
Gần đây một báo cáo Trung tâm nghiên cứu Pew, bể tư duy lớn thứ ba ở Washington, DC, dự đoán rằng một số tôn giáo lớn trên thế giới sẽ mở rộng...
(Xem: 2318)
Sống trong tư duy phân biệt đối đãi ở đời không chuyện gì không phải thị phi (đúng sai).
(Xem: 2393)
Hằng năm vào ngày 28 tháng 6 lần lượt mỗi chùa tại Đức tổ chức sinh nhật cho Hòa Thượng Phương Trượng Tổ đình Viên Giác.
(Xem: 2096)
Từ lâu, trong đời sống an tịnh, mỗi hành giả đều tự biết làm đẹp mình bằng hạnh đầu đà giữ giới.
(Xem: 2229)
Thế giới quan Phật giáo chỉ ra mối quan hệ cơ bản của mọi sự vật hiện tượng là quan hệ nhân quả.
(Xem: 2358)
Ngày nay, thiền định không những được biết đến qua tên tuổi các vị Thiền sư, qua những công án thiền, mà còn thực sự đi sâu vào đời sống tu tập nội tâm của mỗi người.
(Xem: 2277)
Rốt cuộc một mình. Một mình thôi. «Trời cao đất rộng, một mình tôi đi, một mình tôi đi... Đời như vô tận. một mình tôi về, một mình tôi về... với tôi!»
(Xem: 1907)
Bao tao nhân, mặc khách; bao ngôn ngữ của con người đã không tiếc lời ca tụng về Mẹ. Mẹ của tôi. Mẹ của anh. Mẹ của con và Mẹ của tất cả mọi người.
(Xem: 2358)
Tình mẫu tử, một chủ đề quá quen thuộc, không chỉ là mạch nguồn cảm hứng bất tận trong...
(Xem: 2257)
Cứ mỗi độ Vu Lan về, những người con Phật lại nao nao lòng.
(Xem: 2447)
Khi nói đến chữ Hiếu chẳng mấy ai lấy làm xa lạ, vì nó đã trở thành truyền thống rất quen thuộcăn sâu vào tâm trí ngay khi còn bé.
(Xem: 2440)
Khi tu hành được một thời gian, có người thì ngày càng tăng trưởng đạo lực, Giới - Định - Tuệ thêm lớn nhưng ngược lại có người thì suy giảm, thối thất.
(Xem: 2575)
Quán niệm về nhân duyên hình thành đời sống chúng ta, hình thành con người xã hội, hình thành đất nước, và hình thành thế gian. Tất cả cuộc hình thành này đều từ nhân duyên.
(Xem: 2281)
Một buổi sáng, trước tiệm bán hoa, một thanh niên ngừng xe, định vào tiệm đặt mua một chậu lan, gửi tặng sinh nhật mẹ
(Xem: 2076)
Hít vào tâm tỉnh lặng Thở ra miệng mỉm cười An trú trong hiện tại Giây phút đẹp tuyệt vời.
(Xem: 2144)
Trong cuộc sống, khổ đau là điều mà con người không thể tránh được: khổ do tâm, khổ do thân và khổ do hoàn cảnh.
(Xem: 2287)
Kinh Phật chỉ nói lên sự thật để cho mọi người cùng suy xét mà sống sao cho được hạnh phúc an lạc, lợi mình, lợi người.
(Xem: 2120)
Theo truyền thống ở châu Á, thiền địnhgiác ngộlãnh vực của những người xuất gia và người tu luyện yoga
(Xem: 2201)
Mọi người ai cũng biết đạo Phậtđạo trí huệ, từ bi, tôn trọng sự sống của muôn loài.
(Xem: 3709)
“Người ngu nghĩ là ác Khi ác chưa chín muồi Ác nghiệp chín muòi rồi Người ngu chịu khổ đau”
(Xem: 2168)
Sau hơn 2.600 năm hình thành và phát triển, Phật giáo đã có mặt trên 150 quốc gia và vùng lãnh thổ.
(Xem: 2273)
Có người cho rằng có một công việc tốt là lựa chọn của họ trong cuộc sống hạnh phúc.
(Xem: 2740)
Khi gặp chuyện muộn phiền, khó khăn, hay gặp lúc bế tắc, khó xử, người ta thường buột miệng mà nói ra 2 chữ: “Tùy duyên”.
(Xem: 2359)
Xưa nay, hành giả nào chọn cuộc sống tu hành theo chân Phật hướng đến giác ngộ giải thoát, đều phải học những lời Phật dạy, gọi là Pháp học.
(Xem: 2156)
Cuộc sống của con ngườivạn vật chung quanh biến đổi từng giờ từng phút theo không gianthời gian.
(Xem: 2310)
Chúng ta" giống như cây. "Chấp thủ" giống như dây leo. Nếu như ta khao khát được ngắm cảnh, thì cảnh chập chờn quanh mắt ta.
(Xem: 2635)
Nhiều người lấy cái lí "Phật tại tâm" nên không bao giờ đi chùa, lễ Phật, tụng kinh hay tìm hiểu giáo lý.
(Xem: 2272)
Tôi ngồi đây lắng nghe quý thầy cô tụng bài kinh Bát Nhã thật hay.
(Xem: 3141)
Chúng ta không nên quá bận lòng với những việc tốt xấu, đúng sai của thế gian, chỉ cần quản lý tốt
(Xem: 2347)
Sống trong đời, mỗi người nếu khôngthiện tâm nuôi dưỡng thì đời sống sẽ trở nên bức bách; con người sẽ sống mà không có hạnh phúc an lạc.
(Xem: 2112)
Tu căn là một trong những pháp hành quan trọng của giáo pháp Thế Tôn.
(Xem: 2309)
Ajahn Lee Dhammadharo (1907–1961), là thiền sư theo truyền thống tu trong rừng của Phật giáo Thái Lan Nguyên thủy (Thai Forest Tradition).
(Xem: 2608)
Phiền não vô lượng, nghiệp chướng vô cùng nhưng nếu nắm trong tay chìa khóa chánh niệm, tỉnh giác...
(Xem: 2402)
Theo thuật ngữ Phật giáo Tàm – Quý có nghĩa là biết hỗ thẹn, biết liêm sĩ.
(Xem: 2219)
Con người từ khi ra đời đã tồn tại “cá nhân” hay “cái tôi”. Thế nên, rất cần phân biệt “cá nhân hay cái tôi là thực kiện” và “cá nhân hay cái tôi do suy tưởng”.
(Xem: 2040)
Phật giáo, một con đường lý tưởng đi vào lòng dân tộc Việt từ ngàn xưa, trở thành một nếp sống tâm linh thuần thiện và tịnh khiết
(Xem: 1761)
Chúng ta đang sống trong cõi dục, sinh ra từ tham ái nên mọi người, mọi loài trên thế gian này đều chịu kiềm tỏachi phối của dục vọng.
(Xem: 2688)
Trong hàng đệ tử của Đức Phật, có một vị tăng hình dung xấu xí, lùn thấp, không chút nào hảo tướng, nên người mới gặp ...
(Xem: 2282)
Cái chết của những người thân yêunghiệp chướng của tôi hay của họ? Cuộc sống của chúng ta luôn tương tác và phụ thuộc lẫn nhau, và...
(Xem: 2751)
Một người đàn ông ngã bệnh và tìm đến bác sĩ. Vị bác sĩ khám cho bệnh nhân này và sau đó viết cho anh ta một toa thuốc trên một mảnh giấy.
(Xem: 2531)
Vô ưu, Phạn ngữ Asoka, Hán ngữ phiên âm A du ca, A thúc ca, A thuật ca… dịch nghĩa là Vô ưu hoa, hoa không ưu tư phiền muộn.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant