Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tu Sĩ Chưa Phải Là Phật

28 Tháng Năm 202319:15(Xem: 1678)
Tu Sĩ Chưa Phải Là Phật

Tu Sĩ Chưa Phải Là Phật

Đào Văn Bình

An Lạc Ở Đâu 1


Hiện nay có một hiện tượng đáng ngại là một số tu sĩ thuyết pháp có một số tín đồ nghe theo, hoặc là trụ trì, trở nên vô cùng ngã mạn có những hành động, cử chỉ, lời nói khinh mạn tín đồ và tự cho mình đã chứng đắc có khi còn hơn cả Phật. Câu hỏi đặt ra là: Là trụ trì, hoặc thuyết pháp có cả triệu tín đồ đi theo, phát hành cả trăm băng đĩa, như thế đã là Phật chưa?

            Xin thưa, tu sĩ là người xuất gia không còn dính líu tới gia đình, gia nhập tăng/ni đoàn để học hỏi giáo lý của Đức Phật và làm theo lời dạy của Phật tức là tu sửa. Họ là đệ tử của Phật chứ không phải Phật cho dù họ có là đại thánh tăng, đại sư thuyết pháp. Một số nhà báo Tây Phương đã gọi Đức Đạt Lai Lạt Ma là Phật Sống nhưng ngài nói rằng đừng có bậy bạ gọi tôi là Phật Sống (Living Budha) mà tôi chỉ là đệ tử của Đức Phật. Giảng dậy, truyền bá giáo lý của Đức Phật chỉ là tu sĩ chứ không phải Phật dù nói hay nói giỏi cách mấy dù có cả triệu người đi theo.

            Phật là bậc đã thành đạo và không phải tu nữa. Khi Thái Tử Tất Đạt Đa còn đang tu, các đạo sĩ Bả La Môn gọi thái tửĐạo Sĩ Cù Đàm. Khi Đức Phật thành đạo thì danh xưng Đạo Sĩ Cù Đàm biến mất và tất cả chúng sinh  cõi TrờiCõi Người kể cả tu sĩ Bả La Môn đều gọi ngài là Phật và khi thưa thỉnh thì nói, “Bạch Thế Tôn” hay “Thế Tôn Hi Hữu”. Khi còn mang các danh xưng như: Tăng Thống, Pháp Chủ, Đại Lão Hòa Thượng, Ni Trưởng, Thượng Tọa, Đại Đức, Sư Cô…thì vẫn là người còn đang tu…chưa đắc quả, chưa phải là Phật, Bồ Tát hay A La Hán. Khi đắc quả rồi thì không còn mang các danh xưng đó nữa. Khi đó sẽ gọi: Ngài A La Hán A, Ngài Bồ Tát B, Đức Phật Di Đà, Đức Phật A Súc Bệ, Đức Phật Nhiên Đăng, Đức Phật Thích Ca v.v..

            Tu sĩ vẫn là phàm phu với tất cả đam mêdục vọng của con người mà các nhà bình luận Hoa Kỳ nói rằng “Priests are human beings” khi loan tin về các giáo sĩ rửa tiển, sống đời xa hoaphạm tội dâm ô với trẻ em.Tu sĩ chỉ khác với phàm phu là họ đang trên bước đường tu hành theo lời Phật dạy. Lịch sử Phật Giáo cho thấy dù có dùng cả sinh mạng quyết tử của mình để tu, thì vô lượng kiếp nữa mới thành Phật, A La Hán hay Bồ Tát. Trong Thiền Luận, Đại Sư Suzuki nói rằng A La Hán Thừa, Bồ Tát Thừa, Phật Thừa đều là ảo vọng. Thế nhưng với tinh thần của Bát Nhã Tâm Kinh thì trong Hữu đã tiềm tàng Vô và trong Vô đã tiềm tàng Hữu. Có một vị Bồ Tát đã xuất hiện giữa Thế Kỷ XX, đó là Bồ Tát Thích Quảng Đức. Sự kiện Bồ Tát Thích Quảng Đức ngồi tĩnh tọa trong biển lửa đã khiến thế giới rúng động và kinh ngạc và gọi ngài là “Bậc Đại Định”. Khi còn nghĩ đến tiền bạc, chức vụ, bằng cấp, thú vui, hát Karaoke, tối ngày chúi mũi vào i-phone, i-pad xem các chương trình giải trí, ca nhạc, hề chọc cười thiên hạ…thì làm sao có thể đại định để ngồi tĩnh tọa trong biển lửa? Thi sĩ Vũ Hoàng Chương đã tán dương cuộc tự thiêu của ngài Quảng Đức qua những vần thơ:

Ôi  ngọn lửa huyền vi!
Thế giới ba nghìn phút giây ngơ ngác

Chỗ Người ngồi: một thiên thu tuyệt tác
Trong vô-hình sáng chói nét TỪ-BI.

            Xin nhớ cho, Đức Phật là vị đã thành đạo quả rồi cho nên rủ lòng từ bi mà giảng pháp để cứu vớt chúng sinh.

-Đức Phật đã rũ sạch lòng tham cho nên giảng dạy cho chúng sinh cách trừ bỏ lòng tham.

-Đức Phật đã không còn dính líu một chút sân hận nào cho nên giảng dạy chúng sinh từ bỏ lòng sân hận.

-Đức Phật đã từ bỏ tất cả các si mê, quyến rũ của cõi đời này cho nên giảng dạy cho chúng sinh cách trừ bỏ đầu óc si mê.

-Đức Phật đã phá bỏ tự ngã – nguyên do của mọi tội ácphiền não cho nên giảng dạy cho chúng sinh phá chấp, phá bỏ tự ngã.

-Đức Phật đã diệt trừ được lòng kiêu căng phách lối cho nên giảng dạy chúng sinh cách phá bỏ tính kiêu mạn.

            Nương theo gương Đức Phật, tôi mạo muội đề nghị.

-Quý tăng/ni nào thực sự đã từ bỏ được lòng tham thì mới nên đăng đàn thuyết pháp giảng dạy Phật tử từ bỏ lòng tham.

-Quý tăng/ni  nào thực sự đã từ bỏ được máu sân, máu hận thì mới nên đăng đàn giảng dạy Phật tử từ bỏ tính sân hận.

-Quý tăng ni nào thực sự đã từ bỏ được tính đam mê như đam mê sắc đẹp, tiền bạc, chức vụ, ca hát, vui chơi giải trí, các trò thể thao như đá bóng, các món hàng mới đắt tiền…thì mới nên đăng đàn thuyết pháp dạy dỗ Phật tử từ bỏ tính si mê.

-Quý tăng/ni nào thực sự đã phá bỏ được tự ngã và tính kiêu mạn thì hãy đăng đàn giảng dạy Phật tử đừng có kiêu căng phách lối. Kiêu căng phách lối là nguồn gốc của nhiều tai họa và bị người đời khinh ghét.

            Thật không có gì tức cười cho bằng một ông bác sĩ ho sù sụ mà lại cho thuốc chữa ho cho bệnh nhân. Bản thân mình còn ho, thuốc chữa không hết thì làm sao chữa trị được bệnh nhân? Ông/bà bác sĩ nào làm như thế là tự lừa dối mình và dối người.

            Ngàn đời nay, “Tri dị, hành nan”. Nghiên cửu kinh điển, thuyết pháp, đậu bằng tiến sĩ Phật Học thì dễ, nhưng thực hành theo lời Phật dạy thì muôn vàn khó khăn. Ai cũng có thể là tín đồ của Phật, nhưng tu theo Phật thì khó lắm. Tham-Sân-Si gắn chặt vào não tủy, làn da sớ thịt  con người. Nó là nghiệp lực từ vô thủy của chúng sinh. Hiện nay Tham-Sân-Si mỗi lúc mỗi phình to ra và nó là thứ vô cùng hấp dẫn và là lạc thú của con người. Với sự bùng nổ của kỹ nghệ truyền thông, mọi thú vui, mọi trò hấp dẫn có thể chui vào cả phòng khách, phòng làm việc, phòng ngủ của người ta, cả chùa và trường học. Con người tìm kiếm lạc thú như thiêu thân lao vào ánh lửa. Từ bỏ nó rất khó cho nên tôi mạo muội đề nghị quý tăng/ni hãy bớt nói, bớt dạy dỗ chúng sinh, bớt thuyết pháp và tập trung hết nghị lựctrí tuệ để tu thân, để chống đỡ lại Tham-Sân-Si. Chỉ khi nào thấy mình chứng đắc thì mới đăng đàn thuyết pháp, dạy dỗ chúng sinh. Xin nhớ cho tăng/ni chỉ là đệ tử của Đức Phật, khi thuyết pháp phải luôn luôn nói, “Trong kinh này, Đức Phật dạy như thế này…” Đừng có nhập nhằng như thể những điểu giảng dạy đó là của mình, của tôi “sáng chế” ra. Dĩ nhiên tu sĩ có quyền đưa ra những kinh nghiệm riêng trong việc tu hành để giúp quý Phật tử. Nhưng kinh nghiệm không phải là Kinh. Kinh là gốc là ánh sáng soi đường. Còn kinh nghiệm thì có nhiều thứ kinh nghiệm khác nhau. Thậm chí luận giải về kinh Phật của chư tổ cũng có nhiều luận giải khác nhau và chống đối nhau. Theo tôi thấy, các bậc tu hành chân chính bất kể pháp môn nào nếu đắc quả thường bình dị, khiêm tốn và dường như đã bỏ bớt được Tham-Sân-Si. Cố Pháp Chủ Thích Phổ Tuệ - vị thánh tăng của thời đại nói rằng từ khi tu hành lúc mười mấy tuổi ngài chưa dùng của bố thí của đàn na thí chủ. Ngài tự cầy cấy lấy mà ăn. Ngài sợ tiền bạc. Giáo Hội mời ngài về ở chủa to ở Hà Nội ngài nói rằng tôi ở đây đã quen từ thuở nhỏ rồi. Còn chức vụ Pháp Chủ chỉ làm ngài lo lắngphiền não hơn. Khi giảng dạy cho tăng/ni ngài nói rằng, “Không Giới-Định-Tuệ” thì lấy gì để giảng dạy Phật tử? Tất cả những điều đó cho thấy ngài đúng là vị thánh tăng của thời đại và đúng là trưởng tử của Như Lai và là mẫu mực cho đời sau.

            Quay trở lại với căn bệnh ngã mạn của tăng ni. Xin quý tu sĩ đừng nghĩ rằng “Đạo Phật là tất cả”. Đừng nghĩ rằng tôi tu theo Phật thì tôi sẽ trở thành bậc cứu nhân độ thế. Đức Đạt Lai Lạt Ma nói rằng Đạo Phật chỉ có thể làm được một số điều chứ không thể giải quyết được tất cả mọi chuyện trên thế gian này. Đạo Phật có thể xây dựng một nền tảng đạo đức cho dân tộc. Còn sự cường thịnh của một quốc gia cần có  hệ thống giáo dục tân tiến từ Tiểu Học đến Đại Học, phát triển kinh tế, khoa học, kỹ thuật, có chiến lược ngoại giao khôn ngoan và có vũ khí tối tân để bảo vệ đất nước. Đây là trách nhiệm của những vị lãnh đạo. Sự đóng góp của các học giả, các nhà trí thức, các tổ hợp óc (think tank) không phải tu sĩ - rất quan trọng. Một đất nước có cả triệu tu sĩ vẫn lạc hậu. Một đất nước có vài ngàn khoa học gia lỗi lạc sẽ thống trị nhân loại.

            Tôi không rõ sau một ngày bận rộn với Phật sự như các khóa lễ, cầu siêu cho người chết, cầu an cho người sống, thuyết pháp… buổi tối quý tăng/ni làm gì? Thay vì chũi mũi vào i-phone, i-pad để thưởng thức các trận đá bóng ở trởi Tây, các chương trình ca hát, chọc cười thiên hạ đôi khi rất rẻ tiền và đủ loại trình diễn thời trang, thi hoa hậu, tuyển lựa ca sĩ, MC tán dóc…để gọi là “giải trí”. Tôi đề nghị quý tăng/ni sau khi cổng chùa khép lại, nên bỏ lại sau lưng tất cả những phiền trược, ảo ảnh của cuộc đời. Nên dành thời giờ để nghỉ ngơi và nhất là thực hành quán chiếu. Điều quán chiếu quan trọng nhất ở đây là quán Tứ Trọng Ân: Ơn Cha Mẹ, Ơn Thầy Cô, Ơn Đất Nước và Ơn Chúng Sinh.

            Trong những giây phút vắng lặng nhất, quý vị hãy tự hỏi, hãy quán chiếu xem:

-Ngôi chùa hay tịnh xáchúng ta đang ở đây do ai xây dựng? Có phải do tiền bạc của tăng/ni hay cha mẹ bỏ ra để xây dựng hay do sự đóng góp của quý Phật tử và sự giúp đỡ của chính quyền? Hiện nay biết  bao nhiêu thông cáo xin Phật tử trong và ngoài nước đóng góp tiền bạc để xây chùa hay trùng tu lại chùa đã mục nát. Như vậy chùa đâu phải của tăng/ni mà là của bá tánh, của Phật tử.

-Chiếc giường với nệm ấm, chăn êm và cả máy điều hòa không khí mà chúng ta đang nằm đây do đâu mà có? Có phải do tiền bạc đóng góp của bá tánh không? Ngày xưa Đức Phật và các đại đệ tử của Ngài đâu có nệm ấm chăn êm như tăng/ni ngày hôm nay và phải ngủ ở dưới đất, dưới cội bồ đề, dưới tàng cây, hay trong hang núi, may mắn lắm mới có cỏ khô để lót.

-Bộ quần áo mà chúng đang mặc đây là do chính chúng ta làm việc cực khổ rồi bỏ tiền ra mua hay do Phật tử ban tặng?

-Bao nhiệu tiện nghigiáo hộităng ni được hưởng như: Điện nước, đường xá, cầu cống, xe cộ, máy móc. Những thứ đó do Đức Phật, chư Tổ, tăng/ni tạo ra hay do chúng sinh làm ra?

-Bầu không khí an ninh giúp quý tăng/ni an tâm tu hành, không bị cướp bóc, lấy đi thùng phước sương và có khi giết sư để lấy tiền, hãm hiếp cả ni cô. Điều tốt lành này do đâu mà có? Có phải do nhân viên an ninh, cảnh sát làm việc ngày đêm để bảo vệ sự an toàn cho dân chúng trong đó có cả tăng ni?

-Quán chiếu xa hơn nữa, đất nước này yên bình, không có chiến tranh, không bị ngoại bang xâm chiếm, phá tan đất nước, tiêu hủy chùa chiền, văn hóa dân tộc… có phải do binh sĩ luôn luôn canh phòng biên giới và biển đảo để quý vị đang ngồi hưởng đây? Nuôi dưỡng một đạo quân đầy đủ như thế là do tiền thuế của người dân đóng góp. Còn tu sĩ thì không phải đóng thuế.

            Trong cuộc sống hợp quần này, chúng ta nương tựa vào nhau để tồn tại. Không một ai có thể sống một mình. Tất cả những gì nói ở trên đều là ân nhân của chư tăng/ni. Mà đã là “ân nhân” của mình thì mình phải kính trọng. Cho nên thái độ kiêu mạn, khinh thường chúng sinhthái độ sai trái đi ngược với giáo lý của Đức Phật và không thể chấp  nhận được. Trên trang tin Drukpa VietNam đã trích dẫn khai thị của Đức Kyabje Trulshik Adeu Rinpoche trong đó có đoạn, “Bước đầu tiên để phát khởi Bồ đề tâm là phải có sự tư duy rằng tất cả chúng sinh đều thực sự là cha mẹ của mình.” Trong một bài viết của Thị Giới đăng trên Thư Viện Hoa Sen đã có đoạn, “Quán tất cả chúng sanh là mẹ, là một pháp quán trong việc phát triển tâm Bồ-đề.”

cư sĩ Nguyên Giác cũng đã trích dẫn kinh Tương Ưng Vô Thỉ (Anamatagga) II: Phẩm Thứ Hai như sau: Trú ở Sāvatthi. Vô thỉ là luân hồi này, này các Tỷ-kheo …Này các Tỷ-kheo, thật không dễ gì tìm được một chúng sanh, trong thời gian dài này, lại không một lần đã làm cha …Như thế trong đám chúng sinh này biết đâu một người nào đó là cha mẹ mình trong kiếp trước.Và trong Kinh Hoa Nghiêm, “Hằng thuận vỉ lợi ích chúng sinhcúng dường chư Phật”.

            Vậy thì mục tiêu tối hậu của tu sĩ không phải vì mình mà vì người. Cũng như binh sĩ hy sinh chiến đấu không phải vì mình mà vì đất nước. Sức mạnhphụng sự. Tăng/ni không phải là một chức vụ để ngồi đó thừa hưởng vái lậy và dâng cúng của Phật tử. Tăng/ni phải phục vụ Phật tử, phải phục vụ quần chúng qua thuyết giảng giáo lý của Đức Phật, lấy bản thân mình làm tấm gương. Dùng tiền của đàn na thí chủ để xây bệnh viện, cô nhi viện, các đại học và tập trung vào công tác cứu giúp người tật nguyền, nghèo khó, chia xẻ trách nhiệm xã hội với chính quyền.

            Ngày nay Phật chẳng còn tại thế, Bồ Tát, A La Hán cũng chẳng có…thì tăng/ni phải là biểu tượng sống động của Phật. Mà biểu tượng sống động chính là phẩm hạnh và đạo đức. Khi tăng/ni hư đốn thì đạo suy tàn. Khi không còn Phật tử thì đạo diệt. Đạo Phật suy tàn tại Ấn Độ là vì không còn Phật tử. Khi Phật tử không đến chùa nữa thì chùa thành nhà hoang. Khi thánh tíchPhật tử không đến chiêm bái thì thánh tích cũng hoang phế.Vậy thì chớ coi thường Phật tửPhật tử là gốc rễ, chùa là thân cây, tăng/ni là hoa trái. Ba yếu tố này kết hợp nhuần nhuyễn với nhau, để trở thành một cộng đồng Phật Giáo, một quốc gia Phật Giáo sinh tồn. Một quốc gia không còn dân thì quốc gia ấy diệt vong. Do đó mà Mạnh Tử nói, “Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh.”

             Năm nay tôi đã 81 tuổi rồi, chẳng biết có còn sống tới ngày mai không. Tôi đã trải qua bao thăng trầm của lịch sử, vinh-nhục  đã nếm mùi, đã từng sống dưới chín tầng địa ngục. May nhờ Phật độ mà đầu óc còn minh mẫn, vì lòng chân thành, vì sự cao quý của Đạo Phật mà viết ra những điều như trên. Khác với Phật tử bình thường, các cư sĩ tu theo Phật không vì phước báu, không cầu xin, không vái lậy nhiều mà vì sự tuyệt vời của Phật Giáo. Giá trị của Phật Giáo được cả thế giới công nhận không phải là cầu siêu cho người chết và cầu an cho người sống và chết đi sẽ được vãng sinh Tịnh Độ. Giá trị của Đạo Phật là các đặc thù mà các đạo khác không có, đó là: Trí Tuệ, Từ Bi, Bình Đẳng và Hòa Bình.

            Muốn giương cao giá trị của Đạo Phật, tăng/ni phải sống như thế nào để không phải chỉ Phật tử Việt Nam mà cả thế giới kính nể. Ngã mạn, coi thường Phật tử, coi chúng sinh như con cháu trong nhà là điều vô cùng lạc hậu và kém văn minh. Nếu “Vạn pháp đều bình đẳng” thì Phật, tu sĩchúng sinh đều cùng một pháp tính (Viên Giác) như lời tụng hằng ngày của chư tăng/ni:

Phật, chúng sinh tánh thường rỗng lặng.

Đạo cảm thông không thể nghĩ bàn.

            Vậy thì người tu hành hãy kính trong chúng sinh và coi chúng sinh trong ba đời như cha mẹ mình. Kính trọng mọi người là phẩm hạnh cao quý. Người Hoa Kỳ không dùng câu châm ngônTiên Học Lễ Hậu Học Văn” nhưng người ta dạy học trò “Be respectfull” tức hãy kính trọng mọi người.

            Nam Mô Thường Bất Khinh Bồ Tát./.

Thiện Quả Đào Văn Bình
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1780)
Trong các kinh Bát nhã ba la mật giảng nói nhiều về tánh Không với những phẩm tính như vô tự tánh, vô sở hữu, bất khả đắc, vô sanh, như huyễn…
(Xem: 1756)
Phật phápgiáo lý của Đức Phật. Gọi là giáo lý tức là nhằm chỉ đến giáo dục với tất cả các phạm trù
(Xem: 2335)
Con người vĩ đại đó, tấm lòng trí tuệ đó, phương pháp giáo dục siêu việt đó của đức Phật đã khiến muôn nghìn trái tim của nhân loại hướng về Ngài
(Xem: 2043)
Định hướng tư tưởng là một vấn đề vô cùng quan trọng trong đời sống sinh hoạt của con người.
(Xem: 1828)
Ngược dòng lịch sử hơn 2.500 năm về trước ở xứ Ấn Độ, trước khi Đức Phật ra đời, nơi đây đã đơm hoa kết trái nhiều hệ tư tưởng khác nhau.
(Xem: 2404)
Con người sinh ra đời, sống và lớn lên trong gia đình được ấp ủ bởi tình thương của cha mẹ, tình anh chị em, tình bà con dòng họ.
(Xem: 1993)
Phải học kinh điển một cách khôn ngoan. Chúng ta biết rằng hơn 400 năm sau khi Bụt nhập diệt, kinh điển mới được chép thành văn.
(Xem: 2124)
Trong rất nhiều phương pháp giảng dạy thì phương pháp định hướng tư tưởng được đức Phật chú trọng sử dụng trong lời dạy của mình.
(Xem: 2304)
Đức Phật dạy về nhân quả thật rõ ràng. Ai gây nhân tạo mười loại nghiệp bất thiện thì chịu quả đi đến ác xứ, không thể đổi khác được.
(Xem: 2623)
Bình đẳng giới và trao quyền cho phụ nữ hiện đang được xem là yếu tố quan trọng đối với sự tiến bộ kinh tế, xã hộidân chủ
(Xem: 2646)
Buông là một triết lý nhân sinh của nhà Phật. Triết lý đề cao năng lựctrí tuệ cá nhân trên con đường vạn dặm dứt bỏ luân hồi nghiệp báo “trở thành Thánh Nhân (ariya savaka)”.
(Xem: 2139)
Phước đức là những việc làm lành thiện được làm ở bên ngoài hình tướng như bố thí, cúng dường, từ thiện, giúp ích cho mọi người…
(Xem: 2631)
Phật tử chân chính là người theo Phật, yêu quý Ngài, kính trọng giáo pháp của Ngài và đi theo con đường...
(Xem: 1934)
Thói đời, chúng ta thường hay nghe mọi người than rằng: “Kiếp nhân sinh của ta, là gì - ra sao?”
(Xem: 2058)
Đức Phật dạy được làm người là khó. Mong sao mọi người hiểu được Chánh pháp, cố gắng tu dưỡng để ít nhất được tái sinh trời, người.
(Xem: 2389)
Phật tử chân chính là người theo Phật, yêu quý Ngài, kính trọng giáo pháp của Ngài và đi theo con đường Tám Bước Cao Quý mà Đức Phật đã trải qua biết bao gian khổ mới tìm được.
(Xem: 2907)
Người giữ giới không sát sanh được Thiện thần bảo hộ, tai ách tiêu trừ, tuổi thọ dài lâu, con cháu hiếu thảo hiền lương, mọi chuyện đều may mắn tốt đẹp.
(Xem: 1825)
Phật Giáo đã có mặt trên quê hương Việt Nam kể từ thời bình minh dựng nước của 2000 năm trước.
(Xem: 1722)
Nhà thơ, nhà văn nổi tiếng người Đức Hermann Hesse có lần viết trong tác phẩm “Siddhartha” rằng: “Cả hai đều lắng nghe dòng nước, đối với họ đó không chỉ là dòng nước, mà còn là âm ba của cuộc sống, tiếng nói của cái đang là, tiếng nói của cái sắp là.”
(Xem: 1929)
Chúng ta sinh ra và lớn lên trong cuộc đời này nhưng không phải ai cũng hiểu được nhờ đâu mà ta sinh ra hay mất đi và vì nhân duyên gì mà ta khổ đau hay hạnh phúc?
(Xem: 1786)
Phật Giáo đã có mặt trên quê hương Việt Nam kể từ thời bình minh dựng nước của 2000 năm trước.
(Xem: 2332)
Nếu một người có nghị lực, tâm trí, trong sáng trong suy nghĩ, lời nóiviệc làm một cách cẩn trọngcân nhắc, kiềm chế các giác quan của mình, kiếm sống theo Luật (Dhamma) và không vô tâm, thì danh vọng và tài lộc của người có tâm đó đều đặn tăng lên.
(Xem: 2455)
"Một thời Đức Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng, vườn Cấp Cô Độc. Bấy giờ Đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
(Xem: 2142)
Hạnh “bố thí” là một trong sáu hạnh của Bồ-tát làm phương tiện đưa đạo vào đời, đem lại niềm vui và xoa dịu nỗi đau của chúng sanh.
(Xem: 1931)
Từ nơi cao rộng mới thấy bao quát toàn cảnh bên dưới. Nào là núi, nào là rừng. Núi xa thì màu nhạt đi, núi gần thì sậm màu đất đá. Rừng thưa thì thấy cả những đường mòn quanh co xuyên qua các thảm lá mục và những tảng đá phong rêu; rừng sâu thì chỉ xanh một màu lá.
(Xem: 1841)
Trong kinh Thừa tự pháp, đức Phật dạy hàng đệ tử nên thừa tự giáo pháp của Ngài chứ không nên thừa tự tài vật của Ngài.
(Xem: 2021)
Người xưa thường nói: “Chúng ta chỉ có thể kiểm soát được hành động, nhưng không thể kiểm soát được kết quả” Xin Hãy Buông Gánh Nặng Xuống.
(Xem: 1783)
Dù những vật hữu tình hay vô tình đều có cội nguồn hình thành, lá rụng về cội, nước chảy về nguồn.
(Xem: 2784)
Khi bàn về cái tôi, người ta thường nói hóm hỉnh rằng: trong cuộc sống, cái tôi mà thệm dấu nặng thì thành TỘI; cái tôi huyền thì thành TỒI; và cái tôi sắc thì thành.. TỐI.
(Xem: 1903)
Muốn đi vào con đường giải thoát an vui thì phải đi qua con đường vô ngã, phải giải trừ, phải giảm nhẹ tình chấp ngã, không đường nào khác.
(Xem: 2243)
Tôi chưa từng chứng kiến sự ra đi của bất cứ ai. Trước khi mẹ tôi trở nên quá yếu, tôi chưa từng thấy ai bệnh nặng cả.
(Xem: 2195)
xuất gia hay tại gia, giàu hay nghèo, nam hay nữ, trẻ hay già cũng đều phải biết điều tiết, chế ngự tâm mình.
(Xem: 2557)
Có người nói tu không cần học Phật Pháp cũng được, chỉ cần học một pháp môn nào đó rồi chuyên tu pháp môn đó thì kết quả còn tốt hơn học nhiều pháp môn mà không chuyên tu.
(Xem: 1875)
Phật tử, chúng ta phải hằng ngày tự thân tu tập, tụng kinh, niệm Phật, ngồi thiền để tự cải tạo tâm mình theo hướng chân, thiện, mỹ.
(Xem: 2045)
Đừng đặt nặng vấn đề sống, chết. Đừng nghĩ đến điều đó. Chỉ cần thanh lọc tâm trí của bạn, thì điều đó sẽ an bài tất cả mọi thứ.
(Xem: 1919)
Trụ là ở chùa; Trì là gìn giữ trông nom chùa. Nghĩa là đối với sự uỷ thác của thập phương tín thí, nhân dân sở tại phải hết tâm, hết sức.
(Xem: 2094)
Đã xuất gia thì không ai là người ác cả, ác Tỷ kheo dùng để chỉ cho những người xuất gia tiến bộ chậm, chưa chuyển hóa các tập khí xấu ác của chính mình.
(Xem: 2672)
Quốc gia nào cũng vậy, bên cạnh những cái đẹp vẫn có cái xấu. Nếu cái tốt nhiều, cái xấu ít thì không đáng lo ngại.
(Xem: 3791)
Trong cuộc sống thường ngày có nhiều người rất dễ rơi vào tình trạng đau khổ, bởi vì có quá nhiều áp lực, nhiều gánh nặng, nhiều ưu tư, nỗi buồn trong lòng.
(Xem: 2346)
Những thành bại, được mất, hơn thua, tranh đoạt, tham vọng và thù hận v.v… sẽ chẳng có giá trị gì nếu như gần kề với cái chết.
(Xem: 2364)
Theo Thế Tôn, người tu mà không có lòng tin thiện pháp là một biểu hiện của bần cùng.
(Xem: 1722)
Cây phong đầu ngõ đã dần dần chuyển sắc lá. Lá vàng chen lá xanh. Lác đác vài chiếc lá phong chỉ mới úa vàng đã rơi quanh gốc, không theo tiến trình sinh trụ hoại diệt của thiên nhiên.
(Xem: 2041)
Các vị thiền sư tu tập theo pháp Phật khẳng định rằng tuy tâm khônghình dáng nhưng chúng ta có thể phân biệt được lúc nào tâm khỏe mạnh và lúc nào tâm bệnh hoạn.
(Xem: 2392)
Hôm trước, tôi có chia sẻ một phương cách để đối trị vọng tưởng, tâm chạy đi lang thang chỗ này chỗ kia bằng cách...
(Xem: 2359)
Khi có một điều không may mắn, bất như ý xảy đến thì đa phần chúng ta đều nghĩ và thậm chí đổ lỗi là do nghiệp.
(Xem: 2209)
Buông bỏ tất cả để tu hành vốn không bị xem là ích kỷ, thậm chí đó là cao thượng nhưng rũ bỏ trách nhiệm trước một thực trạng gia đình ngổn ngang là không thể chấp nhận, đáng bị phê phán.
(Xem: 3196)
Pháp luân nghĩa là bánh xe Phật pháp. Dhamma trong tiếng Pali (Nam Phạn) có nghĩa là Pháp Bảo, lời dạy từ Đức Phật.
(Xem: 2185)
Nghiệp nói cho đủ là nghiệp quả báo ứng, tức đã gây nhân thì có kết quả tương xứng, và quả đến sớm hay muộn khi hội đủ nhân duyên, hội đủ điều kiện.
(Xem: 2578)
Đây là một lời dạy phù hợp với cái nhìn sâu sắc cốt lõi của Phật giáo: rằng chúng ta đau khổ bởi vì chúng ta tin rằng chúng ta có một cái tôi.
(Xem: 2102)
Một nhóm sinh viên đến chùa để tìm hiểu về đạo Phật và kiến trúc chùa nhằm phục vụ cho chương trình học. Có một em tự giới thiệu mình là tín đồ của đạo Thiên Chúa.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant