Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Vào ‘Thiền Tập Với Pháp Ấn’ Của Nguyên Giác: ‘Thấy Tâm Tịch Lặng Không Người, Không Ta’

07 Tháng Ba 202318:31(Xem: 2394)
Vào ‘Thiền Tập Với Pháp Ấn’ Của Nguyên Giác: ‘Thấy Tâm Tịch Lặng Không Người, Không Ta’

       Vào ‘Thiền Tập Với Pháp Ấn’ Của Nguyên Giác: ‘Thấy Tâm Tịch Lặng Không Người, Không Ta’ 

 

Huỳnh Kim Quang

 _Thien Tap Voi Phap An - cover - for an tong

Có lần, trong lúc trò chuyện thân tình khi chúng tôi còn làm việc chung với nhau ở tòa soạn Nhật báo Việt Báo cách nay nhiều năm, Cư sĩ Nguyên Giác Phan Tấn Hải đã kể cho tôi nghe về cơ duyên anh bước vào Thiền. Rằng, một hôm tại Chùa Tây Tạng ở Bình Dương, Hòa Thượng Thích Tịch Chiếu, là Thầy Bổn Sư của anh, dạy cho người em gái của anh pháp môn niệm Phật để hành trì. Vì không thấy Hòa Thượng dạy cho mình pháp gì để tu, anh mới hỏi Hòa Thượng: “Còn con thì tu pháp môn gì?” Hòa Thượng nhìn thẳng anh, rồi dạy: “Thấy tánh!”

Đó là phép dạy Thiền: Trực chỉ, dứt khoát, không quanh co, không nhiều lời, không để cho tâm phan duyên của người đối diện có một chút cơ hội nào để bám víu! Nhưng, phép dạy Thiền đó không phải vị Thầy nào cũng có thể làm được. Nó đòi hỏi nơi vị Thầy một nội lực thân chứng thực sự cao thâm để có thể nhìn thấu suốt căn cơ của người đệ tử mà truyển trao đúng pháp. 

Lời dạy “thấy tánh” mà Hòa Thượng Bổn Sư khai thị cho anh Nguyên Giác như câu chuyện ở trên là một trong những yếu chỉ của Thiền: “kiến tánh thành Phật.” Thấy tánh là ngay tức thì thấy Phật, mà thấy Phật là giác ngộ, là đạt được trí tuệ vượt qua bờ kia, hay còn gọi là tuệ giải thoát

Khi nghe anh Nguyên Giác kể câu chuyện trên, tôi giật mình và bất giác tưởng chừng như đang nghe một huyền thoại trong các chuyện cổ tích của Thiền một thời xa xưa nào đó! Nhưng, đó không phải là chuyện cổ tích mà là chuyện đã thực sự xảy đến với Cư sĩ Nguyên Giác. Tôi biết chắc đó là sự thật một trăm phần trăm. Nhiều năm làm việc với anh, tôi thấy rõ anh là một người cư sĩ đúng nghĩa, là một người con Phật trọn vẹn. Anh sống chân tình và trọng tình trọng nghĩa. Anh chỉ muốn giúp người khác mà hiếm khi dám thọ ơn. Anh rất mực cẩn trọng đối với nhân quả, nghiệp báo. Anh có nhiều tài, có sức làm việc bền bĩ, và có sức viết phi thường. Đã qua tuổi “cổ lai hy” mà anh vẫn còn viết đều, viết mạnh.

Có lẽ, tôi đoán, lời dạy của Hòa Thượng Bổn Sư hôm nọ đã khai tâm và mở lối cho anh để rồi từ đó anh không còn do dựnỗ lực không ngừng thực hành Thiền và truyền bá Thiền đến cho mọi người. Cư sĩ Nguyên Giác là một trong những hành giả Thiền quảng bá nhiều nhất pháp môn Thiền đến mọi người. Dù bận rộn nhiều công việc sinh nhai trong những năm trước, anh cũng đã không bỏ phí thời gian ít ỏi của mình để dịch và viết hàng chục tác phẩm về Thiền góp phần vào việc truyền bá Phật Pháp

Cuốn “Thiền Tập Với Pháp Ấn,” dày 460 trang, vừa được Ananda Viet Foundation xuất bản vào đầu năm 2023, là một trong hàng chục tác phẩm và dịch phẩm về Thiền của Cư sĩ Nguyên Giác Phan Tấn Hải không ngoài mục đích truyền bá Phật Pháp cho những ai có duyên để tu tập

Tôi được thiện duyên đọc khá nhiều các tác phẩm của Cư sĩ Nguyên Giác và tôi nghiệm ra rằng trong hầu hết các bài viết, các tác phẩm của anh, bao gồm cuốn “Thiền Tập Với Pháp Ấn,” đều hàm ngụ hai đặc điểm nổi bật: thứ nhất là không lý luận quanh co, và thứ hai là đi thẳng vào thực hành.

Trong đặc điểm thứ nhất, Cư sĩ Nguyên Giác rất hiếm khi trích dẫn các luận giải mà thay vào đó hầu hết đều trích Kinh. Các luận giải là do chư vị luận sư, học giả diễn giải theo phương pháp phân tích lý luận, không tránh phần nào quan điểm cá nhân. Trong khi đó, Kinh là lời đức Phật dạy không phải để lý luận mà để chỉ thẳng con đường tu tập cho các hàng đệ tử. Lý luận thì dễ bắt cầu cho tâm phan duyênvọng tưởng khởi sinh. Chỉ thẳng con đường tu tập là tức thì dập tắt mọi vọng niệm. Trong bài “Thiền Tập Với Pháp Ấn,” Cư sĩ Nguyên Giác viết cụ thể hơn về hai đặc điểm được nêu ra ở trên:

“Đức Phật nói rằng giải thoát là nơi thân tâm này, chứ không ở đâu xa. Do vậy, sau khi thâm tín nhân quả, hãy có niềm tin chắc thật rằng giải thoát là từ nơi thân này và tâm này. 

“Thay vì tranh luận bằng cách mượn những lý luận của nhiều ngàn năm trước, hãy mời gọi nhau nói bằng những gì rất cụ thể, dễ hiểu, thấy được, nghe được. Thí dụ, khi dạy Ngài Rahula về vô thường, Đức Phật nói khởi đầu rằng “mắt là vô thường, cái được thấy là vô thường.” Đó là những gì rất cụ thể, ngay ở đây và bây giờ.” (Thiền Tập Với Pháp Ấn, tr. 98)

Trong đặc điểm thứ hai, Cư sĩ Nguyên Giác luôn luôn nhắm đến mục đích giúp cho người đọc nắm vững phương pháp thực hành để giải thoát. Người học Phật mà không thực hành theo lời dạy của đức Phật và chư Tổ thì chỉ xây dựng tòa nhà kiến thức Phật Pháp bằng lý thuyết suông, với chất liệu duy lý và hý luận, không giúp ích gì cho con đường tu tập để giác ngộgiải thoát. Bài “Kinh Cho Người Bệnh Nặng và Cận Tử” trong “Thiền Tập Với Pháp Ấn” là một điển hình cụ thể, mà trong đó Cư sĩ Nguyên Giác nêu ra nhiều trường hợp các cư sĩ thời đức Phật đang lâm trọng bệnh và nhờ những lời dạy của đức Phật và chư vị đại đệ tử của Phật mà được chứng ngộgiải thoát để giúp cho những ai không may bị dính Covid-19 biết cách tu tập để thoát khổ. Trong Lời Thưa của cuốn “Thiền Tập Với Pháp Ấn,” Cư sĩ Nguyên Giác đã nói lên điều này như sau:

 “Người viết luôn luôn nhớ lời Đức Phật dạy rằng không hề có ai đang gõ; cũng như chỉ có những dòng chữ đang được đọc, và không hề có ai đang đọc. Người viết luôn luôn viết trong tinh thần như thế, trong khi trích lời Phật và ý Tổ để chia sẻ, và để mời gọi nhau cùng bước qua bờ bên kia.”

Cuốn “Thiền Tập Với Pháp Ấn” gồm 27 bài viết xoay quanh chủ đề chính là giới thiệu các “pháp ấn” trong Phật Pháp cho người tu thiền thực hành. Pháp ấn, có thể hiểu một cách đơn giảnGiáo pháp chính thống, then chốt, tinh yếu trong Phật Pháp. Đối với nhiều người chưa học hiểu và nghiên cứu sâu Phật Pháp thì thấy Tam Tạng Kinh Điển mênh mông, bát ngát như nhìn vào biển lớn không thấy đâu là bến bờ, và do đó, không biết nương vào đâu để tu tập. Vì vậy, việc biết được các Giáo pháp then chốt là điều vô cùng lợi lạc trên con đường tu học

Thường có ba pháp ấn (theo Phật Giáo Nam Truyền): Vô thường, Khổ và Vô ngã; hay bốn pháp ấn (theo Phật Giáo Bắc Truyền): Vô thường, Khổ, Không, và Vô ngã. Trong cuốn “Thiền Tập Với Pháp Ấn” của Cư sĩ Nguyên Giác tập trung chính yếu giới thiệu đến người đọc các pháp ấn này. 

Trong cuốn “Thiền Tập Với Pháp Ấn,” Cư sĩ Nguyên Giác đề cập đến các pháp ấn ở nhiều chỗ, nhiều nơi trong 27 bài viết chứ không theo thứ tự nào và cũng không tập trung giới thiệu một pháp ấn trong một bài viết mà thôi. Ở đây, tôi xin đưa ra vài trường hợpCư sĩ Nguyên Giác giới thiệu các pháp ấn này để giúp người tu thiền biết rõ phương  tiện tu tập. Chẳng hạn, khi giới thiệu về pháp ấn vô thường, Cư sĩ Nguyên Giác viết như sau: 

“Tương tự, nếu chúng ta thường trực sống với pháp ấn vô thường, sẽ thấy rằng không hề có cái gì gọi được là “một vật” bởi vì dòng chảy xiết liên tục không để cho một “vật” nào, hay một “pháp” nào, hay một “đối tượng” nào có thể gọi được là một vật, một pháp, một đối tượng của tâm. Trong Kinh SA 203, Đức Phật dạy rằng chỉ cần một pháp quán vô thường là đủ để giải thoát.

“Trong bản dịch của hai Thầy Tuệ Sỹ, Đức Thắng, Kinh SA 203 viết, trích như sau:

“Nếu có Tỳ-kheo nào, đoạn trừ được một pháp, thì sẽ đạt được chánh trí và có thể tự tuyên bố: ‘Ta, sự sanh đã dứt, phạm hạnh đã lập, những gì cần làm đã làm xong, tự biết không còn tái sanh đời sau nữa.’… …Hãy quán sát chân chánh mắt là vô thường. Sắc, nhãn thức, nhãn xúc, cảm thọ với khổ thọ, lạc thọ, không khổ không lạc thọ, phát sanh bởi nhân duyên là nhãn xúc, hãy quán sátvô thường. Đối với tai, mũi, lưỡi, thân, ý, cũng như vậy. Tỳ-kheo nào biết như vậy, thấy như vậy đối với vô minh ly dục, minh phát sanh.” (Sđd., tr. 166)

Ở một chỗ khác trong “Thiền Tập Với Pháp Ấn,” Cư sĩ Nguyên Giác nói thêm về quán vô thường

“Như các kinh dẫn trên, trong tận cùng rồi phải quán vô thường để vào Niết Bàn. Quán tưởng vô thường được Đức Phật trong Kinh SA 270 khen ngợi như là đi như dấu chân voi, như biển đón nhận vô lượng sông, như mặt trời xua mọi tối tăm, và là tối thắng. Kinh SA 270, bản dịch hai Thầy Tuệ Sỹ, Đức Thắng viết về cách quán niệm vô thường:  

“Tỳ-kheo, làm thế nào để tu tập tưởng vô thường, tu tập nhiều, có thể dứt trừ tất cả dục ái, sắc ái, vô sắc ái, điệu mạn, vô minh? Nếu Tỳ-kheo ở chỗ đồng trống hay ở trong rừng cây, mà khéo tư duy chân chánh, quán sát sắc là vô thường; thọ, tưởng, hành, thức vô thường; tư duy như thế thì dứt hết tất cả dục ái, sắc ái, vô sắc ái, điệu mạn, vô minh. Vì sao? Vì nếu người nào tu tập được tưởng vô thường, thì có thể tu tập được tưởng vô ngã. Thánh đệ tử an trú ở tưởng vô ngã, tâm lìa ngã mạn, tùy thuận chứng đắc Niết-bàn.” (Sđd., tr. 189)

Các pháp luôn luôn biến hoại, không có gì tồn tại lâu hơn một sát na, đó là vô thường. Vì tất cả mọi sự mọi vật, bao gồm thân ngũ uẩn của con ngườivô thường, cho nên khổ. Khổ là trạng thái tâm lý biến dịchbất an của chúng sinh đối với tất cả các pháp. Nghĩa là cả thân và tâm đều sinh diệt không ngừng. Vì sinh diệt không ngừng cho nên có sinh, già, bệnh, chết. Trong “Thiền Tập Với Pháp Ấn,” Cư sĩ Nguyên Giác trích lời Đức Phật dạy trong Kinh về pháp quán vô thường và khổ như sau: 

“Đức Phật dạy trong Kinh AN 5.57 rằng tất cả, dù xuất gia hay tại gia, dù nam hay nữ, đều phải thường xuyên quán sát: Mình sẽ già, mọi người sẽ già; Mình sẽ bệnh, mọi người sẽ bệnh; Mình sẽ chết, mọi người sẽ chết; Tất cả những gì thân thương rồi sẽ biến mất; Nghiệp thiện ác mình làm sẽ cuốn trôi mình đi. Có thể ghi nhớ lời vắn tắt là: sẽ già, sẽ bệnh, sẽ chết, sẽ ly biệt, sẽ đi theo nghiệp. Đức Phật nói, hễ quán sát liên tục như thế cũng sẽ giải thoát. Tức là, niệm vô thường, niệm khổ thường xuyên như thế, sẽ tới lúc giải thoát. Kinh AN 5.57 bản dịch Thầy Minh Châu, viết:

"Do vị ấy thường xuyên quán sát sự kiện ấy, con đường được sanh khởi. Vị ấy sử dụng con đường ấy, tu tập, làm cho sung mãn. Do vị ấy sử dụng con đường ấy, tu tập, làm cho sung mãn, nên các kiết sử được đoạn tận, các tùy miên được chấm dứt."(Sđd., tr. 174-175)

Giới thiệu pháp ấn vô ngã, Cư sĩ Nguyên Giác viết như sau: 

“Trong nghĩa rất đơn giản: lý duyên khởi cho thấy không hề có một pháp nào có tự ngã. Đức Phật còn dạy rằng các pháp hữu vi chỉ là như bọt sóng, như điển chớp, như huyễn ảo, như mộng… Đức Phật cũng từng nói về tiếng trống, tiếng đàn thực sự là do duyên mà thành tiếng, không từ đâu và cũng không về đâu. Bởi vậy, các Thiền sư thời xưa nói rằng “tức tâm, tức Phật” cũng đúng, mà nói “chẳng phải tâm, chẳng phải vật, chẳng phải Phật” cũng đều đúng. Trong lý vô ngã, sẽ thấy như thế. 

“Cũng khi trực nhận pháp ấn vô ngã mới hiểu lời Đức Phật dạy: Hãy buông bỏ cả ba thời quá khứ, vị lai, hiện tại. Trong Kinh Xuất Diệu có câu: "Xả tiền, xả hậu, xả gian việt hữu, nhất thiết tận xả, bất thọ sanh lão." (Sđd., tr. 165)

Cư sĩ Nguyên Giác cũng đã trích lời dạy của Đức Phật xác minh về hiệu quả của việc quán vô ngã

“Trong Tiểu Bộ Kinh, phần Kinh Tập, Phẩm Qua Bờ Kia, Kinh Snp 5.15, Đức Phật dạy:

“Hỡi Mogharaja, hãy luôn luôn tỉnh thức và nhìn thế giới như rỗng rang, với cái nhìn về tự ngã đã bứng gốc, người đó sẽ vượt qua sự chết. Thần Chết không thể thấy người đã nhìn thế giới này như thế.” 

Bản tiếng Anh của John D. Ireland khi dịch lời dạy trên, viết: “Look upon the world as empty, Mogharaja, ever mindful; uprooting the view of self you may thus be one who overcomes death. So regarding the world one is not seen by the King of Death.” (Sđd., tr. 164-165)

Nhưng pháp ấn then chốthành giả thiền nên thực tập chính là “phải lìa tất cả tướng.” “Lìa tất cả tướng” đồng nghĩa với “vô tâm,” “vô niệm,” mà Thiền Tông hay nói đến, hay như Kinh Kim Cang nói đến “tâm vô sở trụ.” Trong “Thiền Tập Với Pháp Ấn,” Cư sĩ Nguyên Giác đã giải thích và trích lời Phật dạy trong Kinh Bahiya dạy pháp tu này như sau:

“Đức Phật dạy rằng phải lìa tất cả các tướng. Nghĩa là trong cái được thấy, trong cái được nghe… không hề có tướng nào gọi là A hay B, không hề có cái gì gọi là tướng nhân hay tướng ngã, không hề có bất kỳ tướng nào hết… mà chỉ là những cái được thấy và những cái được nghe liên tục chảy xiết qua tâm gương sáng. Thấy như thế là giải thoát. Đó là thấy được tánh Như: Thiền Tông so sánh tương tự như gương sáng không hề lưu ảnh, vì Hồ tới hiện Hồ, Hán tới hiện Hán. Liên tục giữ tâm vô tướng như thế là giải thoát. Đức Phật dạy ngài Bahiya cách nhìn này:

“Thế này, Bahiya, ông nên tu tập thế này: Trong cái được thấy sẽ chỉ là cái được thấy; trong cái được nghe sẽ chỉ là cái được nghe; trong cái được thọ tưởng sẽ chỉ là cái được thọ tưởng; trong cái được thức tri sẽ chỉ là cái được thức tri.’ Cứ thế mà tu tập đi, Bahiya.” (Sđd., tr. 68)

Trong “Thiền Tập Với Pháp Ấn,” Cư sĩ Nguyên Giác cũng đã có hai bài viết rất công phu vừa mang tính lịch sử vừa có chất liệu văn học Thiền đặc thù mà tôi vô cùng thích thú. Đó là bài viết về hai vị thiền sư Nhật Bản: Ryōkan Taigu (良寛大愚 - Lương Khoan Đại Ngu – 1758-1831) và Bạch Ẩn Huệ Hạc (白隱慧鶴 - Hakuin Ekaku - 1686-1769). 

Đặc biệt nhất là bài viết về Thiền Sư Ryokan Taigu, mà trong bài này, Cư sĩ Nguyên Giác ngoài việc ghi lại tiểu sử chi tiết còn dịch và giới thiệu rất nhiều bài thơ, hay trích đoạn thơ của vị thiền sư này. Cuộc đời của Ryokan, qua ngòi bút của Cư sĩ Nguyên Giác, có lối sống thong dong tự tạigiải thoát trọn vẹn của một ẩn sĩ chọn sống một mình nơi rừng hoang, nơi đồng vắng, nhưng lại tỏa ra phong cách lãng mạn và thi vị của một nhà thơ sống hết mình với cõi thơ siêu thoát của ông.  Hãy đọc một bài thơ do Thiền Sư Ryokan Taigu viết qua lời dịch rất thơ của Cư sĩ Nguyên Giác: 

“Trong vắng lặng, bên cửa sổ trống

Ta ngồi thiền tọa, mặc phẩm phục trang nghiêm

Rún và mũi thẳng đường,

Tai song song với vai

Ánh trăng ngập cả phòng;

Mưa đã ngưng, nhưng mái hiên còn nhỏ giọt.

Toàn hảo giây phút này—

Trong tánh không vô tận, hiểu biết ta thẳm sâu.

 

Vào đêm, sâu trong núi,

Ta ngồi trong thiền tọa

Chuyện nhân gian không bao giờ tới đây;

Tất cả đều vắng lặng và rỗng rang,

Nhang đã tàn trong đêm vô tận.

Áo ta đã đẫm sương.

Không ngủ được, ta bước vào rừng—

Đột nhiên, trên đỉnh cao, trăng tròn hiện.

 

Đời ta nghèo

Nhưng tâm ta sáng tỏ

Khi ta qua

Ngày lại ngày

Trong lều cỏ này.

 

Như dòng suối nhỏ

Len lỏi qua

Các vách núi rêu,

Ta cũng lặng lẽ

Trở thành sáng tỏtrong trẻo.

 

Khi các niệm

Đã vắng cả rồi

Ta lẩn vào rừng [pháp]

Và gom nhặt

Một xấp tiền của mục đồng.

 

Rách rưới và tả tơi, rách rưới và tả tơi

Rách rưới và tả tơi là đời này.

Lương thực? Rau cỏ dại bên đường.

Những bụi cây mọc quanh lều ta.

Trăng và ta thường ngồi chung cả đêm,

Và hơn một lần, ta đi lạc giữa rừng hoa dại,

Quên lối về nhà.

Không ngạc nhiên gì, ta rời khỏi chúng:

Làm sao một ông sư khùng như thế sống trong chùa?”  (Sđd., tr. 368-369)

 

Bài thơ quá hay, đầy thi vị nhưng cũng vô cùng siêu thoát, không vướng một hạt bụi nào! Tôi thích nhất là đoạn bài thơ tả cảnh một ông sư ngồi thiền một mình trong căn nhà trống, dường như chỉ là một túp lều tranh trống trải, vì “ánh trăng ngập cả phòng.” Rồi sau cơn mưa trời lại tạnh và thiền sư lững thững bước vào rừng giữa đêm thanh vắng, bất chợt nhìn lên bầu trời chỉ thấy một vầng trăng tròn chiếu sáng cả nhân gian. Cảnh này đúng là “trong tánh không vô tận, hiểu biết ta thẳm sâu.” 

Đọc xong bài thơ của Ryokan, tôi lại nhớ “ánh trăng trên đồi,” và “tâm tịch lặng” trong bài thơ “Như nắng tà huy” của Cư sĩ Nguyên Giác viết tặng “quý tôn túc Đỗ Hồng Ngọc, Trần Tuấn Mẫn, Nguyên Cẩn, và pháp huynh HT Minh Diệu Nguyễn Thế Đăng,” trong bài “Khi Đức Phật Hóa Thân” của cuốn “Thiền Tập Với Pháp Ấn,” cũng đầy thi vị và siêu thoát. Một đoạn trong bài thơ như sau: 

“… Đêm qua trăng mọc trên đồi

thấy tâm tịch lặng không người, không ta

ai hỏi thì nhấc cành hoa

thấy gì, được thấy, đều xa muôn trùng …”

Xin phép Cư sĩ Nguyên Giác cho mượn đoạn thơ này trong bài “Như nắng tà huy” để kết thúc bài này dù còn rất nhiều điều bổ ích để đọc và học trong cuốn “Thiền Tập Với Pháp Ấn.”  

Xin cảm ơn Cư sĩ Nguyên Giác và xin giới thiệu đến chư độc giả tác phẩm “Thiền Tập Với Pháp Ấn.” 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 15669)
Năm Canh Dần trôi qua với biết bao nhiêu sự kiện xảy ra trên khắp thế giới. Hội nghị cấp cao Đông Á với sự xuất hiện của Nga và Mỹ, người Việt Nam đầu tiên đoạt Huy chương Fields danh giá...
(Xem: 15081)
Vị thầy người Nhật của tôi đã ra đi năm ngoái, quá trẻ, quá sớm. Bà chỉ mới năm mươi bốn tuổi, và không có ai để truyền thừa Pháp. Bà chỉ có năm người đệ tử...
(Xem: 19232)
Ta yêu chuộng sự sống một cách tha thiết, và ta sống hết lòng trong từng khoảnh khắc là do ta có ý thức rõ ràng về sự chết. Cái chết chắc chắn sẽ đến với chúng ta.
(Xem: 15684)
Liên hệ của mọi cá thể trong vũ trụ này là liên hệ duyên sinh. Cái này có mặt là nhờ sự có mặt của những cái khác, không có cá thể nào tự tồn tại riêng biệt...
(Xem: 13760)
Mưa thật nhiều suốt đêm qua, những ánh chớp loé sáng, vẫy vùng trên bầu trời như rượt đuổi nhau với những nụ cười sáng rực. Mưa trút xuống dù không mời gọi, như réo rắc...
(Xem: 13936)
Trăng thì vằng vặc trên cao, trên bầu trời, sáng đẹp. Nhưng, trăng của tấm lòng, của chân tâm, thật là gần gũi, bình dị, trong sáng, thanh tịnh, không một gợn sóng mây...
(Xem: 14409)
Thuở xưa, khi Phạm Dự (Brahmadatta) là vua nước Ba-la-nại (Benares), Bồ-tát thọ sanh vào đời làm một chú Linh Dương sống trong một bụi cây gần bên hồ nước ở trong cánh rừng.
(Xem: 15215)
Trong học tập cũng như trong công việc, lười biếng, thiếu ý chí, thiếu kiên định là những nguyên nhân đưa đến sự thất bại. Khó tìm đâu trên cõi đời này một người có được thành công mà người đó là một kẻ lười biếng...
(Xem: 18109)
Mình có một đôi chân vững chãi, một đôi mắt sáng và một tấm lòng trong, hãy nương tựa vào mình. Đôi bàn chân sẽ cho bạn phương tiện đi tới...
(Xem: 15180)
Dạo ấy, vào khoảng cuối thập niên 50 và đầu thập niên 60 của thế kỷ trước, Phật học viện Trung phần Hải Đức tại Nha Trang thấy cần phải mở rộng việc đào tạo tăng tài.
(Xem: 14706)
Thời đại ngày nay, trong chúng ta ai mà lại không bận rộn, ai mà lại có dư thì giờ đâu bạn nhỉ? Mặc dù đôi khi tôi cứ nghĩ là chúng ta chỉ tự tìm cho mình sự bận rộn mà thôi!
(Xem: 17901)
Đời như cơn gió bên thềm, mênh mông, vô định. Có cái gì là của mình đâu mà trói buộc? Cứ nhẹ nhàng thôi, như gió bên thềm vậy...
(Xem: 20734)
Sự vững chãi của bạn là một điều nhiệm mầu. Bởi có rất nhiều người đang tin vào bạn, họ sẽ vững chãi theo và niềm tin ấy miên viễn trong tâm thức...
(Xem: 19541)
Xuất gia có nghĩa là ra khỏi nhà, rõ hơn là ra khỏi căn nhà mình đang ở; dứt khoát bỏ mà đi khỏi căn nhà mình đang được chở che bảo bọc, hay đang bị ràng buộc, hệ lụy vương mang.
(Xem: 17106)
Tình yêu không làm cho ai khổ đau, nhưng ở trong đời có quá nhiều người bị khổ đau bởi tình yêu là do trong tình yêu của họ có nội dung của khao khát, chiếm hữu, riêng tư và tình dục.
(Xem: 15781)
Sau bữa ăn trưa, tôi hỏi một vị Tăng sĩ trẻ, Thầy đã ăn xong chưa? Vị ấy trả lời - dạ! con đã ăn xong. Tôi cười và nói, Thầy chưa ăn xong đâu, ngày mai Thầy lại tiếp tục ăn lại...
(Xem: 17191)
Trong đời sống hàng ngày, ta cố ý nói sai sự thật để đánh lừa người khác là chính ta không những chỉ phá hoại và làm thương tổn lời nói của ta, mà chính ta còn làm thương tổnphá hoại sự hiểu biết và nhân cách của ta nữa.
(Xem: 15916)
Bạn biết không? Mọi niềm vui xảy ra trong thế gian đều dẫn đến hậu quả của thất vọng và khổ đau. Tại sao? Vì lòng tham của con người đối với các lạc thú thế gian là vô hạn...
(Xem: 15225)
Sống giữa đời, ai cũng mưu cầu một vài niềm hạnh phúc. Hạnh phúc được xem nhưmục tiêu thiết yếu nhất mà loài người nói riêng và vạn loài tồn sinh khác nói chung hướng đến tìm cầu.
(Xem: 14997)
Trong cuộc sống có đôi khi chúng ta lầm tưởng, mọi thứ đều diễn ra quá êm đẹp và theo chiều hướng tốt để ta có thể đạt được cái mà chúng ta muốn có.
(Xem: 14991)
Có thể nói vạn vật hữu hình khó đứng vững và tồn tại trước những cơn thịnh nộ của bão tố. Thế nhưng, đôi khi đâu đó cũng có những cành hoa bé nhỏ yếu ớt đã sẵn sàng trụ lại sau những cơn cuồng nộ của tự nhiên.
(Xem: 18057)
Mỗi khi nghe đến mấy bài hát diễn tả những sinh hoạt nơi đồng quê, như cảnh gặt hái của ngày mùa, hay những buổi tối giả gạo dưới trăng tôi chợt nhớ đến quê tôi tha thiết.
(Xem: 15768)
Chúng ta luôn đặt ra cho mình rất nhiều mục tiêu, song trên bước đường theo đuổi chúng, phải chăng bạn đã đánh mất giá trị tự thân của cuộc sống? Lao đầu vào việc theo đuổi mục đíchtrở thành nô lệ của mục đích.
(Xem: 16748)
Việc con người chạy theo các dục, vì họ sống với các chủng tử tâm hành liên hệ đến vô minh, mọi sinh hoạt của họ là sinh hoạt trong bóng đêm, và ngay cả ánh sáng cũng chỉ là bóng đêm của họ mà thôi...
(Xem: 14439)
Khu vực tôi ở có một con đường hai hàng thông cổ thụ, tàn lá giao nhau như lọng che, vừa tạo nét đặc thù, vừa luôn luôn cho bóng mát.
(Xem: 14361)
Mùa hạ về… bao suy tư được trải nghiệm, bao ước vọng lại xâu kết bên lòng. Âm vang ngày hạ là nắng là hoa, là hương thơm từ đất, là hơi ấm từ bóng mặt trời lan tỏa.
(Xem: 16568)
Ông lão ăn xin nom thật tội nghiệp với một tay chống gậy, một tay run run cầm chiếc nón rách hướng về phía chị, giọng thều thào...
(Xem: 17440)
Những làn sóng biển đùa chơi với nhau và cùng nhau chạy vào bờ chạm lên cát trắng, rồi tan biến vô sự giữa trời nước mênh mông. Sóng là nước và nước là sóng.
(Xem: 18641)
Thuở xưa, khi vua Phạm Dự (Brahmadatta) trị vì Ba-la-nại (Benares), Bồ-tát thọ sanh làm một con Tắc kè. Bấy giờ, có một ẩn sĩ khổ hạnh sống trong một thảo am...
(Xem: 17006)
Chúng ta tự thuyết phục mình rằng cuộc sống sẽ tốt đẹp hơn sau khi ta hoàn tất một dự án này, học hết chương trình này, xong một khoá trị liệu này...
(Xem: 16416)
Ananda là đại đệ tử của Phật. Là em chú bác của Phật, ngài từ bỏ đời sống vương giả, xuất gia theo Phật, hầu cận bên cạnh Phật suốt đời.
(Xem: 15691)
Chỉ hai tuần, sau khi dọn tới căn nhà mới, tôi đã biến đổi hoàn toàn mảnh vườn, khi được người chủ nhà bảo: “Muốn trồng gì, làm gì, xin tùy ý!”
(Xem: 16477)
"Hãy cho con thành một đóa hồng cao lớn, bởi vì con ước mong được ngẩng cao đầu với một niềm kiêu hãnh; đây sẽ là việc của riêng con, con bất chấp số phận mình ra sao."
(Xem: 15444)
Hình ảnh một thiền sư chậm rãi thiền hành trong nắng mai hay an nhiên lặng lẽ tĩnh tọa giữa rừng chiều là tặng phẩm tuyệt đẹp cho những ai có tâm hồn nhạy cảm...
(Xem: 14279)
Em là những giọt nước nằm sâu dưới lòng đất, nhưng em muốn đi về với đại dương có được không anh? - Được chứ, điều ước mơ của em là rất đẹp...
(Xem: 15431)
Trước kia các cuộc khủng hoảng phát minh bởi sự khai thác những tài nguyên và bóc lột khả năng con người. Hiện tại khủng hoảng vì sự lạm dụng các học thuyết chủ nghĩa, nên càng khốc hại, nguy hiểm và phá hoại hơn.
(Xem: 14843)
Ngồi một mình bên tách trà xanh, nhìn chung quanh mình là mùa thu có màu vàng bao phủ khắp không gian. Thiên nhiên khoe mình, kiêu hãnh.. biết bao nhiêu cây lá mỉm cười...
(Xem: 7579)
... cái quan niệm ta có về Bụt ấy cũng như một cái hố xí, và theo nghĩa đó, Bồ TátLa Hán cũng chỉ là những kẻ đem tới gông cùm.
(Xem: 17187)
Thầy giáo yêu cầu mỗi chúng tôi mang một túi nilông sạch và một bao tải khoai tây đến lớp. Sau đó, thầy bảo cứ hễ chúng tôi không tha thứ lỗi lầm cho người nào đó thì hãy chọn ra một củ khoai tây viết tên người đó và ngày tháng lên rồi bỏ nó vào túi nilông.
(Xem: 12303)
Dì Năm dự định mang cậu con trai về trại ruộng Thới Sơn, Châu Đốc nương náo với đồng đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa tu dưỡng thân tâm, tiện đường dì ghé lại chùa Tây An(1) đảnh lễ Đức Phật Thầy để cầu nguyện cho con sớm lành bệnh.
(Xem: 12240)
Thanh thường bị bè bạn chế giễu là “công tử miệt vườn”, có thể một phần vì gia đình chàng sở hữu một thửa vườn cây trái khá rộng – vườn Tám Thà - tại ngoại ô thị trấn Châu Đốc, nhưng cũng có thể cũng do bản tánh hiền lành chơn chất và “nhát gái” của chàng.
(Xem: 16555)
Một ngày nọ, Vua Salomon bỗng muốn làm bẽ mặt Benaiah, một cận thần thân tín của mình. Vua bèn nói với ông: "Benaiah này, ta muốn ông mang về cho ta một chiếc vòng...
(Xem: 14671)
Một lát sau, chiếc xe thứ ba chạy tới. Chiếc xe này không cũ, không có đông khách nhưng bạn vẫn không hài lòng: "Cái xe này không có điều hoà, thôi mình cố đợi chiếc sau".
(Xem: 14542)
Mùa Vu Lan lại về. Bên cạnh nụ cười rạng rỡ trên gương mặt những người diễm phúc còn có Mẹ, chúng tôi, những người cài hoa trắng, lòng bâng khuâng nhớ Mẹ đã khuất bóng nơi xa...
(Xem: 13848)
Đời có tươi thì có phai; tình có ấm lên thì có nguội. Vẫn biết thế nhưng tình cảm tự nhiên con nhớ Mẹ, thương Mẹ vượt ra ngoài biên giới chật hẹp của sự hợp lývô lý thường tình.
(Xem: 12466)
Em nằm yên giấc mồ côi Đoá hồng lắng đọng bên dòng phù du gió nguồn ngày tháng vi vu sóng đời dồn dập vô thường viễn xa...
(Xem: 13841)
Thằng bé nhìn con bướm chết lần cuối. Dưới ánh trăng đôi cánh nó lấp lánh như ánh vàng. ”Cậu đẹp thật đấy”, thằng bé nghĩ. Rồi một lát sau cậu thả con côn trùng rơi trên đất và chạy về phía mẹ.
(Xem: 12311)
Đây là một câu chuyện có thật, chúng tôi gọi là "Câu chuyện bát mì". Chuyện xảy ra cách đây năm mươi năm vào ngày 31/12, một ngày cuối năm tại quán mì Bắc Hải Đình, đường Trát Hoảng, Nhật Bản.
(Xem: 15367)
Cô con gái hay than thở với cha sao bất hạnh này cứ vừa đi qua thì bất hạnh khác đã vội ập đến với mình, và cô không biết phải sống thế nào.
(Xem: 13802)
Là một thành viên trong cộng đồng thế giới, tôi không thể nói rằng tôi không có trách nhiệm gì đối với những khổ đau, bất ưng, nghịch lý, bất công, hiểm nguy đang xảy ra chung quanh tôi.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant