Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phật Giáo Và Sự Bình Đẳng Giới

18 Tháng Mười Một 202209:21(Xem: 2559)
Phật Giáo Và Sự Bình Đẳng Giới

Phật Giáo Và Sự Bình Đẳng Giới

Thích Trung Định

 Phật Giáo Và Sự Bình Đẳng Giới



Bình đẳng
 giới và trao quyền cho phụ nữ hiện đang được xem là yếu tố quan trọng đối với sự tiến bộ kinh tế, xã hội và dân chủ trong thời hiện đạiTuy nhiên tình trạng của phụ nữ còn nhiều bất cập, đa dạng và phức tạp. Trên toàn thế giới, còn có nhiều nơi sự kỳ thị giới tính vẫn đang là vấn đề nghiêm trọng chưa thể giải quyết một sớm một chiều. Một số vùng miền địa dư và tôn giáo còn có những luật lệ khắt khe đối với phụ nữ. Do vậy tiếng nói chân chính về bình đẳng giới cần phải lên tiếngvai trò của nữ giới cần được tôn trọng, làm cho một nửa thế giới có cuộc sống an vui và hạnh phúc và hưởng quyền lợi bình đẳng.

 Nền văn minh và sự tiến bộ của loại người đang tiến đến một sự dung hòa và bình đẳng. Quyền con người ngày càng được nâng caođời sống an sinh xã hội ngày càng được chú trọng thì quyền bình đẳng giới lại càng đề cao hơn bao giờ hết. Tuy nhiên, trong xã hội loài người vẫn còn đó nhiều khuất tất, tiếng nói chân chính về quyền bình đẳng vẫn chưa hoặc không thể đến bởi còn nhiều rào cản, luật lệ và phong tục tập quán. Trong các vấn đề trên thì sự bình đẳng giới trong các tôn giáo đang còn nghiêm trọng, vì niềm tingiáo điều đã tạo nên rào cản lớn khó có thể giải quyết ngay được.

 Trong lịch sử của các tôn giáo, tiếng nói của phụ nữ hiếm khi được nghe thấy. Điều này xảy ra do tính gia trưởng của người đàn ông trong các xã hội trong đó các tôn giáo đã xuất hiện và cuối cùng đã kìm hãm sự thay đổi địa vị của phụ nữ. Các tôn giáo trên thế giới đều đồng ý về sự tôn trọng phụ nữ và vai trò quan trọng của họ trong cuộc sống gia đìnhđặc biệt là nhấn mạnh vào phụ nữ là mẹ và vợ. Tuy nhiên, dường như không phải tất cả đều ủng hộ hay trao quyền theo nghĩa đó. Chúng ta có thể nói một cách tự tin rằng trong nhiều tôn giáo, sự bất bình đẳng giới đã bị ảnh hưởng nghiêm trọng.

Phật giáo không giống như các tôn giáo khác. Vai trò và quyền hạn của phụ nữ được quan tâm một cách thích đáng. Khi chúng ta tìm hiểu lời dạy của Đức Phật về vấn đề bình đẳng giới mới thấy sự quan tâm rất lớn của Ngài đối với phụ nữ. Trong kinh tạng Nguyên Thủy cũng như Đại Thừa đều có đề cập đến vai trò của phụ nữĐặc biệt trong kinh tạng Pali vai trò làm mẹ, làm vợ được đề cập khá nhiều và cụ thểĐức Phật thừa nhận phụ nữ cũng có thể tu hành và đạt được thánh quả như nam giới.

Việc thành lập Ni đoàn tại Vashali, một quốc gia dân chủ cộng hòa thời Đức Phật đã nói lên quyền bình đẳng giới trong Phật giáo như thế nào. Đây được xem là cuộc cách mạng lớn và đầu tiên trong lịch sử loài người. Chưa từng thấy một tôn giáo nào đánh giá vai trò của phụ nữ như Phật giáo. Có thể nói rằng, cuộc cách mạng này đã mở ra cơ hội tiến thân của nữ giới trên con đường thực tập tâm linh cũng như các mối quan hệ khác trong xã hộiĐặc biệt cuộc cách mạng này diễn ra tại Ấn Độ, một đất nước chịu ảnh hưởng sâu đậm của tư tưởng Vệ đàvai trò của phụ nữ Ấn Độ thời bấy giờ rất thấp; thậm chí là không có một chút trọng lượng nào so với nam giới. Một số tôn giáo cho rằng, phụ nữ là nạn nhân của ái dục nên ra đường phải bịt mặt. Nho giáo cho rằng, nữ nhi ngoại tộc hay nhất nam viết hữu thập nữ viết vô. Chính những quan điểm kỳ thị này đã đẩy phụ nữ vào sự bế tắc, mất quyền con người đúng nghĩa.

Bằng chứng giáo lý

Cốt lõi của giáo lý Phật giáo là không có phân biệt kỳ thị giới tính và điều này vẫn nhất quán xuyên suốt trong lịch sử 2.600 năm qua. Một trong những giáo lý trung tâm của Phật giáo đó là học thuyết vô ngãGiáo lý này chỉ ra rằng mọi sự vật đều do duyên sinh, không có một thực thể cố định tồn tại độc lập bất biến. Do vậy, bản chất của con người là vô ngã thì không có sự phân biệt giới tính. Thứ hai, trong giáo lý Phật giáo, cả nam và nữ đều có khả năng đạt được Niết bàn mục tiêu cao nhất của Phật giáo. Trong Tương Ưng Bộ KinhĐức Phật tuyên bố“Tất cả mọi người dù nam hay nữ đều có thể tu tập trong giáo lý này và đạt được Niết bàn an lạc như nhau”.[1] Nghĩa là giáo lý của Đức Phật được mở ra cho tất cả mọi người đều có thể đạt được Niết bàn, nếu người đó thực hành đúng chánh phápphụ nữ cũng không ngoại lệ. Nhưng đôi khi Đức Phật cũng nhắc nhở cho phái nữ về đặc tính của mình. Trong Tăng Chi Bộ Kinh Đức Phật dạy rằng: “Phụ nữ không kiểm soát nổi cảm xúc, ghen tị, tham lam và yếu đuối trong sự thực hành thiền định và trí tuệ.”[2] Bởi vì Ngài muốn chứng tỏ rằng tình yêu và quan hệ tình dục là mối nguy hiểm cho việc thành tựu đạo quả.

Lời dạy trên của Đức Phật liên quan đến khả năng, tiềm năng giác ngộ của họ đã được Bộ pháp tụ (Dhammasaṅginī) mô tả như là một cuộc cách mạng thực sự trong nền văn hóa Ấn giáo gia trưởng thời bấy giờ. Tuy nhiên, một số bản kinh trong giai đoạn sơ kỳ nêu lên một vài hạn chế và khiếm khuyết của phụ nữ. Đã sinh ra làm người nữ là có năm chướng ngại không thể vượt qua được. Đó là: Người nữ không thể làm Phạm Thiên, không thể làm Đế Thích, không thể làm Ma Vương, không thể làm Chuyển Luân Thánh Vương, và không thể làm Phật.[3.]

Bằng chứng thứ ba ủng hộ sự bình đẳng của phụ nữ trong Phật giáo liên quan đến khái niệm nghiệp - đó là hành động tốt để tái sinh hạnh phúc, trong khi hành động xấu dẫn đến bất hạnh. Trong lý thuyết Phật giáo, ở mức độ là hành động hiện tại và không phải giới tính quyết định chất lượng cuộc sống trong tương lai, đàn ông và phụ nữ có thể được coi là ngang bằng với quy luật của nghiệp.

Đại diện phụ nữ trong văn học Phật giáo

Chân dung tích cực của các nữ tu trong văn học Phật giáo thời kỳ đầu bao gồmphụ nữ A la hán trong những câu chuyện được trích dẫn trong Trưởng lão Ni kệ được mô tả là người phụ nữ có thể đạt được trí tuệ và thành tựu thiền định. Mẹ của Đức Phật là Hoàng hậu Maya - người được mô tả là một phụ nữ gương mẫuđức hạnh và mẹ kế của Đức Phật Prajapati, người được mô tả là sùng đạo và thành tựu tâm linh trong Phật giáo khi trở thành nữ tu đầu tiên.

Văn học Mahāyāna và Vajrayāna được nhìn nhận thống nhất là không có vấn đề về sự khác biệt. Có một số hình ảnh phụ nữ tính tích cực trong văn học Đại thừabao gồm trí tuệ Ba la mật (Prajñāpāramitā), sự nhân cách hóa của sự tôn vinh trí tuệ hoàn hảo. Trong khi ở Vajrayāna, ngôn ngữ rất ưu tiên về sự thể hiện quan điểm nữ tính. Trong Thắng Man kinh, cho chúng ta thấy phụ nữ thành tựu trí tuệ và thực hành con đường Bồ tát đạo một cách xuất sắc. Kinh Thắng Man là một điểm sáng lớn đề cao đến vai trò của người Phụ nữ theo quan điểm của Phật giáo Đại ThừaCâu chuyện Long Nữ thành Phật trong kinh Pháp Hoa cho thấy sự bình đẳng trên con đường thực tập tâm linh là hoàn toàn có thể. Qua đó, chúng ta khẳng định được rằng, Phật giáo thực sự bình đẳng giới, và minh định rỏ trong các lời dạy của Đức Phật.

Trong văn học Pali, giáo lý chính của Đức Phật cho phụ nữ là một phương pháp giáo dục. Trong một số bài kinh chỉ ra rằng Đức Phật khuyên vua Pasenadi, không nên quá đau buồn rằng nữ hoàng Mallika, đã sinh ra một cô con gái. Ngài nhấn mạnh một đứa con gái có thể chứng minh thậm chí còn cao quý hơn cả một đứa con trai. Đức Phật cũng dạy con dâu Anathapindika về bảy loại vợ. Trong bài kinh SigalovadaĐức Phật đã đặt ra năm bổn phận của một người vợ đối với chồng mình.

Trong văn học Phật giáo ghi lại một số phụ nữ, những người đã tu học theo giáo lý của Đức Phật, đã đạt được mục tiêu này. Một số phụ nữ xuất gia trong hàng ngủ đệ tử Phật đã đạt đến quả vị A la hán. Bên Tăng có Thập đại đệ tử thì bên Ni cũng có Thập đại đệ tử xuất sắc tương tợ.

Sự thực hành trong Phật giáo

Có lẽ bằng chứng mạnh mẽ nhất cho sự chênh lệch giữa các giới tính từ một cuộc kiểm tra đời sống thể chế trong Phật giáobao gồm cả vấn đề xuất gia của các nữ tu. Phật giáo được ghi nhận là một trong những tôn giáo đầu tiên có một cơ quan có tổ chức của Ni đoàn. Trong một số bản kinh kể rằng, mẹ kế của Đức Phật, bà Ma Ha Ba Xà Ba Đề dẫn đầu 500 phụ nữ khác trong hoàng triều Sakya đã đi bộ gần 200 km để đến Vaisaly để xin Đức Phật cho phép xuất giaBan đầu Đức Phật không cho, sau khi có sự can thiệp của Tôn giả A Nan Đức Phật mới chấp nhậnCâu chuyện ghi lại rằng, khi năm trăm phụ nữ trong hoàng tộc thành Ca Tỳ La Vệ đến xin Phật xuất gia. Đoạn đường đi bộ gần 200km làm cho bàn chân rớm máu. Thấy cảnh như vậy, Tôn giả A Nan xót thương bèn tìm lời thỉnh cầu Phật cho phép phụ nữ xuất gia.

Tôn giả lại bạch:

- Bạch Thế Tôn! Người phụ nữ, nếu đã từ bỏ đời sống gia đình để sống đời sống không nhà cửa, tinh cần tu tập theo giáo pháp và giới luật, có khả năng chứng ngộ được các thánh quả Tu đà hoàn, Từ đà hàm, A na hàm, hay A la hán không?

Đức Phật dạy:

- Này A Nan! Người nữ xuất gia cũng có khả năng chứng ngộ các thánh quả.

Được khích lệ bởi lời dạy ấy, Tôn giả đã đem hết lí lẽ, trọn tình, trọn lí, khẩn thiết trình bày lên Phật, cố xin giùm cho thái hậu và phái nữ được xuất giaNhận thấy đã đến lúc thích hợpĐức Phật bảo cho tôn giả A Nan biết, nếu thái hậu và đoàn người theo bà chấp nhận thi hành trọn vẹn Bát kỉnh pháp họ sẽ được phép xuất gia làm Tỳ kheo ni.

Tôn giả rất hoan hỉ, liền ra ngoài thông báo lời dạy của Phật cho thái hậu và các bà được biết. Thái hậu và tất cả mọi người đều vui mừng chấp nhận tuân hành Bát kỉnh pháp. Thế là ngay sau đó, thái hậu Kiều Đàm Di và đoàn người của bà được thọ đại giớitrở thành các vị Tỳ kheo ni đầu tiên của giáo đoàn Phật. Với sự kiện này, đức Phật được coi là vị giáo chủ đầu tiên trong lịch sử nhân loại đã thành lập một đoàn thể xuất gia cho nữ giới với đầy đủ giới luật.[4]

Mặc dù thừa nhận cho phụ nữ xuất gia và thành lập Ni đoàn nhưng đối với người nữ vấn có những dị biệt và khiếm khuyết. Do đó đối với giới luật của Tỷ kheo ni nhiều hơn sơ với Tỷ kheoTỷ kheo ni có thể ít được sự cúng dường hơn Tỷ kheo, và tầm ảnh hưởng trong quần chúng cũng không thể sánh bằng Nam tu sĩ. Đó là điều tất nhiên, bởi thể trạng và tâm tánh của phụ nữ là như vậy.

Ngày nay, nhiều phụ nữ trở thành nhà lãnh đạo kiệt xuất, nhà nghiên cứu, khoa học, kinh tế là đã làm thay đổi diện mạo xã hội, từ đó khẳng định vai trò và quyền lợi của phụ nữ như tinh thần của lời Phật dạy trong kinh điển ghi lại.

Tóm lạichúng ta có thể nói rằng, Đức Phật có một thái độ rất tích cực và cách mạng đối với người phụ nữ. Ngài đã mở cánh cửa bất tử vì lợi ích ngang nhau của cả nam và nữ. Thực tế này được coi là một sự kiện quan trọng trong lịch sử của tôn giáo thế giới. Sự thành tựu tâm linh của nhiều nữ A-la-hán đã chứng minh lời tuyên bố linh thiêng của Đức Phật rằng giá trị của một người không phụ thuộc vào giới tính và nền tảng gia đình của họ, mà dựa vào là trí tuệ và đức hạnh của người đó.

Ghi chú:

[1] In Samyutta Nikaya, the Buddha states that : “Whoever has such a vehicle, whether a man or woman shall indeed by means of that vihecle, come to Nibbana”.  Xem Tài liệu học tập Thạc sĩ Phật họcĐại học Delhi.

[2] In Anguttara Nikaya runs that : “Womenfolk are uncontrolled, envious, greedy and weak in wisdom”. Xem Tài liệu học tập Thạc sĩ Phật họcĐại học Delhi.

[3]Năm chướng ngại của người Nữ, xem https://phatgiao.org.vn/tu-dien-phat-hoc-online/nu-tu-ngu-chuong-k39346.html

 [4] Hạnh Cơ, Ni Trưởng Ma Ha Ba Xà Ba Đề, https://thuvienhoasen.org/a28194/ni-truong-ma-ha-ba-xa-ba-de.

Thích Trung Định

Báo Giác Ngộ, số 1174

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14235)
Hình tượng Phật không những xuất hiện trong những không gian lặng lẽ nơi phòng thờ hay bàn thờ gia đình mà còn xuất hiện trên những đỉnh núi cao ngất và hùng vĩ...
(Xem: 16712)
Life is a gift… accept it. Đời là một món quà, hãy nhận lấy. Life is an adventure… pare it. Đời là một cuộc phiêu lưu, hãy giảm dần.
(Xem: 24179)
Đến một lúc, mọi giông tố mịt mùng không che nổi sự bừng sáng của con tim và mọi khổ đau buồn tủi không đánh gục được niềm lạc quan tiềm ẩn trong một tinh thần.
(Xem: 20594)
Phật giáo đã bắt rễ dễ dàng trên mảnh đất Việt Nam. Những người nông dân Việt Nam đang đau khổ và khát vọng sự giải thoát, đã tiếp nhận Phật giáo một cách tự nhiên.
(Xem: 18842)
Ôn hiện thân vào đời năm Đinh Mùi, 1907, tại làng Dạ Lê Thượng, xã Thủy Phương, quận Hương Thủy, Thừa Thiên. Từ đó, Ôn đã mang hành trang của người giác ngộ...
(Xem: 21345)
Sáng sớm vị sư nữ ra mở cổng Tam Quan quét dọn. Sương mù còn giăng kín ngõ. Thoáng chút se lòng sư cô đứng lặng giữa sân như để tĩnh tâm hít thở,...
(Xem: 18302)
Ngày nay, tiền có ít nhất bốn chức năng trong việc phục vụ con người. Dù tốt hay xấu, nó là một phương tiện trao đổi không thể thiếu trong xã hội hiện tại.
(Xem: 19863)
Xung quanh ngôi thạch thất, thầy có trồng dăm loài hoa kiểng, ít cây ổi mận, đu đủ…. Ngày tháng trôi qua, cây trái đã trở nên xum xuê tươi mát, những chậu hoa cũng lấm tấm điểm một vài bông đỏ vàng rực rỡ.
(Xem: 14859)
Bồ đoàn nguyên nghĩa là cái nệm tròn đan bằng cỏ bồ, dùng để lót ngồi hay quỳ lạy. Cỏ bồ có lẽ giống như cỏ năn cỏ lát của nước mình, một thứ vật liệu đơn giản dễ sử dụng.
(Xem: 12981)
Chấp trước, mê chấp, chấp thủ là một trong những gông cùm làm khổ con người. Chính vì hiểu được nỗi khổ này mà Đức Phật luôn dạy các hàng đệ tử là phải phá chấp.
(Xem: 13975)
Nhìn lên bản đồ (kèm theo), ta sẽ thấy Huyền Trang đi theo một đường zigzag rộng lớn, dài hơn nửa đường biên Trung Quốc, vòng quanh nửa nước Ấn Độ...
(Xem: 13163)
Người hộ trì chánh pháp phải biết nhẫn nhục. Nhẫn nhục là biểu hiện sức mạnh nội tâm. Nhẫn nhục cò là phương thuốc thần hiệu để trị bệnh mình và bệnh người.
(Xem: 14021)
Tuổi trẻ học Phật không có mục đích trở thành nhà nghiên cứu Phật học, mà học Phật là tự thực tập khả năng tư duy bén nhạy, linh hoạt, để có thể nhìn thẳng vào bản chất sự sống.
(Xem: 17652)
Mỗi năm, đồng bào Khmer lại tổ chức lễ Sene dolta để con cháu trong gia đình biết ơn bà “chà đôl” và ơn ông “chà ta” đã dày công nuôi dưỡng, sinh thành.
(Xem: 15419)
Trong vô vàn tác phẩm âm nhạc của nhạc sĩ Lê Cao Phan, nhất là các tác phẩm âm nhạc Phật giáo, ca khúc Phật giáo Việt Nam ra đời như là một sự kết tinh trọn vẹn nhất...
(Xem: 14717)
Với chánh niệm, bạn có thể kiến lập bản thân mình trong hiện tại để có thể chạm vào các kỳ diệu của đời sống đang có sẵn trong khoảnh khắc ấy. Có thể sống được hạnh phúc...
(Xem: 14464)
Với người lạc quan, thế gian này tuyệt đối như cánh hoa hồng. Người bi quan trái lại, thấy nó đầy gai chướng. Nhưng đối với người thực tiễn, thế gian không tuyệt đối tươi đẹp...
(Xem: 17875)
Hòa Thượng luôn luôn ý thức về những trở ngại trên bước đường hoằng hóa lợi sinh của mình, nhưng với sự quyết tâm của mình trong tự lợilợi tha Ôn vẫn bước đi...
(Xem: 21920)
Tôi tình cờ đọc được thơ của Cao Thị Vạn Giả vào lúc còn đang học trung học. Một trong những tiểu thuyết mà tôi từng rất thích là tác phẩm Khung Cửa Hẹp của André Gide, do Bùi Giáng dịch.
(Xem: 19476)
Ngày nay nhớ lại quãng đời làm điệu mà tôi cảm thấy nuối tiếc. Quãng thời gian để chỏm sao mà quá nhiều kỷ niệm dễ thương. Những kỷ niệm đầy đạo tình, đạo vị trong chốn thiền môn.
(Xem: 20609)
Bác sĩ Henri Desrives là một khoa học gia hoạt động, vui vẻ và yêu nghề. Như mọi nhà trí thức khác, ông sống một cuộc đời rất thực tế và không buồn lưu ý đến những điều mà khoa học chưa giải thích được...
(Xem: 25156)
Chưa thấy ai/cái gì siêng năng như cái đồng hồ. Gő măi nhịp trường canh đều đặn từ giây này đến giây kế tiếp, từ phút này đến phút kia, từ giờ kia đến giờ nọ… cho đến khi hỏng, hoặc hết năng lượng, hết bin.
(Xem: 16888)
Hoa sen hay Liên hoa là loài hoa thanh khiết thiêng liêngvị trí tôn quý đặc biệt trong giáo nghĩa cùng với sức phát triển bao trùm trên nền văn hóa Phật giáo.
(Xem: 14732)
Trong lý tưởng Bồ tát đạo, có hai ý niệm quan hệ: Đại TríĐại Bi (hay Đại Hạnh). Đại Trí chỉ cho khả năng siêu việt soi thấu bản tính của vạn hữu.
(Xem: 19006)
Ôn Già Lam, chỉ ba tiếng ấy thôi cũng đủ làm ấm lòng bao lớp Tăng sinh của các Phật Học Viện: Báo Quốc - Huế, Phổ Ðà - Ðà Nẵng, Hải Ðức - Nha Trang, Già Lam - Sài Gòn.
(Xem: 22015)
Mùa thu lãng đãng trở về đưa theo từng cơn gió nhẹ, dịu mát. Cả bầu trời như trở mình sống lại, để chuyển rơi rụng những chiếc lá vàng.
(Xem: 20647)
Mở đầu là chuyện thiền sư Khương Tăng Hội từ Việt Nam chống gậy sang miền Giang Tả của Trung Quốc để truyền bá Phật pháp cách đây hơn 1.700 năm (vào năm 247 dương lịch)
(Xem: 25308)
Ngược xuôi trên dòng đời, đôi lúc nhớ về cội nguồn đã xa, tâm cảm kẻ lưu đày như thiền sư Tuệ Sỹ thoáng chốc bâng khuâng, ngậm ngùi như nhà thơ đã ghi lại trong thi phẩm Giấc Mơ Trường Sơn: Ngược xuôi nhớ nửa cung đàn Ai đem quán trọ mà ngăn nẻo về.
(Xem: 15781)
Cùng với tượng tròn (mà chúng tôi đã có dịp giới thiệu trên tập văn số 10) điêu khắc Phật giáo thời Lý, đặc biệt phải kể đến nhiều bức chạm nổi trên đá mà tinh khéo...
(Xem: 15788)
Trong đạo Phật thường nói ý là căn bản của hành động và lời nói. Khi suy nghĩ điều thiện thì lời nói sẽ lành và hành động khắc đẹp. Nghiệp là một thói quen...
(Xem: 20735)
Đọc thi ca chữ Hán và chữ Nôm của Thiền phái Trúc Lâm, có thể nêu lên những cảm hứng sau: Cảm hứng bản thể giải thoát, cảm hứng cõi thiên nhiên Phật nhiệm mầu...
(Xem: 17027)
Một khi ta cảm nhận được sự rộng lớn của cuộc sống này, và thấy được khả năng kinh nghiệm sự sống của mình là bao la đến đâu, thì chắc chắn ta sẽ hiểu được sự buông bỏ.
(Xem: 18646)
Trong văn học cũng như trong thực tế, người ta thường đề cập đến mùa thu có lá rơi, nhưng ít ai lại thấy thực tế hơn, chính xác hơn là trong bốn mùa, mùa nào cũng có lá rơi rụng cả.
(Xem: 20038)
Loại thức ăn thứ nhất là đoàn thực, tức là những thức ăn đi vào miệng của chúng ta. Chánh kiến cũng là biết phân biệt những đoàn thực có hại và những đoàn thực không có hại.
(Xem: 39327)
Vào độ thu, khi lúa chín rộ, những cánh đồng bát ngát như một tấm thảm vàng hoe. Nông dân đây đó tụ tập chúc mừng nhau một vụ mùa thắng lợi, và trời đất cũng hòa nhịp trong bầu không khí tràn ngập niềm hạnh phúc ấy.
(Xem: 31524)
Không có nhà tỷ phú nào không kiêu hãnh về tiền bạc, nhưng chính niềm kiêu hãnh ấy, lại tạo ra những sự lo lắng, sợ hãi, nghi ngờbất hạnh cho họ.
(Xem: 30678)
Thuở nhỏ cứ mỗi khi đến rằm tháng bảy, hình ảnh Đại Hiếu Mục Kiền Liên luôn hiện về trong tôi với đoản văn Bông Hồng Cài Aó của Thầy Nhất Hạnh.
(Xem: 36037)
Trong truyền thuyết dân gian phương Đông, rồng có chín con với hình dángsở thích hoàn toàn khác nhau. Các con của rồng được dân gian sử dụng làm linh vật trang trí ở những vị trí, những vật dụng với những ngụ ý đặc biệt khác nhau.
(Xem: 23889)
Một thời Thế Tôn trú ở Ràjagaha, tại Trúc Lâm, gọi các Tỷ kheo:Này các Tỷ kheo, đầy đủ năm đức tánh, người nữ nhân hoàn toàn không khả ý đối với người đàn ông.
(Xem: 26562)
Thuở mới đăng sơn cắm dùi khẩn đất làm chốn ẩn tu, sư lủi thủi một mình chẳng có móng đệ tử lăng xăng đón đưa phục dịch, sư tự vác cuốc, quẩy gánh...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant