Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phật Giáo Và Sự Bình Đẳng Giới

Friday, November 18, 202209:21(View: 3924)
Phật Giáo Và Sự Bình Đẳng Giới

Phật Giáo Và Sự Bình Đẳng Giới

Thích Trung Định

 Phật Giáo Và Sự Bình Đẳng Giới



Bình đẳng
 giới và trao quyền cho phụ nữ hiện đang được xem là yếu tố quan trọng đối với sự tiến bộ kinh tế, xã hội và dân chủ trong thời hiện đạiTuy nhiên tình trạng của phụ nữ còn nhiều bất cập, đa dạng và phức tạp. Trên toàn thế giới, còn có nhiều nơi sự kỳ thị giới tính vẫn đang là vấn đề nghiêm trọng chưa thể giải quyết một sớm một chiều. Một số vùng miền địa dư và tôn giáo còn có những luật lệ khắt khe đối với phụ nữ. Do vậy tiếng nói chân chính về bình đẳng giới cần phải lên tiếngvai trò của nữ giới cần được tôn trọng, làm cho một nửa thế giới có cuộc sống an vui và hạnh phúc và hưởng quyền lợi bình đẳng.

 Nền văn minh và sự tiến bộ của loại người đang tiến đến một sự dung hòa và bình đẳng. Quyền con người ngày càng được nâng caođời sống an sinh xã hội ngày càng được chú trọng thì quyền bình đẳng giới lại càng đề cao hơn bao giờ hết. Tuy nhiên, trong xã hội loài người vẫn còn đó nhiều khuất tất, tiếng nói chân chính về quyền bình đẳng vẫn chưa hoặc không thể đến bởi còn nhiều rào cản, luật lệ và phong tục tập quán. Trong các vấn đề trên thì sự bình đẳng giới trong các tôn giáo đang còn nghiêm trọng, vì niềm tingiáo điều đã tạo nên rào cản lớn khó có thể giải quyết ngay được.

 Trong lịch sử của các tôn giáo, tiếng nói của phụ nữ hiếm khi được nghe thấy. Điều này xảy ra do tính gia trưởng của người đàn ông trong các xã hội trong đó các tôn giáo đã xuất hiện và cuối cùng đã kìm hãm sự thay đổi địa vị của phụ nữ. Các tôn giáo trên thế giới đều đồng ý về sự tôn trọng phụ nữ và vai trò quan trọng của họ trong cuộc sống gia đìnhđặc biệt là nhấn mạnh vào phụ nữ là mẹ và vợ. Tuy nhiên, dường như không phải tất cả đều ủng hộ hay trao quyền theo nghĩa đó. Chúng ta có thể nói một cách tự tin rằng trong nhiều tôn giáo, sự bất bình đẳng giới đã bị ảnh hưởng nghiêm trọng.

Phật giáo không giống như các tôn giáo khác. Vai trò và quyền hạn của phụ nữ được quan tâm một cách thích đáng. Khi chúng ta tìm hiểu lời dạy của Đức Phật về vấn đề bình đẳng giới mới thấy sự quan tâm rất lớn của Ngài đối với phụ nữ. Trong kinh tạng Nguyên Thủy cũng như Đại Thừa đều có đề cập đến vai trò của phụ nữĐặc biệt trong kinh tạng Pali vai trò làm mẹ, làm vợ được đề cập khá nhiều và cụ thểĐức Phật thừa nhận phụ nữ cũng có thể tu hành và đạt được thánh quả như nam giới.

Việc thành lập Ni đoàn tại Vashali, một quốc gia dân chủ cộng hòa thời Đức Phật đã nói lên quyền bình đẳng giới trong Phật giáo như thế nào. Đây được xem là cuộc cách mạng lớn và đầu tiên trong lịch sử loài người. Chưa từng thấy một tôn giáo nào đánh giá vai trò của phụ nữ như Phật giáo. Có thể nói rằng, cuộc cách mạng này đã mở ra cơ hội tiến thân của nữ giới trên con đường thực tập tâm linh cũng như các mối quan hệ khác trong xã hộiĐặc biệt cuộc cách mạng này diễn ra tại Ấn Độ, một đất nước chịu ảnh hưởng sâu đậm của tư tưởng Vệ đàvai trò của phụ nữ Ấn Độ thời bấy giờ rất thấp; thậm chí là không có một chút trọng lượng nào so với nam giới. Một số tôn giáo cho rằng, phụ nữ là nạn nhân của ái dục nên ra đường phải bịt mặt. Nho giáo cho rằng, nữ nhi ngoại tộc hay nhất nam viết hữu thập nữ viết vô. Chính những quan điểm kỳ thị này đã đẩy phụ nữ vào sự bế tắc, mất quyền con người đúng nghĩa.

Bằng chứng giáo lý

Cốt lõi của giáo lý Phật giáo là không có phân biệt kỳ thị giới tính và điều này vẫn nhất quán xuyên suốt trong lịch sử 2.600 năm qua. Một trong những giáo lý trung tâm của Phật giáo đó là học thuyết vô ngãGiáo lý này chỉ ra rằng mọi sự vật đều do duyên sinh, không có một thực thể cố định tồn tại độc lập bất biến. Do vậy, bản chất của con người là vô ngã thì không có sự phân biệt giới tính. Thứ hai, trong giáo lý Phật giáo, cả nam và nữ đều có khả năng đạt được Niết bàn mục tiêu cao nhất của Phật giáo. Trong Tương Ưng Bộ KinhĐức Phật tuyên bố“Tất cả mọi người dù nam hay nữ đều có thể tu tập trong giáo lý này và đạt được Niết bàn an lạc như nhau”.[1] Nghĩa là giáo lý của Đức Phật được mở ra cho tất cả mọi người đều có thể đạt được Niết bàn, nếu người đó thực hành đúng chánh phápphụ nữ cũng không ngoại lệ. Nhưng đôi khi Đức Phật cũng nhắc nhở cho phái nữ về đặc tính của mình. Trong Tăng Chi Bộ Kinh Đức Phật dạy rằng: “Phụ nữ không kiểm soát nổi cảm xúc, ghen tị, tham lam và yếu đuối trong sự thực hành thiền định và trí tuệ.”[2] Bởi vì Ngài muốn chứng tỏ rằng tình yêu và quan hệ tình dục là mối nguy hiểm cho việc thành tựu đạo quả.

Lời dạy trên của Đức Phật liên quan đến khả năng, tiềm năng giác ngộ của họ đã được Bộ pháp tụ (Dhammasaṅginī) mô tả như là một cuộc cách mạng thực sự trong nền văn hóa Ấn giáo gia trưởng thời bấy giờ. Tuy nhiên, một số bản kinh trong giai đoạn sơ kỳ nêu lên một vài hạn chế và khiếm khuyết của phụ nữ. Đã sinh ra làm người nữ là có năm chướng ngại không thể vượt qua được. Đó là: Người nữ không thể làm Phạm Thiên, không thể làm Đế Thích, không thể làm Ma Vương, không thể làm Chuyển Luân Thánh Vương, và không thể làm Phật.[3.]

Bằng chứng thứ ba ủng hộ sự bình đẳng của phụ nữ trong Phật giáo liên quan đến khái niệm nghiệp - đó là hành động tốt để tái sinh hạnh phúc, trong khi hành động xấu dẫn đến bất hạnh. Trong lý thuyết Phật giáo, ở mức độ là hành động hiện tại và không phải giới tính quyết định chất lượng cuộc sống trong tương lai, đàn ông và phụ nữ có thể được coi là ngang bằng với quy luật của nghiệp.

Đại diện phụ nữ trong văn học Phật giáo

Chân dung tích cực của các nữ tu trong văn học Phật giáo thời kỳ đầu bao gồmphụ nữ A la hán trong những câu chuyện được trích dẫn trong Trưởng lão Ni kệ được mô tả là người phụ nữ có thể đạt được trí tuệ và thành tựu thiền định. Mẹ của Đức Phật là Hoàng hậu Maya - người được mô tả là một phụ nữ gương mẫuđức hạnh và mẹ kế của Đức Phật Prajapati, người được mô tả là sùng đạo và thành tựu tâm linh trong Phật giáo khi trở thành nữ tu đầu tiên.

Văn học Mahāyāna và Vajrayāna được nhìn nhận thống nhất là không có vấn đề về sự khác biệt. Có một số hình ảnh phụ nữ tính tích cực trong văn học Đại thừabao gồm trí tuệ Ba la mật (Prajñāpāramitā), sự nhân cách hóa của sự tôn vinh trí tuệ hoàn hảo. Trong khi ở Vajrayāna, ngôn ngữ rất ưu tiên về sự thể hiện quan điểm nữ tính. Trong Thắng Man kinh, cho chúng ta thấy phụ nữ thành tựu trí tuệ và thực hành con đường Bồ tát đạo một cách xuất sắc. Kinh Thắng Man là một điểm sáng lớn đề cao đến vai trò của người Phụ nữ theo quan điểm của Phật giáo Đại ThừaCâu chuyện Long Nữ thành Phật trong kinh Pháp Hoa cho thấy sự bình đẳng trên con đường thực tập tâm linh là hoàn toàn có thể. Qua đó, chúng ta khẳng định được rằng, Phật giáo thực sự bình đẳng giới, và minh định rỏ trong các lời dạy của Đức Phật.

Trong văn học Pali, giáo lý chính của Đức Phật cho phụ nữ là một phương pháp giáo dục. Trong một số bài kinh chỉ ra rằng Đức Phật khuyên vua Pasenadi, không nên quá đau buồn rằng nữ hoàng Mallika, đã sinh ra một cô con gái. Ngài nhấn mạnh một đứa con gái có thể chứng minh thậm chí còn cao quý hơn cả một đứa con trai. Đức Phật cũng dạy con dâu Anathapindika về bảy loại vợ. Trong bài kinh SigalovadaĐức Phật đã đặt ra năm bổn phận của một người vợ đối với chồng mình.

Trong văn học Phật giáo ghi lại một số phụ nữ, những người đã tu học theo giáo lý của Đức Phật, đã đạt được mục tiêu này. Một số phụ nữ xuất gia trong hàng ngủ đệ tử Phật đã đạt đến quả vị A la hán. Bên Tăng có Thập đại đệ tử thì bên Ni cũng có Thập đại đệ tử xuất sắc tương tợ.

Sự thực hành trong Phật giáo

Có lẽ bằng chứng mạnh mẽ nhất cho sự chênh lệch giữa các giới tính từ một cuộc kiểm tra đời sống thể chế trong Phật giáobao gồm cả vấn đề xuất gia của các nữ tu. Phật giáo được ghi nhận là một trong những tôn giáo đầu tiên có một cơ quan có tổ chức của Ni đoàn. Trong một số bản kinh kể rằng, mẹ kế của Đức Phật, bà Ma Ha Ba Xà Ba Đề dẫn đầu 500 phụ nữ khác trong hoàng triều Sakya đã đi bộ gần 200 km để đến Vaisaly để xin Đức Phật cho phép xuất giaBan đầu Đức Phật không cho, sau khi có sự can thiệp của Tôn giả A Nan Đức Phật mới chấp nhậnCâu chuyện ghi lại rằng, khi năm trăm phụ nữ trong hoàng tộc thành Ca Tỳ La Vệ đến xin Phật xuất gia. Đoạn đường đi bộ gần 200km làm cho bàn chân rớm máu. Thấy cảnh như vậy, Tôn giả A Nan xót thương bèn tìm lời thỉnh cầu Phật cho phép phụ nữ xuất gia.

Tôn giả lại bạch:

- Bạch Thế Tôn! Người phụ nữ, nếu đã từ bỏ đời sống gia đình để sống đời sống không nhà cửa, tinh cần tu tập theo giáo pháp và giới luật, có khả năng chứng ngộ được các thánh quả Tu đà hoàn, Từ đà hàm, A na hàm, hay A la hán không?

Đức Phật dạy:

- Này A Nan! Người nữ xuất gia cũng có khả năng chứng ngộ các thánh quả.

Được khích lệ bởi lời dạy ấy, Tôn giả đã đem hết lí lẽ, trọn tình, trọn lí, khẩn thiết trình bày lên Phật, cố xin giùm cho thái hậu và phái nữ được xuất giaNhận thấy đã đến lúc thích hợpĐức Phật bảo cho tôn giả A Nan biết, nếu thái hậu và đoàn người theo bà chấp nhận thi hành trọn vẹn Bát kỉnh pháp họ sẽ được phép xuất gia làm Tỳ kheo ni.

Tôn giả rất hoan hỉ, liền ra ngoài thông báo lời dạy của Phật cho thái hậu và các bà được biết. Thái hậu và tất cả mọi người đều vui mừng chấp nhận tuân hành Bát kỉnh pháp. Thế là ngay sau đó, thái hậu Kiều Đàm Di và đoàn người của bà được thọ đại giớitrở thành các vị Tỳ kheo ni đầu tiên của giáo đoàn Phật. Với sự kiện này, đức Phật được coi là vị giáo chủ đầu tiên trong lịch sử nhân loại đã thành lập một đoàn thể xuất gia cho nữ giới với đầy đủ giới luật.[4]

Mặc dù thừa nhận cho phụ nữ xuất gia và thành lập Ni đoàn nhưng đối với người nữ vấn có những dị biệt và khiếm khuyết. Do đó đối với giới luật của Tỷ kheo ni nhiều hơn sơ với Tỷ kheoTỷ kheo ni có thể ít được sự cúng dường hơn Tỷ kheo, và tầm ảnh hưởng trong quần chúng cũng không thể sánh bằng Nam tu sĩ. Đó là điều tất nhiên, bởi thể trạng và tâm tánh của phụ nữ là như vậy.

Ngày nay, nhiều phụ nữ trở thành nhà lãnh đạo kiệt xuất, nhà nghiên cứu, khoa học, kinh tế là đã làm thay đổi diện mạo xã hội, từ đó khẳng định vai trò và quyền lợi của phụ nữ như tinh thần của lời Phật dạy trong kinh điển ghi lại.

Tóm lạichúng ta có thể nói rằng, Đức Phật có một thái độ rất tích cực và cách mạng đối với người phụ nữ. Ngài đã mở cánh cửa bất tử vì lợi ích ngang nhau của cả nam và nữ. Thực tế này được coi là một sự kiện quan trọng trong lịch sử của tôn giáo thế giới. Sự thành tựu tâm linh của nhiều nữ A-la-hán đã chứng minh lời tuyên bố linh thiêng của Đức Phật rằng giá trị của một người không phụ thuộc vào giới tính và nền tảng gia đình của họ, mà dựa vào là trí tuệ và đức hạnh của người đó.

Ghi chú:

[1] In Samyutta Nikaya, the Buddha states that : “Whoever has such a vehicle, whether a man or woman shall indeed by means of that vihecle, come to Nibbana”.  Xem Tài liệu học tập Thạc sĩ Phật họcĐại học Delhi.

[2] In Anguttara Nikaya runs that : “Womenfolk are uncontrolled, envious, greedy and weak in wisdom”. Xem Tài liệu học tập Thạc sĩ Phật họcĐại học Delhi.

[3]Năm chướng ngại của người Nữ, xem https://phatgiao.org.vn/tu-dien-phat-hoc-online/nu-tu-ngu-chuong-k39346.html

 [4] Hạnh Cơ, Ni Trưởng Ma Ha Ba Xà Ba Đề, https://thuvienhoasen.org/a28194/ni-truong-ma-ha-ba-xa-ba-de.

Thích Trung Định

Báo Giác Ngộ, số 1174

Send comment
Off
Telex
VNI
Your Name
Your email address
(View: 185)
Khi nào bạn thấy tâm và cảnh vốn là không, bạn sẽ thấy bất kỳ nơi nào cũng là Niết Bản.
(View: 275)
“Tâm linh” vốn là cụm từ mà đối với nhiều người vẫn xem đó là những gì thuộc về thế giới siêu linh, huyền bí, thuộc về cõi âm.
(View: 264)
Phát xuất từ lời Phật dạy trên đây mà ngài Châu Hoằng nhắc nhở các Sa di không được nghe lén Tỷ kheo tụng giới.
(View: 254)
Ngay cả khi con trẻ không hiểu ý nghĩa, việc quy y vẫn có thể giúp chúng phát triển nghiệp duyên với Pháp.
(View: 301)
Trong thực tế đời sống, có những vấn đề lặp lại thường gắn với sự đơn diệu tẻ nhạt,
(View: 492)
Duy thức tam thập tụng là một bộ trước tác rất trọng yếu trong pháp tướng duy thức, còn là cương lĩnh và yếu chỉ của duy thức học.
(View: 515)
Phi-bạo-lực là một giải pháp thực tế trước các sự xung đột trong thời đại của chúng ta.
(View: 563)
Phật tử chúng ta thường đặt hoa trên bàn thờ. Chúng ta biết hoa rất đẹp, nhưng đó không phải là mục đích chúng ta đặt chúng ở đấy.
(View: 520)
Bài này sẽ viết trong tinh thần đối chiếu Kinh Pháp Cú với Thiền Tông.
(View: 520)
Bên ngoài trời đã lạnh. Ra ngoài phải khoác thêm áo ấm; trong nhà phải vặn lò sưởi.
(View: 501)
Trái tim không phải để suy nghĩ. Trái tim là để yêu thương.
(View: 555)
Từ nguyên thủy, tất cả chúng sinh đều muốn được hạnh phúc, và không muốn đau khổ.
(View: 615)
Trong khi một số vị pháp sư cố gắng hết sức để quảng bá giáo lý của họ - bằng cách...
(View: 744)
Đợi cha mẹ già qua đời rồi mới báo hiếu làm đàn tràng cầu siêu thiệt to, mua đất nghĩa trang thiệt rộng, xây mồ xây mả thiệt đẹ
(View: 621)
Phật giáo đề cao giá trị của hạnh buông xả – một trong những đức hạnh căn bản giúp con người thoát khỏi khổ đau, đạt được sự an lạc và tự do nội tâm.
(View: 719)
Không chỉ riêng với Phật giáo dân gian, hầu hết (và có thể là tất cả) các tôn giáo khác, đều tin rằng có một kiếp sau, hay một đời sau.
(View: 752)
Phật tánh là chủ đề của Kinh Đại Bát Niết Bàn và được luận giảng trong Phật tánh luận.
(View: 737)
Phàm làm việc gì muốn được thành công, trước tiên đòi hỏi người ta phải siêng năng.
(View: 676)
Chữ Tánh, Bản tánh, Tự tánh được nói đến trong rất nhiều kinh, luận Đại thừa. Đó cũng chính là mục đích rốt ráo cần tu chứng.
(View: 701)
Trong khi một số vị Pháp sư cố gắng hết sức để quảng bá giáo lý của họ – bằng cách viếng thăm các chùa và tu viện khác nhau trên khắp thế giới
(View: 926)
Hãy quán niệm thật sâu. Một khi có sinh, phải có khổ. Tất cả chúng ta đều phải chịu đựng theo cách đó.
(View: 929)
Khát khao là một cảm xúc tự nhiên của con người, biểu hiện qua mong muốn đạt được điều mà mình cho là quan trọng hoặc cần thiết.
(View: 834)
Từ nguyên thủy, tất cả chúng sanh đều muốn được hạnh phúc, và không muốn đau khổ.
(View: 1241)
Vipassana và sathama là hai phương phápthiền nổi bật mang đến những trải nghiệm tâm hồn độc đáo.
(View: 1088)
Nguyện là lý tưởng, là mục đích, là định hướng cho cuộc hành trình.
(View: 1350)
Một trong những đóng góp to lớn của Hoà thượng Thích Minh Châu là sự nghiệpphiên dịch kinh điển.
(View: 1011)
Trong kinh Hoa nghiêm Đức Phật có dạy: “Nhất niệm sân tâm khởi, bách vạn chướng môn khai”
(View: 900)
Chúng ta có cuộc sống khác nhau trên những giai tầng xã hội, cung bậc tình cảm, cảnh giới tâm linh.
(View: 1159)
Khi đức Phật thành đạo dưới cội Bồ Đề, ngài đứng trước một lựa chọn trọng đại:
(View: 849)
Ngày xưa, đa phần chùa ở Á Châu được xây dựng trên núi, nên vị Thầy đến đó dựng chùa gọi là Thầy Khai sơn, Trụ trì.
(View: 899)
Sống trong một nền văn hóa dựa trên sợ hãi, điều đó chắc chắn ảnh hưởng đến trạng thái tâm của bạn và những quyết định bạn đưa ra.
(View: 1042)
Cho đến trọn đời, các vị A-la-hán dùng mỗi ngày một bữa, không ăn ban đêm, từ bỏ không ăn ban đêm, từ bỏ ăn phi thời.
(View: 1013)
Khi nói đến thiền Quán là nói đến Tứ Niệm Xứ. Quán Tứ Niệm Xứthiết lập Chánh niệm trên bốn lãnh vực Thân, Thọ, Tâm, Pháp.
(View: 1130)
Muốn chuyển hóa cảm xúc thì chúng ta cần chuyển hóa nhận thức trước, đau khổ đơn thuần cũng chỉ là một trạng thái của tâm.
(View: 844)
Bất cứ dược phẩm nào được tìm ra trong thế giới, dù nhiều và đa dạng, không có thứ nào bằng Pháp (trích từ Milindapanha).
(View: 856)
Trong khi một số vị Pháp sư cố gắng hết sức để quảng bá giáo lý của họ – bằng cách viếng thăm các chùa và tu viện khác nhau
(View: 1151)
Từ xưa đến nay, chánh ngữ vẫn là yếu tố cần thiết để khẳng định “tính người” trong mỗi cá nhân,
(View: 897)
Sinh, lão, bệnh và tử: những điều này là bình thường. Sinh là bản chất bình thường của sự vật
(View: 944)
Thay đổi, biến động, dịch chuyển vốn là tính chất thường hằngcủa vạn hữu: có sinh ắt có diệt.
(View: 985)
Trong cuộc sống đời thường, mỗi ngày chúng ta phải quyết định hàng trăm, hàng ngàn lần.
(View: 813)
“Thử tại tâm trung xuất hình ư ngoại” Đó là câu nói của cổ nhân, cũng có thể nói: “ Tâm sanh tướng”.
(View: 1239)
Khi đề cập đến những người tu trong Phật Giáo, thì chúng ta thấy có phân ra hai khuynh hướng tu học, một số vị thì nghiêng về pháp học, còn số vị khác lại chuyên về pháp hành.
(View: 1175)
Người xuất gia mang trên mình một hoài bão lớn là hướng tâm đến giải thoát tự thân và giúp người khác giải thoát.
(View: 1407)
Đức Quán Thế Âm trở nên thân thiết trong đời sống của người dân Việt đến mức trong sâu thẳm trái tim của mỗi người...
(View: 1315)
Nghe nói đến người tu, tưởng chừng như người ấy làm cái gì to lớn, đội đá vá trời, dời non, lấp biển;
(View: 1237)
Ngũ cănngũ lực tiếng Phạn là Pancindriya và Pancabala. Indriya có nghĩa là nguồn gốc, khả năng để tất cả các thiện pháp sinh khởi.
(View: 1119)
Nếu người nam hay người nữ nào, hành pháp ác bất thiện, phạm giới; thân thành tựu ác hạnh; khẩu, ý thành tựu ác hạnh;
(View: 1161)
Tu theo Giáo môn hoặc Thiền môn, họ tuân theo lời dạy của Phật hoặc Tổ sư, bám chặt vào lời nói của Phật hay Tổ ghi chép
(View: 1157)
Ăn chay, không ăn thịt, là một truyền thống cao đẹp hơn ngàn năm nay ở nước ta, phù hợp một cách sâu xa với tinh thần sùng cao của Phật giáo.
(View: 1011)
Chuyện người tu hành bị ma quỷ nhiễu hại xưa nay không phải là hiếm. Những bậc Thánh tăng còn bị làm hại huống gì phàm tăng.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM