Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Những Phạm Trù Cơ Bản Về Bản Thể Luận Trong Triết Học Phật Giáo

08 Tháng Ba 202316:32(Xem: 1614)
Những Phạm Trù Cơ Bản Về Bản Thể Luận Trong Triết Học Phật Giáo
Những Phạm Trù Cơ Bản Về Bản Thể Luận Trong Triết Học Phật Giáo

TS. Đinh Quang Hổ (HT. Thích Quảng Tùng)
 
hoa sen 1

Bài in trong cuốn sách: "Đào tạo Tôn giáo học ở Việt Nam quá trình hình thành và phát triển" của Bộ môn Tôn giáo học, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, ĐHQGHN, Nxb. Tôn giáo, 2017, tr. 410 - 418.

Dẫn nhập: Phật giáo trước hết là một tôn giáo, vì thế những tư tưởng của giáo lý Phật giáo không đề cập nhiều tới những vấn đề triết học thuần túymục đích chính của tư tưởng Phật giáo là sự giải thoát chúng sinh khỏi nỗi khổ của cuộc đời. Đó là mục đích tối cao, là vấn đề trung tâm của các giáo lý Phật giáo. Tuy nhiên, trong quá trình thuyết pháptruyền bá tư tưởng, rất nhiều quan điểm, triết lý Phật giáo lại thể hiện những khía cạnh triết học sâu sắc mà một trong số chúng là những vấn đề liên quan đến tư tưởng về bản thể luận.

         Theo quan điểm của Phật giáo, bản thể là: “căn bản tự thể các pháp” mà “Pháp là từ chỉ chung hết thảy mọi sự vật, hiện tượng, dù là to nhỏ, hữu hình, vô hình, chân thực, hư vọng. Sự vật cũng là vật, đạo lý cũng là vật, tất thảy đều là pháp cả”. Theo Kinh Hoa Nghiêm thế giới bản thể gọi là lý pháp giới, thế giới hiện tượng gọi là sự pháp giới. Nó như nước với sóng. Như vậy, bản thể vừa là tâm thức, vừa là vật chất. Nó là cái duy nhất, đầu tiên, là cội nguồn hay thực tại cuối cùng mà trên đó vũ trụ được hình thành. Từ bản thể hay chân không, do vô minh, vọng động mà xuất hiện chúng sinh. Các chúng sinh sau khi giải thóat lại trở về với bản thể tuyệt đối này.
       Thuyết “Ngũ uẩn” quan niệm vạn vật trong vũ trụ được hình thành từ 5 yếu tố: sắc uẩn (hiện tượng vật chất); thụ uẩn (cảm giác); tưởng uẩn (tác dụng của tri giác hoặc biểu tượng); hành uẩn (ý chí, tư duy); thức uẩn (tác dụng của ý thức hoặc nhận thức). Sắc uẩn lại bao gồm tứ đại là: địa, thủy, hỏa, phong và do các cơ quan cảm giác tứ đại tạo tiếp xúc: sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp. Sáu căn với sáu trần này tương hỗ với nhau tạo ra sự sinh độngphong phú của thế giới.
         Do vậy, khi bàn về vấn đề bản thể luận trong Triết học Phật giáo thì thường có các cặp phạm trù cơ bản sau: Thứ nhất: Quan niệm về “Tâm”, “Chân như – Thực tướng”, “Pháp”, “nhân duyên”, “sắc – không”
        Một trong những khái niệm trọng tâm trong quan niệm về bản thể luận của Phật giáo là khái niệm Tâm. Đây là lý thuyết của Phật về bản chất tồn tại của thế giới. Tâm có nhiều “Tâm”: Chân tâm, vọng tâm, sân tâm, hỷ tâm…Theo Đại thừa Phật giáo: Tâm của “nhất thiết duy tâm tạo” trong kinh Hoa Nghiêm hoặc Tâm của Viên Giác diệu tâm của kinh Viên Giác thì “tâm” là bản thể, tất cả mọi sự vật, hiện tượng cho đến sơn hà đại địa từ Tâm đó mà sinh ra. Cái Tâm ban đầu vốn tròn đầy, yên tĩnh, chưa xao động. Bản thể của Tâm được ví như mặt nước lặng trong, do gió thổi (vọng tâm sinh khởi) mà tạo ra sóng to, sóng nhỏ, bọt, bong bóng…Gió ngừng thổi thì sóng hết, bọt tan chúng lại trở về với mặt nước yên lặng. Đó chính là bản thể của nó. Vậy Tâm là cái bất biến, có sẵn, không thay đổi. Những biểu hiện biến đổi của tâm là do có tác động từ bên ngoài, có sự tiếp xúc của “lục căn” (cơ quan cảm giác chủ quan) với “lục trần” (thế giới khách quan) làm xuất hiện tâm với tính cáchý thức chủ quan làm tâm xao động, chạy theo cái ảo, giả mà sinh ra “tham”, “sân”, “si”…là quá trình tạo nghiệp, tạo nhân, để làm che mờ bản chất, làm con người đi và vòng luân hồi không dứt. Nhưng khi vượt qua được điều đó, khi con người được giải thoát, có được trí tuệ bát nhã để phá tan vô minh, khi cái tâm ý thức không còn bị tác độngchi phối bởi các yếu tố khách quan thì vạn vật trở về chính nó – cái Tâm ban đầu, thanh tịnh, yên tĩnh, trong trẻo, là khởi nguồn của tồn tại. Như vậy, thế giới hiện tượng (vạn tượng) đều từ bản thể (chân tâm, chân như) mà ra. Cái chân như đó là pháp chân thật, không hình không tướng, lúc nào cũng vậy, bất biến. Tức là, thế giới vật chất cụ thể do nhân duyên tạo thành chỉ là hư ảo, cái bản thể không hình tướng mới là chân thực duy nhất. Như vậy, cái bản thể, cái chân như đó ở trong thế giới trần tục, lẫn với bụi đời (cửu hồn phàm trần) chứ không phải ở sự tồn tại bí ẩn nào. Người giác ngộ sẽ thấy ra điều đó còn người trần tục tại tưởng Bồ đề ở rất xa xôi. Khi giác ngộ thì bản thể thần diệu đó vốn là hư không, nhưng vẫn biểu hiện ra muôn hình vạn trạng để nhận dạng ra nó.
         Thiền tông, một trong những trường phái thiền riêng có ở Trung quốc đã thể hiện nhiều tư tưởng triết học sâu sắc, đặc biệtquan niệm về bản thể. Theo quan niệm “Không luận”, Thiền tông cho rằng thế giới vật chấtý thức vốn dĩ là rỗng không, nhưng sở dĩ là “có” là do “vô minh”. Đến một lúc nào đó, cái trí tuệ siêu việt (bát nhã) chợt đến, phá tan “vô minh” thì thế giới hiện hữu tan biến, thế là giải thoát thành Phật. Thiền tông quan niệm rằng con người sở dĩ cứ phải luân hồi trong “bể khổ” là do cái “tâm vô minh” gây nên. Một trong những quan niệm điển hình của Phật giáo khi đề cập đến vấn đề bản thể luận là khái niệm “Không”: “Không của nhà Phật có hai cấp độ hay hai khía cạnh chính. Một khía cạnh chỉ bản thể, bản nguyên, khởi nguyên của vũ trụ. Khía cạnh thứ hai để chỉ sự rỗi rãi trong thế giới hiện tượng, “không” đi với “sắc”. Theo cách hiểu thứ hai về từ “không” thì nó không phải là không tồn tại, trống không, không có gì, không phải là phủ định sự tồn tại, hiện hữu. “Không” ở đây gắn với cái tương đối, “không” là có nhưng không thật, không nằm trong thế giới hiện tượng. Là “không” nhưng không thật là không nên thực là có. Có nhưng không thật có nên lại là không. Đây là cái “không” đã vượt lên mọi đối đãi, mâu thuẫn, nó không gắn với bất cứ cái gì, bất cứ ai, ở đâu, lúc nào. Nó tồn tại như nhiên, như thế là như thế, không sinh không diệt, không đến không đi. Trong quan hệ với “sắc”, nếu “không” là cái bắt đầu của mọi tính, đó là bản tính vũ trụ, là chân như “pháp tính” hoặc “phật tính”, nói tắt là “như” hay “chân như”, nó là cái độc lập tự tại, không do ai sinh ra thì “sắc” được hiểu như là hiện tượng bộc lộ ra và tồn tại không thể tách rời “không” (bản thể). “Sắc” còn được hiểu là vật chất đối lập với “không” là tâm, là tinh thần. Theo tư tưởng Bát Nhã thì sắc tức là không, không tức là sắc, sắc chẳng khác không; không chẳng khác gì sắc. Trong sắc có không, trong không có sắc. Kinh Phật thường co cụm từ sắc sắc không không để nói về sự vô thường của đời sống.
           Từ quan niệm “không” đó, Phật giáo đưa ra khái niệm “Pháp”. Nói đến pháp là để nói đến lý thuyết chỉ ra các dạng tồn tại của thế giới – các sự vật, hiện tượng của thế giới vật chất. “Pháp” được hiểu là mỗi sự vật, mỗi hiện tượng hiện hữu từ nhỏ như hạt bụi đến lớn như hành tinh của chúng ta đang ở cũng là một pháp, cho đến những cái không có trong thực tế nhưng người ta có khái niệm như lông rùa, sừng thỏ cũng được gọi là một pháp. Như thế, thế giới tồn tại “hằng hà sa số” các pháp. Thế giới vật chất, các sự vật, hiện tượng trong vũ trụ tức “vạn pháp” được sinh ra từ bản thể chân như, hay “không” đó. Nó cũng chính là “thực tướng” của thế giới “vạn pháp”. Các pháp có sinh, có diệt, còn, mất nhưng bản thể, tức thực tướngbất biến, không sinh, không diệt, nó được ví như nước, còn vạn pháp là sóng. Như vậy, “Thực tướng” là tướng chân thật của các pháp. Nó vô tướng, nó cùng với giả tướng tạo thành cặp phạm trù đối đãi. “Pháp” có nhiều loại, Pháp hữu vi: đó là những sự vật, hiện tượngcon người có thể cảm giácnhận thức được; Pháp vô vi: đó là những cái mà không thể cảm giácnhận thức được, Pháp hữu tình, Pháp vô tình, Pháp thiện, Pháp ác…
       Phật giáo còn đưa ra quan niệmNhân duyên” như là một yếu tố cấu thành nên tồn tại. Theo quan niệm của Phật giáo, tất cả các sự vật, hiện tượng tồn tại trong vũ trụ từ cái vô cùng nhỏ đến cái vô cùng lớn đều không thoát khỏi sự chi phối của luật nhân duyên. Nhân duyên là những điều kiện cần thiết để phát triển. “Nhân” là hạt giống nhờ có cái duyên là những điều kiện cần và đủ để cho hạt giống phát triển, ví dụ như: đất, nước, ánh sáng,..mới sinh ra được thành quả. Qủa lại do cái duyên mà thành ra nhân khác, nhân khác lại nhờ có duyên mà thành ra quả mới…cứ thế nối tiếp nhau vô cùng, vô tậnthế giới, vạn vật, muôn loài cứ sinh sinh, hóa hóa mãi. Đạo Phậtmười hai nhân duyên là mười hai điểm mấu chốt để tạo thành con người: vô minh duyên hành, hành duyên thức, duyên thức danh sắc… Vậy nhân duyên là dung để chỉ quy luật chi phối sự vận động, biến đổi của vạn pháp: nhân là mầm tạo quả (nhân quả), duyên là điều kiện tác động, theo đó, các sự vật, hiện tượng trong vũ trụ, thế giới đều do nhân duyên mà thành. Nhân duyên hội đủ, sự vật sinh (sắc –rupa), nhân duyên không còn, sự vật diệt (không – sunnata).
        Thứ hai, tư tưởng “Vô ngã”, “Vô thường”
        Tư tưởng về bản thể luận của triết học Phật giáo được thể hiện rõ nhất qua các tư tưởng: “vô ngã” và “vô thường”.
      Phật dạy vạn vật chuyển biến không ngừng trong từng satna (từng giây, từng phút. Thậm chí chỉ bằng cái nháy mắt). Từ con người cho đến vũ trụ vạn vật đều vận hành theo quy luật: thành, trụ, hoại, không (hoặc sinh, trụ, dị, diệt) được ví như bốn mùa xuân, hạ, thu, đông hay sinh, già, bệnh, chết. Trong bốn thời kỳ đó, thời kỳ Trụ lại là hết sức ngắn ngủi, chỉ bằng một satna. Tức là mọi hiện tượng đang tồn tại thực tế trước mắt không phải là cố định mà ở trên một dòng biến đổi thường xuyên, vĩnh viễn vô thủy, vô chung: “nên biết tất cả các hành là vô thường, biến dịch, hư hoại, không đáng nương tựa. Phàm là các pháp hữu vi thì thật đáng nhàm chán. Phải cầu đạo giải thoát hầu thoát khỏi thế gian này”. Đó là sự vô thường của tất cả những gì hiện hữu. Quan niệm vô thường còn được các nhà tu hành dung để soi vào sự thay đổi thân xác con người. Ví dụ như Trần Thái Tông, ông quan niệm thân xác con người là một cái gì đó rất tạm thời và nằm trong vòng sinh diệt luân hồi. Từ đó mà tinh tiến tu hành không để thời gian đi qua mất một cách lãng phí, Bậc cổ đức có nói: “Qúy tấc bóng hơn thước ngọc”. Kinh Phật cũng thường có cụm từ “sắc sắc không không” để nói lên sự vô thường của đời sống. Vì thế gian vô thường nên mọi vật đều vô tự tính (không có tự tính hay không có bản thể riêng). Đó chính là sự vô ngã con người. Phủ nhận Atman và thuyết linh hồn vĩnh cửu của Upanishad, Phật giáo cho rằng không có một cái ngã thường hằng, bất biếncon ngườivạn vật trong vũ trụ. Cuộc sống như một dòng thác đổ, chảy mau và xôi xa, không phút nào ngừng chảy. Trong dòng chảy của đời sống, con người chỉ là tập hợp của ngũ uẩn thập nhị sứ, thập bát giới tạo thành cái ngã giả tạm với hai phần: thân và tâm. Thân là sự kết hợp của tứ đại (địa, thủy, hỏa, phong). Tâm là sự phối hợp của sáu căn tiếp xúc với sáu trần và sáu thức phân biệt được chia thành bốn loại: thọ, tưởng, hành, thức. Các yếu tố đó kết hợp, luân chuyển cho nhau mà tạo thành. Khi nhân duyên đầy đủ thì hợp thành, khi nhân duyên hết thì tan rã. “Tòng nhân duyên nhi sinh, tòng nhân duyên nhi diệt”. Vì nó không có thực thể, nên không có cái gì là cái tôi, là cái ta cả. Do nhân duyên tạo thành nên vô ngã. Nói cách khác sự tồn tại của thân xác không phải là cái bản thể đích thực của ta, nó vừa là nhất thời xét về mặt thời gian, đồng thời là sự kết hợp giả tạm của nhiều yếu tố mà tạo thành, nên thân người ta vô ngã. Trong kinh Tăng nhất A hàm, cuộc đối thoại giữa vua Menandre và Nagasena đã thể hiện rõ triết lý vô ngã của Phật giáo. Nhà vua chỉ vào từng bộ phận trên cơ thể của Nagasena mà hỏi rằng, những cái đó có phải là Nagasena không. Nagasena đều lắc đầu và hỏi lại vua rằng, từng bộ phận của cái xe có được gọi là cái xe không, vua cũng khẳng định là không. Từ ví dụ đó, Phật Thích ca giảng giải: sự hợp lại của một cái đầu, một cái mặt, hai mắt, hai tai, tiếng nói, hơi thở….được gọi là một người, một hữu thểTuy nhiên, cái được gọi là hữu thể đó cũng chỉ là giả tạm, giống như cái lều chỉ là giả hợp của tranh, tre, nứa, lá; cái xe chỉ là giả hợp của bánh, càng, gọng, nan hoa…Tách từng bộ phận đó ra thì không còn lều hay xe nữa.
         Chính từ quan điểm bản thể luận mà những tư tưởng căn bản của Phật giáo mới hướng tới việc lý giải nỗi khổ của đời ngườitìm cách giải thoát con người khỏi nỗi khổ trong thuyết “Tứ diệu đế”. Vì thế gianvô thường, con ngườivô ngã, nhưng do mê lầm, khao khát một sự thường hằng nên con người cố giữ những mong manh, ảo giác, cố tìm mọi cách thỏa mãn những dục vọng tầm thường. Đau khổ nảy sinh từ mâu thuẫn của lòng khát khao về cái vô hạn, trường cửu, trong khi đời người là hữu hạn, phù du. Về điểm này, Wapola Rahula viết: “Chỉ duy nhấtPhật giáo trong lịch sử tư tưởng loài người là đứng lên phủ nhận sự tồn tại của một cái ngã. Theo lời Phật giảng, ý tưởng về cái ngã là một tín ngưỡng sai lầm và tưởng tượng, không hề phù hợp chút nào với hiện thực và đó là nguyên nhân gây ra những ý nghĩa nguy hiểm về “cái tôi” và “của tôi”, những ham muốn vị kỷvô độ, ràng buộc, căm ghét, ác tâm, những ý niệm kiêu căng và xú ố, dơ bẩn và những vấn đề khác. Nó là nguồn gốc rối loạn của thế giới…”
         Các quan niệm của triết học Phật giáo Việt nam, trên cơ sở kế thừa những tư tưởng bản thể của triết học Phật giáo nguyên thủy, đồng thời cũng đưa ra nhiều quan điểm thể hiện những đặc thù trong tư tưởng của Phật giáo Việt Nam.
         Một trong những dòng tư tưởng xuất hiệnViệt Nam và đưa ra những quan điểm về bản thể luận tương đối sâu sắc theo quan điểm của Phật giáo là phái thiền Tì Ni Đa Lưu ChiVô Ngôn Thông thời Bắc thuộc. Phái thiền Tì Ni Đa Lưu Chi là trường phái theo quan điểm giữ vững sự định tâm để cho trí tuệ bát nhã vốn có trong mỗi người xuất hiện, đưa con người từ sự mê lầm do vô minh đến bờ bến giác, giúp con người nhìn ra thực tướng của vạn pháp. Là dòng thiền chứa đựng yếu tố của mật giáo nhưng đời sống tu hành lại mang đậm màu sắc Ấn Độ nên ở giai đoạn đầu phái thiền này cũng chịu nhiều ảnh hưởng của Phật giáo Ấn Độ. Tì Ni Đa Lưu Chi quan niệm bản thểtâm phật được trao truyền (ấn) cho các đệ tử (tâm ấn). Tuy nhiên, cần hiểu “ấn” ở đây không phải là ấn cái tâm phật (tâm giác ngộ) từ người thầy sang trò. Mỗi người đều có mầm giác ngộ (Phật tính) vấn đềkiến thức (tức phát hiện, khai mở, hòa nhập với nó) sau khi đã diệt được vô minh, tam độc. Như vậy, tâm ấn thực ra không phải là tâm ấn mà mới chính là tâm ấn. Khi tâm mình đã đạt đến tâm phật tức là đắc pháp hay giác ngộ. Và người thầy khi thấy căn cơ của trò đã chín muồi bèn khai mở chứ không phải là khai ấn. Đó mới chính là bản thể. Bản thế này chân thật (không lừa dối), có ở khắp nơi (tràn đầy thái hư). Đó là “như như” (không thiếu, không thừa. không đi không lại, không tới không lui, không được không mất, bất sinh bất diệt, chẳng thường chẳng đoạn) như thế là như thế, không thể dùng ngôn ngữ, văn tự, thanh sắc mà mô tả được. Thân con người còn có sinh tử, đó là pháp diệt nhưng cái bản thể chân tâm đó thì không mất cùng thể xác mà trường tồn trong sự bất diệt của yếu tố khởi nguyên của tất cả. Nó là pháp tín. Bản thể này là pháp vô pháp, vượt trên sự đối đãi nhị nguyên, nó phi hữu, phi không (pháp vốn như vô pháp, không có cũng không không). Thực ra, với cách quan niệm như vậy, thiền phái Tì Ni Đa Lưu Chi đã thiên về cảm nhận trực giác về tồn tại và các biến thể của nó mà chưa đưa ra được những lý giải sâu xa cho sự tồn tại đích thực của thế giới bằng sự hiểu biết lý tính.
          Dòng thiền Vô Ngôn Thông thời Bắc thuốc đã có những kiến giải sâu sắc hơn trong quan niệm về bản thể luận so với phái thiền Tì Ni Đa Lưu Chi. Bị ảnh hưởng nhiều từ tư tưởng Phật giáo Trung Quốc nên tinh thần nhập thế của trường phái này được thể hiện rất tích cực. Quan niệm về bản thể của họ gắn liền với quan niệm pháp thân, Phật tính nhưng được triển khai sâu sắc hơn ở vấn đề kiến tínhđốn ngộ. Bản thểpháp thân, vốn không có hình tướng. Pháp thân này ứng hóa thành Phật có mặt ở mọi nơi vượt lên mọi đối đãi, vô thực vô hư khi đã giác ngộ (tức hội đắc được như) thì tâm thoát khỏi phiền não, trong sạch, thanh tịnh. Khi đó chân như, pháp thân là một. Con người sẽ thấy trước sau không có vật gì cả hết thẩy đều là hư vô. Sự phát triển tư tưởng của thiền phái Vô Ngôn Thông đến đây cho thấy quan niệm về bản thể của họ còn được coi là hư không.
         Nó là không mà lại là chỗ dựa cho tất cả bởi khi giác ngộ thì Phật ở khắp mọi nơi. Thế giới hiện tượng, vạn pháp (nhất thiết chư pháp) thực ra đềy do tâm sinh ra. Các pháp đó bề ngoài hình như đều có thật, là tồn tại nhưng vì dựa vào tâm mà tồn tại nên tồn tại không thật, vì thế nó chỉ là ảo ảnh, giả tạm. Nếu gạt bỏ một vài yếu tố duy tâm thì đây là một trong những tư tưởng vô cùng biện chứng được thể hiện trong tư tưởng triết học Phật giáo Việt Nam khi đưa ra sự giải thích trong vô lường biến hóa của thế giới bắt đầu từ sự tĩnh lặng đến vô biên của bản thể xuất phát. Cái thực có mà không, không mà có đó dường như mới là sự vận động đến tận cùng của cặp phạm trù khả năng và hiện thực trong triết học dưới con mắt nhìn của Phật giáo.
          Trường phái triết học Trần Thái Tông ra đời trong bối cảnh bắt đầu giai đoạn hưng thịnh của thời Trần với những bước phát triển mạnh mẽ trong kinh tế và ổn định đất nước nên nhu cầu về sự thu phục tư tưởng, tinh thần nhằm xóa bỏ những ảnh hưởng của các tư tưởng trước đó và dựng nên một hệ tư tưởng mới được đặt ra cấp bách. Kế thừa và phát triển những tư tưởng của các thiền phái trước, Trần Thái Tông đưa ra khái niệm “Không” cũng như hàng loạt các khái niệm có tính chất bản thể như: “tính”, “pháp tính”, “chân tính”, “tâm”, “phật”….Cũng giống như quan điểm “không” của Phật giáo Ấn Độ, các khái niệm trên đều dùng để chỉ cái bản thể không thể cảm nhận bằng trực quan, không thể diễn đạt bằng lời, nhưng là cội nguồn, nguyên khởi của mọi thứ. Đứng trên lập trường duy tâm, ông quan niệm sự tĩnh lặng hay biến động của tâm là nguồn gốc của sự biến đổisinh thành thế giới. Nếu tâm vô minh, vọng động thì thế giới hiện tượng xuất hiện. Khi tâm trở lại trạng thái tĩnh lặng, hư không thì mọi tồn tại đều biến mất. Tuy nhiên, về mặt khái niệm, chữ “Tâm” của  nhà Phật có ý nghĩa rất rộng mà khái niệm “ý thức” hay “tinh thần” chỉ là một bộ phận của nó.
         Tuệ Trung Thượng sĩ được coi là người đầu tiên đưa ra khái niệm “bản thể”. Theo ông, bản thể là cái chất ban đầu, cội nguồn, gốc rễ căn bản nhất của sự vật. Không tịnh là thuộc tính của bản thể và cũng chính là bản thể, nó là cái sâu thẳm trong sự vật không thể nhận ra, còn cái mà ta nhận thức được chỉ là tướng và dụng của nó (giống như quan niệm của Đạo gia).
          Triết học thiền phái Trúc  Lâm Yên Tử với các nhà tư tưởng tiêu biểu như Trần Nhân Tông, Pháp Loa, Tam tổ Huyền Quang…lại quan niệm “bản” hay “gốc” chính là lòng trong sạch (Bụt), là tính sáng (giáng tính), là bản tính (quan niệm của Trần Nhân Tông). Cái đó: “ban đầu vốn có ở mỗi người, nhưng trong cuộc sống, do tham, sân, si và vô minh nên mọi người hoặc làm cho nó lu mờ, hoặc đánh mất (khuây bản)… bởi vậy, vấn đề là phải trở về với cội nguồn, trở về với gốc, rửa hết trần duyên”. Với bản tính sâu trầm và chân tâm trong lặng như thế để đạt tới cội nguồn của nó con người phải diệt nghiệp, tạo tâm thì sẽ thành Phật. Theo cách hiểu như vậy, bản thể còn là chân tính (theo quan niệm của Pháp Loa). Nó là cái kiến chân thực (thực kiến) không bao giờ thay đổi bởi nó đã nhìn đến tận cùng thực tướng của hiện hữu. Để đạt tới trạng thái này con người phải tịnh giới, tức là: “làm cho tâm yên, cảnh lặng, lục căn không vì thức mà hướng ra ngoài, thức không bị cảnh níu kéo mà hướng vào trong, căn trần tự tại, dừng nhưng không phải bất động” rồi từ đó tiến tới định tâm (điều cốt yếu của phép thiền định), phải kìm được tâm vượn, ý mã thì mới đạt tới trạng thái tuệ, khi con ngườitrí tuệ viên mãn, chiếu rọi muôn phương, làm cho muôn vật hiện ra sáng tỏ từ cái tâm của mình…
          Như vậy, quan niệm về bản thể luận trong triết học Phật giáo nói chung và các nhà tư tưởng Việt Nam nói riêng, thiên nhiều về cách lý giải bản nguyên tồn tại của thế giới trên lập trường duy tâm. Nhưng vượt ra khỏi sự hạn chế về mặt nhận thức đó, những đoán định của họ về một thế giới vận động không ngừng nghỉ, về tính muôn vẻ của thế giới dường như phải có nguồn gốc thống nhất từ một bản thể là những tư tưởng triết học sâu sắc và thâm thúy, vượt khỏi tầm kiểm soát của trực quanthực chứng, làm nên nét biện chứng đặc sắc trong tư duy triết học của người Phương Đông./.
             Tài liệu tham khảo
            1. Nguyễn Hùng Hậu (2002), Đại cương triết học Phật giáo Việt Nam, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội.
            2. Kinh Trường A Hàm, Tập 2, Thích Minh Châu dịch, Nxb. Chính trị Quốc gia Hà Nội, 2000.           
            3. Phân viện nghiên cứu Phật họcGiáo hội Phật giáo Việt Nam (2004), Từ điển Phật học Hán Việt, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội.
            4. Walpola Rahula (1974), Tư tưởng Phật học, Trí Hải dịch, Ban tu thư Phật học Vạn Hạnh, Sài Gòn.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 15653)
Liên hệ của mọi cá thể trong vũ trụ này là liên hệ duyên sinh. Cái này có mặt là nhờ sự có mặt của những cái khác, không có cá thể nào tự tồn tại riêng biệt...
(Xem: 13737)
Mưa thật nhiều suốt đêm qua, những ánh chớp loé sáng, vẫy vùng trên bầu trời như rượt đuổi nhau với những nụ cười sáng rực. Mưa trút xuống dù không mời gọi, như réo rắc...
(Xem: 13902)
Trăng thì vằng vặc trên cao, trên bầu trời, sáng đẹp. Nhưng, trăng của tấm lòng, của chân tâm, thật là gần gũi, bình dị, trong sáng, thanh tịnh, không một gợn sóng mây...
(Xem: 14369)
Thuở xưa, khi Phạm Dự (Brahmadatta) là vua nước Ba-la-nại (Benares), Bồ-tát thọ sanh vào đời làm một chú Linh Dương sống trong một bụi cây gần bên hồ nước ở trong cánh rừng.
(Xem: 15168)
Trong học tập cũng như trong công việc, lười biếng, thiếu ý chí, thiếu kiên định là những nguyên nhân đưa đến sự thất bại. Khó tìm đâu trên cõi đời này một người có được thành công mà người đó là một kẻ lười biếng...
(Xem: 18064)
Mình có một đôi chân vững chãi, một đôi mắt sáng và một tấm lòng trong, hãy nương tựa vào mình. Đôi bàn chân sẽ cho bạn phương tiện đi tới...
(Xem: 15154)
Dạo ấy, vào khoảng cuối thập niên 50 và đầu thập niên 60 của thế kỷ trước, Phật học viện Trung phần Hải Đức tại Nha Trang thấy cần phải mở rộng việc đào tạo tăng tài.
(Xem: 14673)
Thời đại ngày nay, trong chúng ta ai mà lại không bận rộn, ai mà lại có dư thì giờ đâu bạn nhỉ? Mặc dù đôi khi tôi cứ nghĩ là chúng ta chỉ tự tìm cho mình sự bận rộn mà thôi!
(Xem: 17871)
Đời như cơn gió bên thềm, mênh mông, vô định. Có cái gì là của mình đâu mà trói buộc? Cứ nhẹ nhàng thôi, như gió bên thềm vậy...
(Xem: 20704)
Sự vững chãi của bạn là một điều nhiệm mầu. Bởi có rất nhiều người đang tin vào bạn, họ sẽ vững chãi theo và niềm tin ấy miên viễn trong tâm thức...
(Xem: 19503)
Xuất gia có nghĩa là ra khỏi nhà, rõ hơn là ra khỏi căn nhà mình đang ở; dứt khoát bỏ mà đi khỏi căn nhà mình đang được chở che bảo bọc, hay đang bị ràng buộc, hệ lụy vương mang.
(Xem: 17073)
Tình yêu không làm cho ai khổ đau, nhưng ở trong đời có quá nhiều người bị khổ đau bởi tình yêu là do trong tình yêu của họ có nội dung của khao khát, chiếm hữu, riêng tư và tình dục.
(Xem: 15723)
Sau bữa ăn trưa, tôi hỏi một vị Tăng sĩ trẻ, Thầy đã ăn xong chưa? Vị ấy trả lời - dạ! con đã ăn xong. Tôi cười và nói, Thầy chưa ăn xong đâu, ngày mai Thầy lại tiếp tục ăn lại...
(Xem: 17151)
Trong đời sống hàng ngày, ta cố ý nói sai sự thật để đánh lừa người khác là chính ta không những chỉ phá hoại và làm thương tổn lời nói của ta, mà chính ta còn làm thương tổnphá hoại sự hiểu biết và nhân cách của ta nữa.
(Xem: 15885)
Bạn biết không? Mọi niềm vui xảy ra trong thế gian đều dẫn đến hậu quả của thất vọng và khổ đau. Tại sao? Vì lòng tham của con người đối với các lạc thú thế gian là vô hạn...
(Xem: 15187)
Sống giữa đời, ai cũng mưu cầu một vài niềm hạnh phúc. Hạnh phúc được xem nhưmục tiêu thiết yếu nhất mà loài người nói riêng và vạn loài tồn sinh khác nói chung hướng đến tìm cầu.
(Xem: 14954)
Trong cuộc sống có đôi khi chúng ta lầm tưởng, mọi thứ đều diễn ra quá êm đẹp và theo chiều hướng tốt để ta có thể đạt được cái mà chúng ta muốn có.
(Xem: 14971)
Có thể nói vạn vật hữu hình khó đứng vững và tồn tại trước những cơn thịnh nộ của bão tố. Thế nhưng, đôi khi đâu đó cũng có những cành hoa bé nhỏ yếu ớt đã sẵn sàng trụ lại sau những cơn cuồng nộ của tự nhiên.
(Xem: 18001)
Mỗi khi nghe đến mấy bài hát diễn tả những sinh hoạt nơi đồng quê, như cảnh gặt hái của ngày mùa, hay những buổi tối giả gạo dưới trăng tôi chợt nhớ đến quê tôi tha thiết.
(Xem: 15743)
Chúng ta luôn đặt ra cho mình rất nhiều mục tiêu, song trên bước đường theo đuổi chúng, phải chăng bạn đã đánh mất giá trị tự thân của cuộc sống? Lao đầu vào việc theo đuổi mục đíchtrở thành nô lệ của mục đích.
(Xem: 16717)
Việc con người chạy theo các dục, vì họ sống với các chủng tử tâm hành liên hệ đến vô minh, mọi sinh hoạt của họ là sinh hoạt trong bóng đêm, và ngay cả ánh sáng cũng chỉ là bóng đêm của họ mà thôi...
(Xem: 14409)
Khu vực tôi ở có một con đường hai hàng thông cổ thụ, tàn lá giao nhau như lọng che, vừa tạo nét đặc thù, vừa luôn luôn cho bóng mát.
(Xem: 14318)
Mùa hạ về… bao suy tư được trải nghiệm, bao ước vọng lại xâu kết bên lòng. Âm vang ngày hạ là nắng là hoa, là hương thơm từ đất, là hơi ấm từ bóng mặt trời lan tỏa.
(Xem: 16543)
Ông lão ăn xin nom thật tội nghiệp với một tay chống gậy, một tay run run cầm chiếc nón rách hướng về phía chị, giọng thều thào...
(Xem: 17414)
Những làn sóng biển đùa chơi với nhau và cùng nhau chạy vào bờ chạm lên cát trắng, rồi tan biến vô sự giữa trời nước mênh mông. Sóng là nước và nước là sóng.
(Xem: 18618)
Thuở xưa, khi vua Phạm Dự (Brahmadatta) trị vì Ba-la-nại (Benares), Bồ-tát thọ sanh làm một con Tắc kè. Bấy giờ, có một ẩn sĩ khổ hạnh sống trong một thảo am...
(Xem: 16964)
Chúng ta tự thuyết phục mình rằng cuộc sống sẽ tốt đẹp hơn sau khi ta hoàn tất một dự án này, học hết chương trình này, xong một khoá trị liệu này...
(Xem: 16373)
Ananda là đại đệ tử của Phật. Là em chú bác của Phật, ngài từ bỏ đời sống vương giả, xuất gia theo Phật, hầu cận bên cạnh Phật suốt đời.
(Xem: 15653)
Chỉ hai tuần, sau khi dọn tới căn nhà mới, tôi đã biến đổi hoàn toàn mảnh vườn, khi được người chủ nhà bảo: “Muốn trồng gì, làm gì, xin tùy ý!”
(Xem: 16438)
"Hãy cho con thành một đóa hồng cao lớn, bởi vì con ước mong được ngẩng cao đầu với một niềm kiêu hãnh; đây sẽ là việc của riêng con, con bất chấp số phận mình ra sao."
(Xem: 15416)
Hình ảnh một thiền sư chậm rãi thiền hành trong nắng mai hay an nhiên lặng lẽ tĩnh tọa giữa rừng chiều là tặng phẩm tuyệt đẹp cho những ai có tâm hồn nhạy cảm...
(Xem: 14244)
Em là những giọt nước nằm sâu dưới lòng đất, nhưng em muốn đi về với đại dương có được không anh? - Được chứ, điều ước mơ của em là rất đẹp...
(Xem: 15395)
Trước kia các cuộc khủng hoảng phát minh bởi sự khai thác những tài nguyên và bóc lột khả năng con người. Hiện tại khủng hoảng vì sự lạm dụng các học thuyết chủ nghĩa, nên càng khốc hại, nguy hiểm và phá hoại hơn.
(Xem: 14797)
Ngồi một mình bên tách trà xanh, nhìn chung quanh mình là mùa thu có màu vàng bao phủ khắp không gian. Thiên nhiên khoe mình, kiêu hãnh.. biết bao nhiêu cây lá mỉm cười...
(Xem: 7545)
... cái quan niệm ta có về Bụt ấy cũng như một cái hố xí, và theo nghĩa đó, Bồ TátLa Hán cũng chỉ là những kẻ đem tới gông cùm.
(Xem: 17166)
Thầy giáo yêu cầu mỗi chúng tôi mang một túi nilông sạch và một bao tải khoai tây đến lớp. Sau đó, thầy bảo cứ hễ chúng tôi không tha thứ lỗi lầm cho người nào đó thì hãy chọn ra một củ khoai tây viết tên người đó và ngày tháng lên rồi bỏ nó vào túi nilông.
(Xem: 12281)
Dì Năm dự định mang cậu con trai về trại ruộng Thới Sơn, Châu Đốc nương náo với đồng đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa tu dưỡng thân tâm, tiện đường dì ghé lại chùa Tây An(1) đảnh lễ Đức Phật Thầy để cầu nguyện cho con sớm lành bệnh.
(Xem: 12207)
Thanh thường bị bè bạn chế giễu là “công tử miệt vườn”, có thể một phần vì gia đình chàng sở hữu một thửa vườn cây trái khá rộng – vườn Tám Thà - tại ngoại ô thị trấn Châu Đốc, nhưng cũng có thể cũng do bản tánh hiền lành chơn chất và “nhát gái” của chàng.
(Xem: 16509)
Một ngày nọ, Vua Salomon bỗng muốn làm bẽ mặt Benaiah, một cận thần thân tín của mình. Vua bèn nói với ông: "Benaiah này, ta muốn ông mang về cho ta một chiếc vòng...
(Xem: 14634)
Một lát sau, chiếc xe thứ ba chạy tới. Chiếc xe này không cũ, không có đông khách nhưng bạn vẫn không hài lòng: "Cái xe này không có điều hoà, thôi mình cố đợi chiếc sau".
(Xem: 14513)
Mùa Vu Lan lại về. Bên cạnh nụ cười rạng rỡ trên gương mặt những người diễm phúc còn có Mẹ, chúng tôi, những người cài hoa trắng, lòng bâng khuâng nhớ Mẹ đã khuất bóng nơi xa...
(Xem: 13821)
Đời có tươi thì có phai; tình có ấm lên thì có nguội. Vẫn biết thế nhưng tình cảm tự nhiên con nhớ Mẹ, thương Mẹ vượt ra ngoài biên giới chật hẹp của sự hợp lývô lý thường tình.
(Xem: 12440)
Em nằm yên giấc mồ côi Đoá hồng lắng đọng bên dòng phù du gió nguồn ngày tháng vi vu sóng đời dồn dập vô thường viễn xa...
(Xem: 13817)
Thằng bé nhìn con bướm chết lần cuối. Dưới ánh trăng đôi cánh nó lấp lánh như ánh vàng. ”Cậu đẹp thật đấy”, thằng bé nghĩ. Rồi một lát sau cậu thả con côn trùng rơi trên đất và chạy về phía mẹ.
(Xem: 12273)
Đây là một câu chuyện có thật, chúng tôi gọi là "Câu chuyện bát mì". Chuyện xảy ra cách đây năm mươi năm vào ngày 31/12, một ngày cuối năm tại quán mì Bắc Hải Đình, đường Trát Hoảng, Nhật Bản.
(Xem: 15318)
Cô con gái hay than thở với cha sao bất hạnh này cứ vừa đi qua thì bất hạnh khác đã vội ập đến với mình, và cô không biết phải sống thế nào.
(Xem: 13770)
Là một thành viên trong cộng đồng thế giới, tôi không thể nói rằng tôi không có trách nhiệm gì đối với những khổ đau, bất ưng, nghịch lý, bất công, hiểm nguy đang xảy ra chung quanh tôi.
(Xem: 13655)
Nỗi thất vọng lớn nhất của con người là chạy bươn về phía trước hay chạy ngược về phía sau để kiếm tìm cho mình một bản ngã. Bản ngã trong cơm áo, gạo tiền, trong kiến thức chữ nghĩa...
(Xem: 13146)
Ta làm và nói sai, nhưng ta lại được nhiều người khen ngợi mỗi ngày, như vậy mỗi ngày đi qua đời ta là mỗi ngày đưa đời sống của ta đi dần vào bóng đêm và từ bóng đêm này dẫn ta đi tới bóng đêm khác.
(Xem: 14033)
Có một phạm nhân trong thời gian cải tạo khi đang tu sửa lại đường đi, anh ta nhặt được 2 triệu đồng, anh ta không mảy may suy nghĩ liền mang số tiền này đến chỗ cảnh sát.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant