Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Bốn Hạng Người Hiện Hữu Trên Đời

21 Tháng Mười Hai 202212:35(Xem: 1954)
Bốn Hạng Người Hiện Hữu Trên Đời

Bốn Hạng Người Hiện Hữu Trên Đời


Thích Nữ
 Hằng Như

 hinh phat  1



I. DẪN NHẬP

Bài kinh  “Bốn Hạng Người Hiện Hữu Ở Đời” được ghi lại trong Tăng Chi Bộ Kinh I, chương 4, phẩm Bhandagàma, phần Thuận Dòng. Bài pháp này đức Thế Tôn giảng dạy cho các vị Tỷ-kheo, khi Ngài đang trú tại làng Ghanda, nơi dân Vajji cư ngụ. Nội dung bài pháp ngắn này, đức Thế Tôn cho biết ở đời có bốn hạng người hiện hữu. Đó là hạng người đi thuận dòng, hạng người đi ngược dòng, hạng người tự đứng lại và hạng người khác là vị Bà-la-môn vượt qua bờ bên kia, đứng trên đất liền.

 

II. VÀO KINH

“ Một thời, Thế Tôn trú ở giữa dân chúng Vajji, tại làng Bhanda. Tại đấy, Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo:

“ Có bốn hạng người này, này các Tỷ-kheo, hiện hữu có mặt ở đời. Thế nào là bốn? Hạng người đi thuận dòng, hạng người đi nghịch dòng, hạng người tự đứng lại, vị Bà-la-môn đã vượt đến bờ bên kia, đứng trên đất liền.

 Và này các Tỷ-kheo, thế nào là hạng người đi thuận dòng?  Ở đây, này các Tỳ-kheo, có người thọ hưởng các dục và làm ác nghiệp. Này các Tỷ-kheo, đây là hạng người đi thuận dòng.

 Và này các Tỷ-kheo, thế nào là hạng người đi ngược dòng? Ở đây này các Tỷ-kheo, có hạng người không thọ hưởng các dục, không làm ác nghiệp, với khổ, với ưu, nước mắt đầy mặt, khóc than, sống phạm hạnh viên mãn thanh tịnh. Này các Tỷ-kheo, đây là hạng người đi ngược dòng.

Và này các Tỷ-kheo, thế nào là hạng người tự đứng lại? Ở đây, này các Tỷ-kheo, do diệt tận năm hạ phần kiết sử, được hóa sanh, tại đấy nhập Niết-bàn, không còn trở lại đời ấy nữa. Này các Tỷ-kheo, đây là hạng người tự đứng lại.

Và này các Tỷ-kheo, thế nào là vị Bà-la-môn đã vượt qua đến bờ bên kia, đứng trên đất liền? Ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng người do hoại diệt các lậu hoặc, ngay trong hiện tại, tự mình với thắng trí chứng ngộ, chứng đạt và an trú vô lậu tâm giải thoáttuệ giải thoát. Này các tỷ-kheo, đây gọi là Bà-la-môn, đã vượt qua đến bờ bên kia, đứng trên đất liền.

Bốn hạng người này, này các tỷ-kheo, hiện hữu có mặt ở đời” (hết trích)

 

III. TÌM HIỂU Ý KINH

Một người từ lúc sinh ra, lớn lên và chết đi. Khoảng thời gian này được xem như là một đời người. Mỗi người có một cuộc đời không ai giống ai. Người ta thường ví von cuộc đời như một dòng sông. Những người sống trong cuộc đời xem như là những chiếc thuyền qua lại trên dòng sông. Chiếc đi chiều này, chiếc ngược chiều kia. Dòng sông thì có đoạn ngắn, đoạn dài, đoạn trong sạch, đoạn đục dơ, đoạn phẳng lặng, đoạn xoáy tròn, đoạn bình yên, đoạn nguy hiểm. Người thuận theo dòng là người chấp nhận để thuyền trôi theo dòng sông không phản kháng.

Dòng đời không lúc nào dừng lại cũng như dòng sông nước chảy không bao giờ ngừng. Một người không tự chủ sẽ dễ dàng bị cuốn theo những thứ hào nhoáng ở đời như tiền bạc, nhà cửa, xe cộ, của cảidanh vọngquyền lực, sắc đẹp… Vì tham lam khát ái, muốn đạt được mục đích hưởng thụ các dục vọng hiện tại, người này sẽ không từ những thủ đoạn xấu xa tạo nghiệp ác.

Ai sống trên đời này, mà không trải qua những kinh nghiệm ham thích đó chứ? Một thứ kinh nghiệm ngọt ngào hạnh phúc chen lẫn nỗi sợ hãi mất mát bởi trong niềm vui luôn chứa sẵn nỗi buồn! Tuy biết thế, nhưng đa phần không mấy người chế ngự được các dục, họ không thể từ bỏ được ly tham, cứ tiếp tục gieo nhân tốt hoặc xấu. Làm sao cũng được, miễn đạt mục tiêu mong muốn của mình là tốt. Họ cứ tiếp tục thọ hưởng các dục vọng, và sống như thế cho đến hết cuộc đời. Rồi do nghiệp lực dẫn dắt người ấy tiếp tục lặn ngụp trong dòng sông sinh tử hết đời này sang đời khác. Đây là loại người mà đức Thế Tôn xếp vào hạng người đi thuận dòng.

Trên dòng sông đông đảo thuyền bè chen chúc qua lại với những tranh đua, giành giựt để lúc vui vẻ, hả hê, lúc buồn bựcđau khổ đó… cũng có những chiếc thuyền trí tuệ nhận ra đâu là bến đổ thực sự sẽ mang đến bình yên an lạc cho mình, nên mới quay thuyền ngược dòng. Những chiếc thuyền ngược dòng  ví như những người từ bỏ đời sống hưởng thụ các dục, họ tu tập an trú trong chánh niệm. Dù gặp phải nhiều khó khăn, đau khổ hay thiếu thốn, họ cũng không làm những việc xấu ác trái với lương tâm. Nghĩa là không có hành động gây phiền não cho người khác và cho ngay cả chính mình. Loại người này được đức Thế Tôn xếp vào hạng người đi ngược dòng.

             Có những chiếc thuyền chấp nhận nghịch lưu, mặc cho dòng sông đời lúc nào cũng bận rộn ngược xuôi, xuôi ngược. Thuyền vẫn âm thầm lầm lũi đạp sóng ngược dòng và đến một ngày thuyền dừng lại trên bến vắng yên lặng, vì đã vượt khỏi năm ngọn sóng lớn lúc nào cũng muốn nuốt lấy con thuyền nhỏ bé cô đơn.  Những chiếc thuyền vượt qua năm cơn sóng to gió lớn này, chính là những vị cư sĩ hay các vị Tỷ-kheo vượt qua mọi dính mắc, mọi dục vọng đưa đến kết quả đoạn diệt năm hạ phần Kiết sử theo lời Phật dạy, không còn cái nhìn sai lệch về thân tâm của mình nữa (Thân kiến), người đó thấy biết con người chỉ là sự kết hợp của ngũ uẩn nên nó vô thườngbiến hoại từng giây từng phút. Không còn hoài nghi con đường đã chọn, bởi họ tin sâu vào Tam bảo (Phật, Pháp, Tăng). Không bị những mê tín dị đoan ngoại đạo cuốn hút (Giới cấm thủ), diệt tận tham lam và sân hận. Những người này khi thân hoại mạng chung sẽ hóa thân về cảnh giới thanh tịnhtiếp tục con đường tu tập và nhập Niết-bàn ở đó, không trở lại cuộc đời này nữa. Đây là những vị đã chứng quả vị Bất Lai (không trở lại). Loại người này, đức Thế Tôn xếp là hạng người tự đứng lại.

Vượt qua những chiếc thuyền đứng lại, có những chiếc thuyền kiên nhẫn tiếp tục lướt trên những đợt sóng khát áidục vọng, tiến thẳng tới bờ, đậu yên lành trên mảnh đất bình yên giải thoát. Rồi vì lòng từ bi giục giã, thuyền xuôi trở lại dòng sông sinh tử để độ người.  Những chiếc thuyền này ví như những vị Tỷ-kheo đã diệt tận năm hạ phần Kiết sửtiếp tục tu hành, loại trừ luôn các nhận thức sai lầm về Sắc áiVô sắc ái, Trạo cử, Mạn và Vô minh gọi là năm thượng phần Kiết Sử. Vị này đã tận diệt mười nguyên nhân đưa đến khổ đau phiền não, dẹp sạch lậu hoặcchứng quả A-La-Hán, thoát khỏi luân hồi sinh tử. Với lòng từ bi thương chúng sanh còn vô minh, các Ngài bước xuống dòng sông đời, tức dòng sông sinh tử, để độ người thoát khổ qua kinh nghiệm của các Ngài. Những vị này được đức Phật xếp là hạng người đã vượt qua bờ bên kia, đứng trên đất liền.

Tóm lại bốn loại thuyền ngược xuôi trên dòng sông tham ái, chính là bốn hạng người sống trên đời này. Sống ở đời ai cũng muốn được an lạc hạnh phúc, nhưng hạnh phúc an lạc cũng có hai loại. Loại say mê hưởng thụ dục lạc thế gian dễ khiến con người sa vào ác đạoTu tập vượt ra ngoài thế gian sẽ giúp con người đạt được thánh quả.

Với hạng người thứ nhất, là những người chưa biết Phật pháp thì họ sống thuận theo đòi hỏi của bản năng, của dục vọng làm những điều xấu ác để đạt được ước vọng hạnh phúc của bản ngã. Họ không biết rằng sống như thế sẽ khiến họ phải chịu cảnh luân hồi sinh tửtử sinh … trong lục đạo từ đời này sang đời khác .

  (1)  “Những ai sống ở đời

Không chế ngự các dục

Không từ bỏ ly tham

Thọ hưởng các dục vọng

Họ đi đến sanh già

Đến rồi lại đến nữa

Bị khát ái trói buộc

Họ đi thuận dòng đời “ ( hết trích)

Loại người thứ hai là những người sống đạo đức, không thọ hưởng dục lạcgiữ giới hạnh thanh tịnh.  Hằng ngày làm lành tránh dữ, sống trong chánh niệm tức giữ tâm ý trong sạch, dù cho có phải chịu đựng những khó khăn, ngập tràn nước mắt, họ vẫn chấp nhận đi ngược dòng đời. Đây là loại người chịu khổ trước sướng sau.  

  (2)  “ Do vậy bậc có trí

Ở đời, trú chánh niệm

Không thọ hưởng các dục

Không hành trì điều ác

Dẫu chịu sự khổ đau

Từ bỏ các dục vọng

Họ được gọi hạng người

Đi ngược lại dòng đời “ (hết trích)

Loại người thứ ba là những người từ bỏ gia đình, chọn đời sống xuất gia tu tập mở mang trí tuệ, có Chánh kiến tức kiến thức đúng đắn diệt trừ được năm phiền não do: Tham, Sân, Nghi hoặcThân kiếnGiới cấm thủ mang đến. Các vị này đạt được quả vị Bất Lai. Khi thân hoại mạng chung sẽ hóa sanh về cõi Tịnh Cư Thiên, tại đấy nhập Niết-bàn, không còn trở lại đời này nữa nên gọi là người tự đứng lại.

               (3) “Những ai quyết đoạn tận

Năm phiền não kiết sử

Bậc hữu học viên mãn

Không còn bị thối thất

Đạt được tâm điều phục

Các căn được định tĩnh

Vị ấy được gọi là

Người đã tự đứng lại.” (hết trích)

Loại thánh tăng thứ tư là những vị A-La-Hán đã không còn bị dính mắc vào hai cõi Sắc (Sơ thiềnNhị thiềnTam thiền và Tứ thiền) và Vô Sắc (Không vô biên xứThức vô biên xứVô Sở hữu xứ và Phi tưởng phi phi tưởng xứ). Nghĩa là khi tọa thiền có an lạc không thích thú, không trụ vào sự an lạc đó, cũng không có tâm ý mong muốn đạt được cảnh giới nào trên con đường tu tập. Tâm của vị đó không còn bị dục áisắc ái và vô sắc ái tác động, nên hoàn toàn yên lặng tức không còn trạo cử.  Không trạo cửkhông chấp ngã, không còn lo sợ mất cái thân do năm uẩn kết hợp nữa nên dẹp được ngã mạn (không ta, không của ta, không tự ngã ).  Vị ấy đã diệt tận các lậu hoặc ngay trong hiện tại, tự mình thắng trí, chứng ngộ bản thể thật của thân tâm mình, thấy biết rõ bản chất thật của hiện tượng thế gian, rằng tất cả đều không thực chất tính nên Vô thường-Khổ-Vô ngã. Nhận thức của vị ấy vượt ra ngoài thế gianan trú trong vô lậu tâm giải thoáttuệ giải thoát. Bấy giờ không còn một phiền não nào ngăn che trí tuệ của vị đó nữa.  Trí tuệ sáng suốt khởi lên sự hiểu biết:  “Ta đã giải thoát”. Vị ấy biết: “Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, việc cần làm đã làm xong, sau đời hiện tại, không có đời sống nào khác nữa”. Đó là vị ấy đã chứng quả A-La-Hán .            

               (4) “Đối các pháp thắng liệt

                        Vị ấy được giác tri

                        Đã được quét, quạt sạch

                        Các pháp được chấm dứt

                        Vị ấy bậc trí giả

                        Phạm hạnh được thành tựu

                        Được tên gọi danh xưng

                        Bậc đã đi đến nơi

                        Chỗ tận cùng thế giới

                        Bậc đã đến bờ kia.” (hết trích)

 

                                              III. KẾT LUẬN

Gút lại, qua bài pháp ngắn này, đức Thế Tôn đã minh họa một bức tranh vô cùng sống động. Đó là cảnh trên dòng sông có nhiều thuyền bè qua lại. Người xem nhìn thấy có những chiếc thuyền con lơ lửng vô tư nhàn hạ trên sông, cũng có những chiếc thuyền thuận theo những đợt sóng đẩy nhanh về phía trước, cũng có chiếc chậm chạm một cách mệt nhọc vì ngược dòng. Cảnh sông nước thuyền bè lung linh ẩn hiện hình ảnh cuộc đời, mỗi chiếc thuyền là hình ảnh một con người sống trên cõi đời này. Là một bậc giác ngộđức Thế Tôn đã nhìn thấy trên đời này có bốn hạng người hiện hữu. Đó là hạng người thuận dòng, hạng người ngược dòng, hạng người tự đứng lại và vị thánh A-La-Hán đã giải thoát ra khỏi luân hồi sinh tử.  Qua hình ảnh các hạng người này, đức Thế Tôn đã không kêu gọi chúng ta phải trở thành hạng người này hay hạng người kia, mà Ngài chỉ khai mở cho chúng ta thấy cách sống của mỗi hạng người sẽ đưa đến hậu quả khổ đau hay an lạc hạnh phúc thực sự. Việc còn lại là sự chọn lựa của mỗi người trong chúng ta mà thôi!

                                  Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật

                                                  THÍCH NỮ HẰNG NHƯ

                                        (Chân Tâm thiền thất, Dec 5th/2022)

(1) (2) (3) (4):  Tăng Chi Bộ Kinh, chương 4, phần Thuận Dòng (văn vần) 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 13274)
Muốn hạnh phúc, mục tiêu chính của chúng ta là phải chiến đấu với những cảm xúc khổ đau này. Chúng ta chỉ có thể đạt được hạnh phúc khi chúng ta quyết tâmnỗ lực tu tập...
(Xem: 12130)
Trên con phố đìu hiu, buông rơi tình, mỏi mòn thả dài xuống làn sợi tóc sương ngon ngọt, thấm da buốt thịt, vì áo xanh tơ trời đã mòn mỏng theo năm tháng, không đủ để chở qua cơn giá lạnh...
(Xem: 14160)
Hành tung của chư vị Bồ Tát, mang nhục thân thị hiện cõi Ta bà, hóa độ chúng sanh, bằng cái nhìn bình thường của con người không thể nào biết được.
(Xem: 13824)
Vanga sinh ngày 31/1/1911, mất ngày 11/8/1996. Bà sống ẩn dật cả đời ở vùng hẻo lánh Kozhuth thuộc Petrich, Bungary. Vanga mất thị lực năm 12 tuổi...
(Xem: 13688)
Một ngày mùa đông năm Dân quốc thứ 25, trên tòa giảng trong chùa Cổ Lâm tại Nam Kinh, Hòa thượng Tuệ Học đang giảng kinh “Bát Đại Nhân Giác”.
(Xem: 14444)
Trên bàn thờ Phật hương tàn đã lâu. Hai cây nến đỏ cháy cũng gần hết. Ánh sáng lung linh mờ ảo trên mặt tượng Phật. Ẩn hiện nét cười hiền, siêu thoát.
(Xem: 16364)
Bố mẹ đi làm về. Bé gái miệng rất tươi: "Con chào bố mẹ ạ. Bố mẹ chào ông đi chứ?" Bố mẹ của bé lẳng lặng đi lên lầu.
(Xem: 20985)
Ngày còn nhỏ, tôi thường nghe dì dượng kể về chuyện tình của họ. Một tình yêu thật đẹp được tô điểm bằng những tình khúc của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn...
(Xem: 22152)
Tiến trình lịch nghiệm của con người được trải dài theo từng tiếng khóc, tiếng cười tự thủa nằm nôi. Ai trong chúng ta không có tiếng khóc đầu đời, nụ cười măng sữa?
(Xem: 12815)
MỤC NGƯU ĐỔ là tranh chăn trâu. Tranh ra đời tự triều đại nào, dưới ngọn bút lông nào, khó mà tra cứu cho đích xác được.
(Xem: 13645)
Tôi sinh ra dưới một mái chùa. Nghe kể rằng sư phụ tôi khi ấy còn trẻ, một hôm đi ngang bỗng động tâm hỏi: "Mô Phật, sao sau chùa lại phơi tã lót?"
(Xem: 23045)
Thơ thiền là một bộ phận của thơ nói chung. Thơ, dù là thơ thiền, thì cũng không thể đi ra ngoài nguyên lý của nó. Ở Trung Quốc, nguyên lý tối cổ của thơ...
(Xem: 13226)
Tôi sinh ra thì thế chiến II đang hồi kết thúc. Lớn lên chút nữa, khi biết nghe và hiểu, những chuyện vãn người lớn về việc đánh nhau đâu đó...
(Xem: 30080)
Văn hóa học là một ngành khoa học nghiên cứu về văn hóa còn khá non trẻ so với các ngành khoa học khác như triết học, toán học, xã hội học, nhân chủng học...
(Xem: 13424)
Ngày xửa ngày xưa có một cây táo rất to. Một cậu bé rất thích đến chơi với cây táo hàng ngày. Cậu bé rất yêu cây táo...
(Xem: 13171)
Tiếng sẻ gọi nhau trong nắng mai thật quá hiếm giữa những âm thanh rộn ràng khác. Trước mặt nhà của nhà thơ Quách Tấn chúng ta...
(Xem: 12854)
Những ngọn sóng cứ đập vào vách đá, hôm kia, hôm qua, rồi hôm nay cũng vậy. Mà hình như chưa bao giờ ngừng nghỉ, những con sóng cứ lô xô...
(Xem: 12825)
Cứ đúng mười hai giờ trưa chú Tâm Mãn, trịnh trọng trong chiếc áo năm thân màu lam, mang bình bát đựng cơm cúng Phật đặt lên bàn giữa của Tổ đường...
(Xem: 12864)
Sắp Tết đến nơi rồi. Ngồi bên vỉa hè ngập nắng trước ngôi chùa suốt ngày đóng cổng tam quan im ỉm tịch lặng, dì Thanh rơm rớm nước mắt nhìn dòng người ngược xuôi...
(Xem: 14042)
Sau khi thỉnh được 107 tiếng đại hồng chung, chú Tâm Thể dùng cán vồ chuông khẻ điểm hai tiếng keng keng trên lưng chuông để báo hiệu cho sư huynh...
(Xem: 15104)
Hằng năm cứ vào cuối thu, lá ngoài đường rụng nhiều và trên không có những đám mây bàng bạc, lòng tôi lại nao nức những kỷ niệm hoang mang của buổi tựu trường.
(Xem: 22008)
Kinh ThiKinh Dịch như đôi cánh của con chim nhạn mang chở định mệnh lịch sử của Trung Hoa bay lượn suốt mấy mươi thế kỷ trên vòm trời Viễn Đông.
(Xem: 14991)
Từ bộ phim khiến cho người xem liên tưởngso sánh với giáo điều của Phật gia ở nhiều chiều. Đặc biệt bộ phim rất ấn tượng và sâu sắc...
(Xem: 14253)
Một ngày kia, mẹ bất chợt đến thăm. Nhiều năm rồi bà không gặp tôi, thậm chí bà cũng chưa bao giờ nhìn thấy các cháu. Khi thấy một bà già...
(Xem: 19466)
Thiền sư là những vị chuyên tâm hành thiền và thông hiểu thiền định. Thiền là tiến trình tu tập đưa đến giải thoátgiác ngộ...
(Xem: 14148)
Cứ theo truyền thuyết Trung Hoa thì kẻ sanh trước loài người là ông Bàn Cổ làm chúa thiên hạ. Kế đó là vua Thiên Hoàng , Ðịa Hoàng và Nhơn Hoàng...
(Xem: 13297)
Tố Như, đó là trái tim cảm ứng với thiên thu, quán chiếu muôn đời trái tim Bồ Tát. Ðó là ánh sáng soi thấu vạn tượng, cảm chiếu chúng sinh.
(Xem: 12683)
Mưa thu rả rích, trời thu ảm đạm một màu, thỉnh thoảng một trận gió ào ào lùa qua khóm lá. Con đường mòn dẫn đến đỉnh núi gập ghềnh, khúc khuỷu...
(Xem: 12796)
Thời Phật Ca Diếp có một vị tỳ kheo trẻ tuổi, xướng tán rất hay. Khi cùng ở chung một chỗ với các vị tỳ kheo khác, thầy hay lộ vẻ kiêu ngạo...
(Xem: 15743)
Đứng bên ngoài khung cổng sắt đã khóa kỹ, Nghi nép vào hàng dậu được kết bằng cây dâm bụt, nhìn vào bóng tối yên lặng đang bao trùm cả tu viện.
(Xem: 12187)
Có người hỏi tôi rằng: “Thưa Thầy, phải sống làm sao cho thoải mái, không bị mọi thứ chi phối mình và phải giải quyết cuộc sống nầy ra sao, khi khổ đau đưa đến?”
(Xem: 13434)
Chùa nằm trên một cồn đất nhỏ bên cạnh dòng sông quanh năm nước lớn. Đêm, nghe tiếng ễnh ương ồm oam hòa với tiếng nước vỗ lên bờ kè đá...
(Xem: 15072)
Nếu như tháp là hình ảnh biểu trưng của Đức Phật vốn mang tính ước lệ, thì tượng lại thuộc dòng chảy nghệ thuật điêu khắc mang tính nhân dạng...
(Xem: 14766)
Người Việt có một câu nói: Mỹ là thiên đường giới trẻ, địa ngục giới già. Nay tôi đã vào cái tuổi giữa 70, câu nói này thật là thấm thía... Ôi, Thấm Thía, Tuổi Già Ở Mỹ ! Nguyễn Đức Nguyên
(Xem: 12352)
Cô gái Việt Nam vô cùng rụt rè xuất hiện trước cửa văn phòng giáo sư Baddley sau tiếng gõ rất khẽ. Anh chàng trợ lý có gương mặt rất sáng...
(Xem: 13847)
Năm ứng thân của đức Phật được 80 tuổi, Ngài đưa A Nan đi hành hóa tới tháp Già Bà La, ở đấy có rất nhiều vị tỳ kheo vân tập.
(Xem: 16366)
Rằm tháng Tư có ba sự kiện quan trọng mà người Phật tử nào cũng biết. Đó là ngày Phật đản sanh, thành đạoniết bàn, gọi chung là ngày lễ Vesak
(Xem: 14560)
Đã tròn một năm con xa quê. Ngày ấy ra đi mưa rơi dầm dề, nước chảy từng dòng len lỏi qua từng ngõ xóm. Ở nơi mới này, con vẫn thường thả bộ...
(Xem: 17514)
Những ý nguyện cuối cùng của ngài Alexander Đại Đế khi sắp chết. Ngài Alexander Đại Đế cho triệu tập các quan trong triều đình...
(Xem: 12930)
Yếu tính của Phật pháp là sự vận hành diệu dụng của từ bitrí tuệ. Cho nên, Phật pháp trước hết là ngôi nhà dưỡng lão, là viện cô nhi, là trại tế bần.
(Xem: 14796)
Anh đã ra đi từ đó, từ thời buổi hỗn mang. Trong từng khoảnh khắc sát na, từng quãng liên tục vi tế của hạt bụi, anh từ chối chính mình.
(Xem: 14558)
Đến tháng 10 khi cây lá ở miền đông bắc Hoa Kỳ đã ngã vàng, người ta thấy ở khắp các thị trấn, thành phố và vùng quê đều có những hình ảnh...
(Xem: 28474)
Việt Nam là một trong những nước ở vùng Đông Nam Á, nhiệt đới gió mùa được thiên nhiên ưu đãi, nên có nhiều loại trái cây độc đáo.
(Xem: 14100)
Theo qui chế nhà chùa, Sa di (danh từ gọi chung cho các chú tiểu) được chia làm hai hạng: hạng thứ nhất, tuổi từ 7 đến 12, gọi là Sa di Khu Ô...
(Xem: 13231)
Ngày của Mẹ, xin tặng một đóa hoa hồng cho những ai còn Mẹ. Và xin tặng một biển hoa hồng cho những ai mất mẹ vì biển hoa hồng ấy như lá rừng lao xao...
(Xem: 13857)
Kể lại câu chuyện tại sao tôi quy-y Phật giáo thì hơi dài và cũng hơi phức tạp, câu chuyện đó có vẻ như một vở tuồng nhiều tình tiết...
(Xem: 10635)
Kinh nghiệm sống là kinh nghiệm đầu tiên và tối cùng của hy vọngthất vọng, của hạnh phúc và khổ đau – ta mơ ước quá nhiều, nên ta khổ đau càng lắm...
(Xem: 14775)
Thuở nhỏ, gia đình cậu bé rất nghèo, tới bữa, chẳng mấy khi có đủ cơm ăn, mẹ liền lấy cơm ở trong chén mình chia đều cho các con.
(Xem: 20673)
Trước miếu Quan Âm mỗi ngày có vô số người tới thắp hương lễ Phật, khói hương nghi ngút. Trên cây xà ngang trước miếu có con nhện chăng tơ...
(Xem: 13519)
Con thấy rằng nếu người ta làm thơ hay viết văn ca tụng ba thì cũng chỉ có những hình ảnh, những biểu tượng dù cao cả, sáng chói nhưng không khỏi nét khô khan...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant