Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Y Pháp Bất Y Nhân

30 Tháng Giêng 202309:31(Xem: 1720)
Y Pháp Bất Y Nhân
Y Pháp Bất Y Nhân

Minh Ngọc

Lý Duyên Khởi Giải Thoát


Không ít Phật tử đến chùa quy y, học Phật phápcông quảtham gia các hoạt động Phật sự, thường theo cảm tình đối với người Thầy ở nơi mình đến hơn là khao khát được học Phật, tu sửa thân tâm ngày càng hoàn thiện. Thầy có hảo tướng, có giọng tụng kinh hay, có lời nói nhỏ nhẹ, dịu hòa, có tài đối đáp, có bằng cấp học vị đạo và đời, có kiến thức đời và đạo sâu rộng, có cách ứng xử đẹp v.v..., làm cho Phật tử xiêu lòng và thần tượng. Tuy nhiên, sau đó khi biết vị Thầy đó cũng có những khuyết điểm, hoặc Thầy không đối xử với mình đậm đà như trước, bèn sinh tâm giận bực, thậm chí bỏ Thầy, bỏ đạo, chê bai thậm tệ. Khi Phật còn tại thếhiện tượng này đã có. Đức Phật từng dạy có 5 lỗi lầm đối với ai hoàn toàn tin tưởng, thần tượng vào Thầy Tỳ kheo của mình nương tựa.

Trường hợp thứ nhất: Vị Tỳ kheo ấy vi phạm giới luật bị chúng từ bỏ.

Trường hợp thứ hai: Vị Tỳ kheo ấy vi phạm giới luật, bị chúng Tăng cử tội Yết ma.

Trường hợp thứ ba: Vị Tỳ kheo ấy đắp y mang bát du hành phương khác.

Trường hợp thứ tư: Vị Tỳ kheo ấy xả giới hoàn tục.

Trường hợp thứ năm: Vị Tỳ kheo ấy thân hoại mạng chung.

Đối với những trường hợp này, người Phật tử tin kính thần tượng vị ấy sẽ nghĩ: “Đây là Thầy của ta, được ta kính trọng, nay bị chúngTăng từ bỏchúng Tăng cử tội Yết ma, đã du hóa nơi khác, đã xả giới hoàn tục, đã mệnh chung; nay ta còn lý gì để vào chùa tháp này nữa. Khi đã không còn vào chùa tháp rồi, thì sẽ không kính chúng Tăng. Do không kính Tăng, nên không còn nghe được pháp. Do không còn nghe pháp, pháp lành sẽ bị thoái mất, không còn được an trụ lâu trong Chánh pháp”

(Linh Sơn Pháp bảo Đại Tạng – Kinh Tạp A hàm số 837
Quá Hoạn - Thích Đức Thắng dịch).

Rõ ràng đây là một thực trạng đã có ngay thời Phật tại thế, khi các Phật tử đã ngưỡng mộ, sùng tín quá mức đối với Thầy của mình, dẫn đến hậu quả đáng tiếc.

Ngay cả đức Phật là bậc đáng được tôn kính trong tất cả (Chúng Trung Tôn), khi đại đệ tử Sariputta khen ngợi tán dương Phật, Phật còn quở trách“Bạch Thế Tôn, con tin tưởng Thế Tôn đến nỗi connghĩ rằng ở quá khứ, ở tương lai cũng như hiện tại, không thể có một vị Sa môn, một vị Bà la môn khác nào có thể vĩ đại hơn Thế Tôn, sáng suốt hơn Thế Tôn, về phương diện giác ngộ.

Này Sariputta, lời nói của ngươi thật là đại ngôn, thật là gan dạ, ngươi thật là rống tiếng rống con sư tử khi ngươi nói: “Bạch Thế Tôn, con tin tưởng Thế Tôn đến nỗi con nghĩ rằng ở quá khứở tương lai cũng như hiện tại, không thể có một vị Sa môn, một vị Bà la môn khác nào có thể vĩ đại hơn Thế Tônsáng suốt hơn Thế Tôn, về phương diện giác ngộ”. Này Sariputta, có phải ngươi đã được biết trong quá khứ, các vị A la hánChánh Đẳng Giác, với tâm của ngươi biết được tâm của các vị Thế tôn - Giới đức chư vị Thế tôn là như vậy, - Pháp chư vị Thế tôn là như vậy, - Trí tuệ chư vị Thế tôn là như vậy, - An trú chư vị Thế tôn là như vậy, - Giải thoát chư vị Thế tôn là như vậy?

- Bạch Thế Tôn, không!”

(Kinh Tự Hoan Hỷ Sampasadaniya sutta - Trường Bộ Kinh - 
Hòa thượng Thích Minh Châu dịch)

Thiết nghĩ, để tránh những não phiền không đáng có, hàng Phật tử chúng ta, không nên tin tưởng sùng bái quá mức một cá nhân Thầy Tỳ kheo nào cả. Vậy phải nương tựa vào đâu?

Đức Phật dạy: “Này các Tỳ kheo, hãy sống tự mình là ngọn đèncho chính mình, tự mình nương tựa mình, không nương tựa một ai khác, lấy chánh pháp làm ngọn đèn, lấy chánh pháp làm nơi nương tựa, không nương tựa một gì khác!

Này các Tỳ kheo, thế nào là một Tỳ kheo sống tự mình là ngọn đèn cho chính mình, tự mình nương tựa mình, không nương tựa một ai khác, lấy chánh pháp làm ngọn đèn, lấy chánh pháp làm nơi nương tựa, không nương tựa một gì khác?

Này các Tỳ kheo, ở đây Tỳ kheo sống quán thân trên tự thân, nhiệt tâm, tỉnh giácchánh niệm, để có thể diệt trừ tham ưu ở đời; Tỳ kheo quán cảm thọ trên các cảm thọ... quán tâm trên các tâm.... quán pháp trên các pháp... nhiệt tâm, tỉnh giácchánh niệm, để có thể diệt trừ tham ưu ở đời. Này các Tỳ kheo, như vậy là Tỳ kheo sống tự mình là ngọn đèn cho chính mình, tự mình nương tựa mình, không nương tựa một ai khác, lấy chánh pháp làm ngọn đènlấy chánh pháp làm nơi nương tựa, không nương tựa một gì khác”

(Kinh Chuyển Luân Thánh Vương Sư tử hống Cakkavati-Sìhanàda
sutta Hòa thượng Thích Minh Châu dịch).

Hãy nương tựa vào chánh pháp. Không những vậy, đó còn là pháp cúng dường tốt đẹp nhất đối với Như lai.

“Này Ananda, các cây sala song thọ tự nhiên trổ hoa trái mùa đầy cành lá, những đóa hoa này rơi lên, gieo khắp và tung vãi trên thân Như Lai để cúng dường. Bột trời chiên đàn từ trên hư không rơi xuống, rơi lên gieo khắp và tung vãi trên thân Như Lai để cúng dường. Nhạc trời trên hư không trỗi dậy để cúng dường Như LaiThiên ca trên hư không vang lên để cúng dường Như Lai.

Nhưng này Ananda, như vậy không phải kính trọngtôn sùngđảnh lễcúng dường hay lễ kính Như Lai. Này Ananda, nếu có Tỳ kheo, Tỳ kheo nicư sĩ namcư sĩ nữ nào thành tựu Chánh pháp và Tùy pháp, sống chơn chánh trong chánh pháphành trì đúng chánh pháp, thời người ấy kính trọngtôn sùngđảnh lễ, cúng dường Như Lai với sự cúng dường tối thượng”

(Kinh Đại bát Niếtbàn (Mahà parinibbàna sutta - Tụng phẩm V 
Hòa thượng Thích Minh Châu dịch).

Đối với các hàng Tỳ kheo đệ tử Phật xuất gia, Phật chỉ rõ cụ thể nương tựa vào mình, lấy chánh pháp để nương tựa chính là Tứ Niệm xứ. Vì sao?

“Này các Tỳ kheo! Đây là con đường độc nhất, đưa đến thanh tịnh cho chúng sanh, vượt khỏi sầu bidiệt trừ khổ ưu, thành tựu chánh trí, chứng ngộ Niết bàn. Đó là Bốn Niệm Xứ”

(Kinh Đại Niệm XứMahasatipatthana sutta 
Hòa thượng Thích Minh Châu dịch).

Còn đối với hàng Phật tử tại gia chúng ta nương tựa vào Pháp, là pháp gì? Là Phật pháp ư? Quá nhiều bài giảng! Quá nhiều kinh sách! Lời Phật dạy cách đây gần 3.000 năm, được kết tậpbiên soạn lại, liệu có trung thực không? Kinh nào? Sách nào? Hán tạng, Pali tạng, Tây tạng?... Quá nhiều Pháp sưGiảng sưThiền sư, Minh sư... nói. Mỗi người mỗi vẻ! Chúng ta tin ai? Làm sao phân biệt đâu là chánh pháp, tà pháp? Đọc bài kinh Kalama, thuộc TăngChi Bộ (Anguttara Nikâya), chúng ta mới thấy trí tuệ của Phật thật siêu phàm, Ngài biết trước những trở ngại của đời sau khi tiếp cận với những lời Kinh pháp.

“Này các người Kâlâma, đương nhiên phải nghi ngờ, đươngnhiên phải phân vân. Đối với điều đang nghi ngờ thì phân vân khởi lên.

Này các người Kâlâma, đừng tin vì nghe nói lại, đừng tin vì theo phong tục, đừng tin vì nghe tin đồn, đừng tin vì kinh điển truyền tụng, đừng tin vì lý luận, đừng tin vì công thức, đừng tin vì có suy tư đầy đủ về những dữ kiện, đừng tin vì có thẩm sát và chấp nhận lý thuyết, đừng tin vì thấy thích hợp, đừng tin vì Sa môn là thầy mình.

Nhưng này các người Kâlâma, khi nào các người tự biết rõ: Các pháp này là bất thiện, các pháp này là đáng chê, các pháp này bị người trí chỉ trích, các pháp này nếu được thực hiệnchấp nhận thì dẫn đến bất hạnh khổ đau; thời này các người Kâlâma, các người hãy từ bỏ chúng đi”

(Hòa thượng Thích Thiện Châu dịch).

Đương nhiên là phải có nghi! Có nghi mới có tìm hiểuTìm hiểu mới có giác ngộ. Nhiều người cho Pháp là Chân lý, là Chân tâm, là Phật tánh v.v... Ôi cao siêu quá! Mênh mông quá! Trừu tượng quá! Phải biết, Pháp ấy chính là con đườngcuối cùng quay về chính mình trải nghiệm thực tế, không chờ đợi tương lai. Vì sao? Vì pháp của Phật được định nghĩa là thiết thực hiện tại Sandithiko, không có thời gian Akaliko, đến để mà thấy Ehipassiko. Pháp nào không đưa đến đời sống bất hạnh khổ đau?

Đó chính là Năm giới, là căn bản đời sống hạnh phúc an vui, đem đến lợi ích cho mình và mọi người: Không cướp đoạt mạng sống của chúng sanh khác; không trộm cướp tài sản người khác, không xâm hại đời sống vợ chồng người khác; không nói dối trá, ác khẩuly giánthêu dệt; và không say sưa nghiện ngập các thứ độc hại tàn phá thể xác lẫn tinh thần“Ai ở đời sát sinh/ Nói láokhông chân thật/ Ở đời lấy không cho/ Qua lại với vợ người/ Uống rượu men, rượu nấu/ Người sống đam mê vậy/ Chính ngay tại đời này/ Tự đào bới gốc mình/ Vậy người hãy nên biết/ Không chế ngự là ác/ Chớ để tham phi pháp/ Làm người đau khổ dài”

(Kinh PhápCú 246/247/248 Hòa thượng Thích Minh Châu dịch).

Lại đó chính là con đường Trung đạo từ bỏ hai cực đoan: quá sướng và quá khổ, là Bát chánh đạocon đường tám nhánh: Chánh KiếnChánh tư duyChánh ngữChánh nghiệpChánh mạngChánh tinh tấnChánh Niệm và Chánh Định.

“Và thế nào là con đường Trung đạo, này các Tỷ-kheo, do Như Lai chánh giáctác thành mắt, tác thành trí, đưa đến an tịnhthắng trí, giác ngộ, Niết-bàn? Chính là con đường Thánh đạo Tám ngành, tức là: chánh tri kiếnchánh tư duychánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạngchánh tinh tấnchánh niệmchánh địnhĐây là con đường trung đạo, này các Tỷ-kheo, do Như Lai chánh giác, tác thành mắt, tác thành trí, đưa đến an tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn”

(Kinh Tương Ưng - Phẩm Chuyển Pháp luân 
Hòa thượng Thích Minh Châu dịch).

Đây tức là pháp chính yếu, pháp cốt lõi, pháp căn bản, là Phật pháp, để tất cả hàng đệ tử Phật nương vào học tập, thực hành, trải nghiệm đưa đến đời sống lợi ích cho mình và người, hướng đến giác ngộ và giải thoát mọi phiền não khổ đau ràng buộc. Và đó cũng chính là Chánh pháp chúng ta cần nương tựa vào mãi mãi và mãi mãi.

Hiện nay, Phật tử hành trì mỗi người một pháp môntùy theo căn cơ. Nếu pháp môn nào tu hành, hay giáo lý nào học tập không dựa trên nền tảng Năm giới và Bát Chánh đạo, còn đưa đến lòng tham cầu, van xin, không đoạn diệt tận ái luyếnchấp trước, không hướng đến an lạctịch tịnh thân tâm, và giải thoát phiền não trong hiện tại, pháp ấy chắc chắn không phải là chánh pháp để chúng ta nương tựa vậy.



(Trích từ Phật Học Từ Quang 43)
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1326)
Một thời, Thế Tôn trú ở giữa dân chúng Sakka, tại Kapilavatthu, ở khu vườn Nigrodha.
(Xem: 1308)
Bốn pháp giới Sự, Lý, Lý Sự vô ngạiSự Sự vô ngại là những từ ngữ của tông Hoa Nghiêm.
(Xem: 1436)
Sống trên đời, có ai không mang ít nhiều âu lo? Người nghèo thì lo làm thế nào để mọi người trong gia đình mình đủ ăn đủ mặc.
(Xem: 1333)
Trong những chúng đệ tử Phật, thì chúng cư sĩ tại gia chiếm số lượng đông đảo và có những ảnh hưởng nhất định đối với diện mạo của Phật giáo nói chung.
(Xem: 1406)
Hạnh phúc chính là sự bình an của thân thể và sự yên tĩnh của tâm hồn.
(Xem: 1387)
Cái vòng tròn vô hình lại quay trọn môt vòng, mùa thu lại về với đất trời Bắc Mỹ.
(Xem: 1284)
Trong Trung luận của Bồ tát Long Thọ luận giảng về tánh Không, phần nhiều là những câu phủ định.
(Xem: 1342)
Trong năm bộ Nikaya của hệ Pali, Đức Phật thường nói đến sự “không có lõi cứng” của các hiện tượng, từ thân tâm, cho đến thế giớichúng sanh.
(Xem: 1353)
Mỗi người trong cuộc sống này luôn có một thử thách để chinh phụcvượt qua, đó là gì?
(Xem: 2037)
Một trong những hình thức ta nuôi dưỡng phiền giận về chính mình là mặc cảm tội lỗi.
(Xem: 1386)
Thế gian không có cái gì khổ cả, khổ chỉ là những ảo giác của con người.
(Xem: 1412)
Thực tập nhằm tăng cường khả năng tập trung hoặc chú ý đóng một vai trò quan trọng trong hầu hết các truyền thống tôn giáo lớn.
(Xem: 1281)
Trong phẩm Thế Chủ Diệu Nghiêm thứ nhất của Kinh Hoa Nghiêm, các thiên vương, các thần vương cho đến các Đại Bồ tát nói kệ tán thán Phật
(Xem: 1539)
Về pháp thiền quán vô thường tôi chia sẻ hôm nay, tôi sẽ không bàn đến đại vô thường như là cái chết, sự hủy diệt, sụp đổ hay sự chia ly.
(Xem: 1383)
Sau khi quy y Tam bảo, vì muốn tìm cầu tri thức, tôi đã nỗ lực nghiên cứu kinh điển. Kinh Phật mênh mông như biển cả,
(Xem: 1241)
Sống lâu, khỏe mạnh là một phước báu lớn. Nhưng không phải ai cũng có được phước báo này.
(Xem: 1208)
Ăn chay không thực hành trong tâm lý cứng nhắc, khắc nghiệt mà ăn chay cần duy trì trong một tâm thái an lạc, nhẹ nhàng và hạnh phúc!
(Xem: 1272)
Thiểu dục: là ít muốn. Tri túc: là biết đủ. “Thiểu dục tri túc”, tức là ít ham muốn và biết đủ.
(Xem: 1257)
Biết chế ngự tâm thì sẽ giảm đi hoặc chấm dứt hẳn những tham vọng, cuồng nộ, sân hận, bẳn gắt, ganh tỵ, đố kỵ, si mê...
(Xem: 1398)
Con người khi mất đi, vẫn còn âm hồn như trong đạo Phật vẫn luôn nhắc đến thuyết luân hồi,
(Xem: 1129)
Phra Ajaan Lee Dhammadharo (1907-1961), là một trong những vị thiền sư theo truyền thống tu khổ hạnh trong rừng.
(Xem: 1117)
Người thế gian không biết nên oán trách cha mẹ không có phước nên sanh mình ra khổ.
(Xem: 1174)
"Một thời Đức Phật du hóa tại thành Vương-xá, trong rừng Trúc, vườn Ca-lan-đa. Bấy giờ, Tôn giả Tam-di-đề cũng đi du hóa ở thành Vương-xá, tại Ôn tuyền lâm.
(Xem: 1313)
"Chánh niệm" - Đó là một từ được bàn tán nhiều khi một người lần đầu tiên tìm hiểu về thiền địnhPhật giáo. Chánh niệm là gì?
(Xem: 1334)
Trí huệ là cái mỗi chúng sanh đều vốn có, chỉ vì bị khuất lấp do những che chướng tạm thời, phiền não chướngsở tri chướng, mà không thấy không biết
(Xem: 1104)
Kinh Vu lan, một bản kinh ngắn nhưng hàm súc, tràn đầy ý nghĩa nhân văn, chan chứa đạo lý, thấm đẫm tình người và đặc biệtgiá trị giáo dục nhân cách với đặc trưng hiếu đạo.
(Xem: 1220)
Đôi khi chúng ta sống cùng nhau, đi ngang đời nhau, đối diệnvới nhau nhưng lại chẳng thấy nhau.
(Xem: 1157)
Các đặc điểm hợp lý trong giáo lý Phật giáo sơ kỳ đã có sức hấp dẫn lớn đối với các học giả châu Âu khi họ nghiên cứu vềPhật giáo.
(Xem: 1301)
Là người Việt Nam, chúng ta ai lại không biết bài hát “Lòng mẹ” của Y Vân với những câu hát như “Lòng mẹ bao la như biển Thái Bình rạt rào/ Tình mẹ tha thiết như dòng suối hiền ngọt ngào…”.
(Xem: 1288)
Ngày Lễ Vu Lan để mỗi người con nhớ đến sự hy sinh, tình thương bao lacông ơn của Cha Mẹ,
(Xem: 1423)
Ngày lễ Vu Lan, những người con ở xa thương nhớ cha mẹ, lòng vẫn luôn hướng về cha mẹ, hướng về nơi chôn nhau cắt rốn của mình.
(Xem: 1529)
Bám chấp là nguyên nhân của mọi đau khổ, phiền não. Đó là những gì làm phát sinh trạng thái hữu và sinh.
(Xem: 1270)
Đạo Phậttôn giáo từ bỏ bạo lực một cách mạnh mẽ nhất trong mọi hình thức.
(Xem: 1255)
Trong mọi truyền thống Phật giáo đều có việc tụng kinh, từ Nam tông, Bắc tông cho đến Mật tông.
(Xem: 1392)
“Hãy ví khổ như rác và hạnh phúc như những đoá hoa… Chuyển hóa khổ đau chính là biết cách biến rác trở lại thành hoa” (Thiền sư Nhất Hạnh).
(Xem: 1428)
Phra Ajaan Lee Dhammadharo (1907-1961), là một trong những vị thiền sư theo truyền thống tu khổ hạnh trong rùng.
(Xem: 1348)
Bất kỳ ai trên thế gian này đều mong muốn tìm cho mình hạnh phúc, an lạc, mà những niềm vui, lạc thú trên đời này rất nhiều.
(Xem: 1674)
Câu hỏi là làm thế nào để đem lại sự an tĩnhan lạc nội tâm trong đời sống hằng ngày của bạn
(Xem: 1318)
Phật giáo thời Hậu Lê tuy không phát triển mạnh như thời Lý-Trần, nhưng thể hiện nên nét đặc sắc về nhiều mặt của Phật giáo
(Xem: 1319)
Những phương cách để đối phó với bệnh khi nó xảy ra là gì? Bình thường phản ứng của chúng tacảm thấy ...
(Xem: 1352)
Phật pháp quả là biển học vô bờ, muôn ngàn pháp môn phương tiện, tùy theo căn cơ trình độ chúng ta chọn và thích hợp với các pháp môn tu khác nhau.
(Xem: 1200)
Hiện nay, vấn đề Bảo vệ Môi trường đang rất được quan tâm ở khắp các nước trên thế giới.
(Xem: 1223)
Hiện nay, ô nhiễm môi trường ngày càng trở nên nghiêm trọngViệt Nam và trên thế giới.
(Xem: 1359)
Để lĩnh hội trọn vẹn “cảm giác an lạc” sinh khởi nhờ thiền định, đòi hỏi các thiền sinh phải có một nền tảng định vững chắc.
(Xem: 1475)
Một hôm Ngài A Nan hỏi Đức Phật ? Bạch Đức Thế Tôn, sau khi một chúng sanh qua đời họ sẽ tái sanh về đâu?
(Xem: 1534)
Ba đứa chơi thân với nhau tự thuở nào, thiên hạ ai cũng bảo ba đứa ấy như hình với bóng
(Xem: 1703)
Năng lễ, sở lễ tánh Không tịch Cảm ứng đạo giao nan tư nghì
(Xem: 1565)
Nắng như thiêu đốt suốt những ngày qua. Luồng gió nóng thốc qua sân nhà tưởng chừng làm héo hắt thêm cho những
(Xem: 1461)
Ngũ là năm. Uẩn có nhiều nghĩa, như: chắc chắn, nhóm, thành phần hay yếu tố
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant