Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Vượt Thoát Tham Ái

14 Tháng Bảy 202319:12(Xem: 1452)
Vượt Thoát Tham Ái
 Vượt Thoát Tham Ái

Thích Trung Hữu

chu tieu 5

Giáo pháp của Đức Phật nhằm hướng dẫn, giúp chúng sinh đối trị, vượt qua phiền não của chính mình để chuyển hóa thân tâm từ ô nhiễm thành thanh tịnh, từ phàm phu đến bậc Thánh. Phiền não của chúng sinh thì có nhiều, trong đó khó trừ nhất là tham ái dục.

Tham dụcbản chất của con người, dĩ nhiên đó không phải là việc xấu. Đối với người đời thì việc lập gia đình, xây dựng hạnh phúc hôn nhâncần yếu. Người xưa cho rằng kết hôn là một trong ba việc lớn của đời người. Người tu thì chọn lối sống độc thân “từ bỏ gia đình sống không gia đình”, coi việc tham dục là một chướng ngại cho sự tu tập giải thoát.

Tuy nhiên, do tập khí tham ái từ vô thỉ nên không phải nói bỏ là có thể bỏ liền được mà phải từng bước tu tập để diệt trừ hạt giống tham ái cũ và làm phát sinh hạt giống bồ-đề mới. Và trong giai đoạn giao thời đó, sự nỗ lực của bản thân với những phương pháp tu tậpcần thiết.

Tham ái phát sinh là do đâu? Do rất nhiều nguyên nhân như nghiệp và tập khí từ quá khứ, hoàn cảnh hiện tại tác động, ý chí không vững, không có pháp tu làm nền tảng...

Nếu như tham ái phát sinh do sự hấp dẫn của thân thể thì cần tu pháp Quán thân bất tịnh. Trong kinh Đức Phật đã chỉ ra tính chất nhơ nhớp, không đáng ưa thích của cơ thể con người. Thân thể con người với lớp da bên ngoài nhìn có vẻ sạch sẽ nhưng bên trong lại là những thứ rất nhơ nhớp, hôi tanh. Nhìn rõ về thân thể như vậy, ta sẽ sinh tâm nhàm chán, không còn tham đắm vào thân thể nữa và lòng dục của ta sẽ nguội lạnh dần.

Về mặt cảm xúc, ta cần thấy rõ về khái niệm gọi là “tình yêu”. Khi ta cảm thấy luyến ái ai đó hoặc ai đó nói rằng họ yêu ta, thật ra không phải họ yêu đối tượng luyến ái mà chỉ là yêu cái cảm giác dễ chịu của bản thân do đối tượng kia đem lại. Ví dụ khi ta khát và uống nước, ta cảm thấy thích. Điều này không có nghĩa là ta yêu nước mà là ta yêu cái cảm giác hết khát do nước đem lại.

Ta có thể thích loại nước này nhiều hơn loại nước khác là bởi vì loại nước đó tạo cho ta cái cảm giác dễ chịu nhất. Và sau một thời gian, sở thích của ta thay đổi và ta sẽ chuyển sang thích loại nước khác. Khi đó, khái niệm “phụ bạc” hay “phản bội” trong tình yêu xuất hiện. Đối tượng tham ái vẫn vậy, không có gì thay đổi, chỉ có cảm giác của con người thay đổi mà thôi.

Vì thế, không nên ảo tưởng về cái gọi là “tình yêu vĩnh cửu”. Tình yêu vốn đã không có thì làm gì có vĩnh cửu. Có thể nhân loại ảo tưởng về tình yêu thật, nhưng cũng có thể họ biết rõ không có cái gọi là tình yêu nhưng cố ý tô hồng, ca ngợi nó để được yên tâm yêu. Cho nên không có gì mong manh hơn tình yêu, bởi vì không có gì mau thay đổi hơn cảm xúc của con người. Khi cảm xúc thay đổi, tức là tình yêu đã không còn như ban đầu thì mỗi người sẽ có cách xử sự khác nhau.

Nếu người đó có nền tảng đạo đức, trọng tình nghĩa, biết ơn thì người ta cư xử với đối tượng tham ái một cách nhân văn. Nhưng nếu như người không có nền tảng đạo đức thì khi cái bản ngã của mình bị đụng chạm, khi cảm xúc của mình không được thỏa mãn thì họ chỉ phản ứng theo bản năng, tức là hoặc phụ bạc, hoặc phản bội, hoặc tiêu diệt đối tượng.

Nếu thật sự có tình yêu, nếu thật sự có chuyện người này yêu người kia (chứ không phải yêu cảm xúc của bản thân) thì sẽ không có sự phụ bạc hay phản bội. Vì người ta chỉ yêu bản thân mình cho nên khi cảm xúc của bản thân không được đối tượng làm cho thỏa mãn mới dẫn đến tiêu diệt.

Chúng ta có khi nào nghe nói cha mẹ phụ bạc hay tiêu diệt con cái không? Đó là vì cha mẹ yêu con cái thật sự chứ không phải yêu cảm xúc của bản thân mình vậy. Tất nhiên ta có thể gọi sự luyến ái một đối tượng khác là tình yêu (hay bất kỳ tên gọi nào khác) cũng không sao, vì đó là quy ước của xã hội. Điều quan trọng là hiểu đúng tính chất của nó.

Nhưng tại sao người ta phải yêu, tại sao người ta tìm kiếm nhau, yêu thương một ai đó, phải kết hôn? Có nhiều lý do làm cho người ta tìm kiếm đối tượng. Đó có thể là do quan niệm chung của xã hội. Ví dụ quan niệm về hôn nhân, rằng con người thì phải kết hôn. Nếu trai lớn lên mà không tìm được vợ, gái lớn lên mà không ai hỏi cưới thì bị cho là người vô duyên, là bất hạnh và hàng xóm nhìn họ với ánh mắt thương hại hoặc chê bai. Cho nên một số người dù không có nhu cầu kết hôn nhưng phải tìm đại một ai đó để cho giống với những người khác.

Người tu thì không bị cái thành kiến đó nhưng đôi khi họ cũng bị luyến ái một đối tượng nào đó. Đối với người tu thì tình ái là một tai nạn xảy ra ngoài ý muốn. Khi đi tu không ai nghĩ rằng mình sẽ yêu ai, trong trong quá trình tu học, vì nhiều lý do khách quan mà họ dính líu đến chuyện tình cảm. Khi tôi hỏi một tu sĩ trẻ điều gì ở chùa làm mình khổ, người đó nói rằng “thiếu tình thương”. Tình thương ở đây là tình thương của thầy tổ, của huynh đệ.

Khi ở nhà, mỗi lần bị cảm là mẹ chạy đi tìm lá nấu cho nồi xông, cháo bưng tới giường năn nỉ ăn. Nhưng vào chùa thì không được như vậy. Bệnh phải tự lo. Có khi còn bị la mắnggiả bộ bệnh để không lên tụng kinh nữa. Thế là tủi thân nằm khóc. Những lúc ấy nếu có đối tượng nào đến quan tâm thì rất dễ dàng làm họ xiêu lòng và thế là tình cảm phát sinh. Người ta cần có người chia sẻ, cần có nơi để nương tựa, cần được chở che. Cho nên người tu muốn không bị sa ngã thì phải tập cho mình một lối sống độc lập không dựa vào ai hay bất cứ cái gì.

Mình nên nghĩ rằng sự “thiếu tình thương” trong chùa là cách để cho ta rèn luyện tính tự lập, xa dần sự luyến ái, lệ thuộc và đó chính là điều kiện để ta tiến xa trên con đường giải thoát. Đức Phật cũng khuyên chúng Tỳ-kheo hãy sống hạnh viễn ly. Thực tế cho thấy những người ham vui, thích sống tụ hội với đám đông ít có phẩm chất siêu việt còn những người thích sống một mình thường là những người có đời sống nội tâm sâu sắc.

Chúng ta nên biết rằng, không phải không có lý do mà Đức Phật chế định người xuất gia phải sống độc thân và xa rời gia đình. Đâu phải Ngài không biết cuộc sống như thế là thiếu tình cảm, thiếu sự chăm sóc. Nhưng phải như thế thì mới tu được, mới vượt thoát phàm tình mà trở thành bậc Thánh được.

Việc quán thân bất tịnhnhận ra tính chất hư ảo của tình yêu phần nào làm cho ta bớt tham đắm và không bám víu vào đối tượng tham ái, nhưng nếu chỉ dừng lại ở đó thôi thì vẫn chưa đủ. Cái cũ bị phá bỏ thì cần có cái mới thay thế, nếu không ta rất có thể sẽ quay trở lại cái cũ. Hơn nữa, muốn tiến xa trên con đường đạo thì hành giả cần có một pháp môn tu tập nào đó mà mình thấy là thích hợphiệu quả.

Pháp môn ấy vừa tạo cho ta sự an lạc trong cuộc sống, vừa có thể phát triển con đường tâm linh. Ta thấy hiện nay có một số quý thầy, cô có những cách sống rất cao thượng, thanh tao. Có người chọn việc giúp đỡ tha nhân làm niềm vui, có người chọn việc thuyết giảng làm niềm vui, có người chọn việc sáng tác nghệ thuật làm niềm vui, có người chọn vui thú điền viên… nhưng đó chỉ là tránh duyên, chuyển tâm sang một đối tượng khác chứ không phải hướng đến mục tiêu diệt tham, ly dục của người tu.

Trong Phật pháp có rất nhiều pháp môn tu để đoạn giảm và chấm dứt tham ái phiền não. Ở Việt Nam phổ biến nhất vẫn là pháp môn Thiền và Tịnh độ. Tùy theo căn cơ của mình mà ta có thể chọn tu thiền hoặc niệm Phật. Tu một cách nghiêm túc chứ không phải tu theo thời khóa cho có lệ. Bởi vì chỉ có tu tập miên mật mới có hiệu quả, mới cảm nhận được sự tiến bộ. Và khi thấy được hiệu quả của việc tu thì ta mới có niềm tin vào Phật pháp, rằng giác ngộ hay chứng quả không phải chỉ là lý thuyết suông, không phải là chuyện của các ngài Xá-lợi-phất hay Mục-kiền-liên từ xa xưa.

Trong kinh Đức Phật dạy rằng niềm vui trong thiền định là niềm vui rất vi diệudục lạc thế gian không thể nào sánh được. Khi đã nếm được niềm hỷ lạc của thiền định hay của sự tu tập nói chung rồi thì không còn ham muốn gì với những niềm vui thô thiển của thế gian nữa. Và chắc chắn khi đó sự tham ái đối với những đối tượng dục lạc bên ngoài sẽ không còn làm cho ta phải bận tâm nữa.

Thông thường người ta cho rằng tham ái thuộc về bản năng. Tuy nhiên, dưới cái nhìn của Phật giáo thì không có cái gì gọi là bản năng có tính cố định không thể thay đổi. Tất cả các pháp từ vật chất đến tinh thần đều như dòng nước luôn luôn lưu chuyển không ngừng. Mọi thứ luôn trong trạng thái trở thành thì làm gì có cái gọi là bản năng.

Duy thức học chỉ ra rằng mọi tập khí đều do những hạt giống đã gieo vào A-lại-da thức. Tùy theo hạt giống thiện ác tốt xấu mà biểu hiện ra khuynh hướng hành vi của người đó. Đó là lý do tại sao có người có bản tính ác và có người có bản tính thiện. Có người tham dục rất nhiều và cũng có người tham dục ít. Nói rộng hơn chúng sinh mỗi cõi giớitính chất tham dục khác nhau. Và cũng có những cõi giới không có tham dục (cõi Sắc và Vô sắc). Tóm lại, tập khí tham ái dục vọng là do sự huân tập nên sẽ thay đổi nếu chúng ta biết tu tập chuyển hóa và đoạn tận.

Có hai hướng tu tập chính để đoạn trừ tham ái dục trong Phật giáo Nguyên thủyPhật giáo Đại thừa.

Thời Đức Phật, các vị Thanh văn tu tập chỉ và quán, có tác dụng làm cho các chủng tử đã gieo không thể nảy mầm và dần dần sẽ bị hư thối, tiêu diệt hoàn toàn. Kinh điển Phật giáo Nguyên thủy thường dạy “Diệt trừ các cảm thọ cũ, và không cho khởi lên cảm thọ mới” (Đại kinh xóm ngựaTrung bộ kinh). Cứu cánh của một vị A-la-hán là ái diệt, vô sinh, không còn tái sinh nữa, không còn gì hiện hữu nữa, như “củi hết lửa tắt”.

Ta hãy đọc tiếp đoạn kinh sau đây, cũng trong Đại kinh xóm ngựa: “Này các Tỷ-kheo, thế nào là các công việc đáng phải làm hơn nữa? Chúng ta phải hộ trì các căn. Khi mắt thấy sắc, không nắm giữ tướng chung, không nắm giữ tướng riêng. Những nguyên nhân gì khiến con mắt không được chế ngự, khiến tham ái, ưu bi, các ác, bất thiện pháp khởi lên, chúng ta sẽ tự chế ngự nguyên nhân ấy, hộ trì con mắt, thực hành sự hộ trì con mắt. Khi tai nghe tiếng... mũi ngửi hương... lưỡi nếm vị... thân cảm xúc... ý nhận thức các pháp…

Chúng ta phải chánh niệm tỉnh giác, khi đi tới, khi đi lui đều tỉnh giác, khi nhìn thẳng, khi nhìn quanh đều tỉnh giác, khi co tay, khi duỗi tay đều tỉnh giác, khi mang y kép, bình bát, thượng y đều tỉnh giác, khi ăn uống, nhai, nuốt đều tỉnh giác, khi đi đại tiện, tiểu tiện đều tỉnh giác, khi đi đứng, nằm, thức, nói, yên lặng đều tỉnh giác. Này các Tỷ-kheo, các ông có thể khởi lên ý kiến: Chúng ta đã thành tựu tàm quý, thân hành chúng ta thanh tịnh, khẩu hành thanh tịnh, ý hành thanh tịnh, sinh mạng thanh tịnh, và các căn đã được hộ trì”.

bài kệ sau đây trong kinh Nhất dạ hiền (Trung bộ kinh):

“Quá khứ không truy tìm
Tương lai không ước vọng
Quá khứ đã đoạn tận
Tương lai lại chưa đến
Chỉ có pháp hiện tại
Tuệ quán chính ở đây”.

Các đoạn kinh trên chỉ nói lên và dạy một điều duy nhất là “diệt trừ các cảm thọ cũ, không cho khởi lên các cảm thọ mới”. Ở đây xin giải thích một chút về cảm thọ cũ và cảm thọ mới. Những cảm thọ, vọng tưởng, tập khí, nghiệp, cảm giác... của chúng ta không phải mới có mà đã có từ vô thỉ. Theo Duy thức học, thức A-lại-da (tàng thức) như là một cái kho chứa dựng tất cả các hạt giống, và chúng khởi lên liên tục. Đây là cái mà trong kinh gọi là “những cảm thọ cũ”.

Khi vọng tưởng hay những cảm giác cũ này khởi lên, nếu ta phản ứng (sân) hay chạy theo (tham) thì coi như ta đã tiếp tay cho chúng, đã cung cấp thêm cho chúng nhiên liệu để chúng mạnh thêm, sinh sôi nẩy nở; bằng ngược lại, ta chỉ nhận biết và làm ngơ chúng đi thì coi như chúng bị vô hiệu hóa, chúng yếu dần và chết đi. Đây chính là điều mà trong kinh Kim cang gọi là “Có bao nhiêu chúng sinh đều độ hết vào vô dư Niết-bàn”. Đó là “không cho khởi lên những cảm thọ mới”. Nhờ thực tập chánh niệm, tỉnh giácan trú trong hiện tạicảm thọ cũ không có cơ hội khởi lên, và cũng không thể phát sinh những cảm giác mới. Có thể nói, đây là sợi chỉ đỏ xuyên suốt các pháp môn tu tập của Phật giáo. Những pháp môn khác đều là sự mở rộng hay giải thích thêm cho phương pháp này.

Cách thứ hai là chuyển hóa. Chuyển hóa như thế nào? Bằng cách gieo vào tâm thức càng nhiều hạt giống tích cực càng tốt. Nếu như cách thứ nhất là sự ứng dụng hai phần trước của Tứ chánh cần: Điều ác chưa sinh thì đừng để sinh, điều ác sinh rồi thì tìm cách diệt; thì cách thứ hai này là sự ứng dụng của hai phần sau: Điều thiện chưa sinh thì làm cho sinh, điều thiện đã sinh thì làm cho tăng trưởng.

Cụ thểphương pháp Lục độ của Bồ-tát đạo. Bồ-tát không chỉ diệt trừ xan tham mà còn tăng cường bố thí. Giới của Bồ-tát không chỉ Chỉ trì mà còn Tác trì, Chỉ phạm. Bồ-tát nhẫn nhục một cách có trí tuệ để độ chúng sinh. Bồ-tát tinh tấn làm việc thiện (Thanh văn tinh tấn diệt phiền não). Thiền của Bồ-tát là các Tam muội để hóa độ và làm lợi ích chúng sinh (khác với tứ thiền, bát định của Thanh văn). Trí tuệ của Bồ-tát là để thực hiện các phương tiện giáo hóa chúng sinh, lợi ích xã hội. Đối với Duy thức học, tu hành là một sự chuyển hóa, chuyển thức thành trí. Sự chuyển hóa này, nói một cách nôm na là chuyển tham ái thành từ bi, chuyển tình yêu ích kỷ thành thương yêu tất cả chúng sinh.

Chúng ta thường nghe nói tu Tâm chính là cách tu này. Tu cho hết vọng tâm để chỉ còn lại cái chân tâm hiện tiền. Chỉ một việc này thôi mà tu hoài không hết, tu mãi không xong. Một số người không hiểu tưởng đâu tu là phải ăn chay nằm đất, cho nên khi thấy người tu có vẻ nhàn hạ liền cho là không tu. Bên ngoài không tu nhưng đang tu bên trong, tu rất tích cực, rất tinh tấn. Bên trong đang diễn ra một cuộc chiến một mất một còn giữa thiện và ác, chân và vọng; mà chỉ cần mất cảnh giác một chút là thua liền.

Điều lý thú ở đây là các phương pháp tu này lại được thể hiện một cách thống nhất và thông suốt giữa các truyền thống tu tập Phật giáo. Trong kinh Tứ thập nhị chương Đức Phật có dạy rằng, giáo pháp của Ngài như mật trong chén. Dù mật ở giữa chén hay ngoài rìa thì vẫn ngọt như nhau. Lại nói, nước biển chỉ có một vị mặn, giáo pháp của Phật cũng chỉ có một vị, đó là vị giải thoát.

Vô ngãgiáo lý căn bản của Phật giáo, và ở đây, một lần nữa, nó lại biểu diễn vai trò của mình để giải quyết vấn đề gọi là bản năng. Mọi thứ đang trôi chảychuyển biến. Không có gì gọi là “bản” ở đây cả, dù là “bản thiện” hay “bản ác”. Cái gọi là bản năng đó chẳng qua là một sự tích tụ lâu đời, như phù sa tích tụ thành cồn, nước đóng lại thành băng. Nếu có cái gọi là bản năng thì sẽ không có sự chuyển biến, không thể tu sửa. Nhưng khi chúng ta hiểu được rằng các pháp do duyên sinh thì vấn đề được giải quyết dễ dàng hơn.

Chúng ta có thể tu tập để giải thoát sinh tử, hoặc chúng ta có thể chuyển thức thành trí, chuyển phiền não thành Bồ-đề, nuôi lớn từ bitrí tuệ để vào đời hóa độ chúng sinh như các vị Bồ-tát đã làm. Khi đã hiểu rõ được điều này thì chúng ta tin rằng nếu mình nỗ lực tu thì mình có thể diệt trừ hoặc chuyển hóa được tham ái của mình vậy.

Có người hỏi rằng tôi vừa tu vừa tham ái có được không? Thật ra sống hay tu như thế nào là việc của mỗi người. Nhưng nhân nào thì quả đó. Tùy theo chánh báo của mỗi người mà sẽ có y báo tương ứng. Nếu ta đầu tư vào cái gì thì sẽ thành công ở lĩnh vực đó. Nếu đầu tư vào tham ái ta sẽ có tham ái, nếu ta đầu tư vào tiền bạc ta sẽ có tiền bạc, và nếu đầu tư vào tâm linh thì ta sẽ có tâm linh.

Còn nhớ câu chuyện Xá-lợi-phất lần đầu gặp Tỳ-kheo Mã Thắng khi đang khất thực trong thành Vương Xá. Thấy gương mặt trang nghiêm sáng ngời, phong độ thanh thoát của Mã Thắng, Xá-lợi-phất cảm thấy tâm hồn mình chấn động mạnh mẽ, một cảm giác mà từ trước tới giờ chưa từng có nơi ngài. Phải là một người có đời sống nội tâm như thế nào thì mới chiêu cảm được một bậc thức giả như Xá-lợi-phất. Cho nên, không ai có quyền cho phép hay ngăn cản người khác tham ái mà chỉ có thể nói rằng nhân như thế nào thì quả như thế nấy mà thôi.

Kinh Phật được nói ra là để cho người ta thực hành chứ không phải là những câu chuyện huyền thoại viển vông. Đức Phật khẳng định rằng “Như Lai chỉ nói những gì Như Lai làm và Như Lai chỉ làm những gì Như Lai nói”. Những điều Đức Phật nói ra là những gì Ngài đã làm được. Và hàng ngàn năm nay đã có không biết bao nhiêu người đi theo con đường của Ngài và cũng đã thành tựu về mặt tâm linh. Họ cũng từ bỏ gia đình sống không gia đình như Đức Phật. Họ cũng cắt ái từ thân và đoạn trừ tham ái dục để chứng những quả vị tâm linh. Các vị tổ sư, các bậc thầy là những tấm gương về tu tập để ta thêm tin tưởng vào con đường mà mình đang thực hành.

Điều cuối cùng mà người viết muốn nói ở đây là Phật giáo không phủ nhận những giá trị, các vẻ đẹp hay hạnh phúc thế gian. Con người cứ tôn vinh vẻ đẹp của con người. Con người cứ yêu thương và hưởng thụ hạnh phúc của hôn nhân hợp pháp. Điều mà người viết muốn nhắm tới ở đây là đối với người xuất gia hay những ai theo đuổi con đường giải thoát thì phải bỏ lại phía sau những thứ đó, vì những thứ như tham ái dục làm trở ngại con đường tâm linh, không thể chứng đắc giải thoát, Niết-bàn.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 19020)
Hàn Mặc Tử rất chú trọng về âm nhạc và màu sắc. Đó chính vì tâm hồn Tử có nhiều trạng thái cá biệt, nhiều khi rất bí ẩn u huyền; để diễn tả, phải dùng màu sắc...
(Xem: 17815)
Người tài xế bặm môi nhíu sát hai lông mày vào nhau. Những nếp nhăn hằn lên, khổ sở. Tôi chong mắt nhìn ra trước xe. Những cánh đồng trải rộng, trải dài,...
(Xem: 14039)
Lịch sử chứng minh cho thấy trong xã hội con người có nhiều phát triển tích cực diễn ra do kết quả của lòng từ bi. Chẳng hạn sự hủy diệt thương vụ buôn bán người nô lệ.
(Xem: 14717)
Chỉ có những phương tiện mang tinh thần bất bạo độngthấm nhuần lòng từ bi mới có thể giúp con người đạt đến lý tưởng chân chính, đạt đến cứu cánh tốt đẹp...
(Xem: 14259)
Hình tượng Phật không những xuất hiện trong những không gian lặng lẽ nơi phòng thờ hay bàn thờ gia đình mà còn xuất hiện trên những đỉnh núi cao ngất và hùng vĩ...
(Xem: 16753)
Life is a gift… accept it. Đời là một món quà, hãy nhận lấy. Life is an adventure… pare it. Đời là một cuộc phiêu lưu, hãy giảm dần.
(Xem: 24250)
Đến một lúc, mọi giông tố mịt mùng không che nổi sự bừng sáng của con tim và mọi khổ đau buồn tủi không đánh gục được niềm lạc quan tiềm ẩn trong một tinh thần.
(Xem: 20622)
Phật giáo đã bắt rễ dễ dàng trên mảnh đất Việt Nam. Những người nông dân Việt Nam đang đau khổ và khát vọng sự giải thoát, đã tiếp nhận Phật giáo một cách tự nhiên.
(Xem: 18898)
Ôn hiện thân vào đời năm Đinh Mùi, 1907, tại làng Dạ Lê Thượng, xã Thủy Phương, quận Hương Thủy, Thừa Thiên. Từ đó, Ôn đã mang hành trang của người giác ngộ...
(Xem: 21396)
Sáng sớm vị sư nữ ra mở cổng Tam Quan quét dọn. Sương mù còn giăng kín ngõ. Thoáng chút se lòng sư cô đứng lặng giữa sân như để tĩnh tâm hít thở,...
(Xem: 18345)
Ngày nay, tiền có ít nhất bốn chức năng trong việc phục vụ con người. Dù tốt hay xấu, nó là một phương tiện trao đổi không thể thiếu trong xã hội hiện tại.
(Xem: 19976)
Xung quanh ngôi thạch thất, thầy có trồng dăm loài hoa kiểng, ít cây ổi mận, đu đủ…. Ngày tháng trôi qua, cây trái đã trở nên xum xuê tươi mát, những chậu hoa cũng lấm tấm điểm một vài bông đỏ vàng rực rỡ.
(Xem: 14896)
Bồ đoàn nguyên nghĩa là cái nệm tròn đan bằng cỏ bồ, dùng để lót ngồi hay quỳ lạy. Cỏ bồ có lẽ giống như cỏ năn cỏ lát của nước mình, một thứ vật liệu đơn giản dễ sử dụng.
(Xem: 13021)
Chấp trước, mê chấp, chấp thủ là một trong những gông cùm làm khổ con người. Chính vì hiểu được nỗi khổ này mà Đức Phật luôn dạy các hàng đệ tử là phải phá chấp.
(Xem: 14026)
Nhìn lên bản đồ (kèm theo), ta sẽ thấy Huyền Trang đi theo một đường zigzag rộng lớn, dài hơn nửa đường biên Trung Quốc, vòng quanh nửa nước Ấn Độ...
(Xem: 13200)
Người hộ trì chánh pháp phải biết nhẫn nhục. Nhẫn nhục là biểu hiện sức mạnh nội tâm. Nhẫn nhục cò là phương thuốc thần hiệu để trị bệnh mình và bệnh người.
(Xem: 14066)
Tuổi trẻ học Phật không có mục đích trở thành nhà nghiên cứu Phật học, mà học Phật là tự thực tập khả năng tư duy bén nhạy, linh hoạt, để có thể nhìn thẳng vào bản chất sự sống.
(Xem: 17700)
Mỗi năm, đồng bào Khmer lại tổ chức lễ Sene dolta để con cháu trong gia đình biết ơn bà “chà đôl” và ơn ông “chà ta” đã dày công nuôi dưỡng, sinh thành.
(Xem: 15472)
Trong vô vàn tác phẩm âm nhạc của nhạc sĩ Lê Cao Phan, nhất là các tác phẩm âm nhạc Phật giáo, ca khúc Phật giáo Việt Nam ra đời như là một sự kết tinh trọn vẹn nhất...
(Xem: 14751)
Với chánh niệm, bạn có thể kiến lập bản thân mình trong hiện tại để có thể chạm vào các kỳ diệu của đời sống đang có sẵn trong khoảnh khắc ấy. Có thể sống được hạnh phúc...
(Xem: 14527)
Với người lạc quan, thế gian này tuyệt đối như cánh hoa hồng. Người bi quan trái lại, thấy nó đầy gai chướng. Nhưng đối với người thực tiễn, thế gian không tuyệt đối tươi đẹp...
(Xem: 17970)
Hòa Thượng luôn luôn ý thức về những trở ngại trên bước đường hoằng hóa lợi sinh của mình, nhưng với sự quyết tâm của mình trong tự lợilợi tha Ôn vẫn bước đi...
(Xem: 22045)
Tôi tình cờ đọc được thơ của Cao Thị Vạn Giả vào lúc còn đang học trung học. Một trong những tiểu thuyết mà tôi từng rất thích là tác phẩm Khung Cửa Hẹp của André Gide, do Bùi Giáng dịch.
(Xem: 19603)
Ngày nay nhớ lại quãng đời làm điệu mà tôi cảm thấy nuối tiếc. Quãng thời gian để chỏm sao mà quá nhiều kỷ niệm dễ thương. Những kỷ niệm đầy đạo tình, đạo vị trong chốn thiền môn.
(Xem: 20731)
Bác sĩ Henri Desrives là một khoa học gia hoạt động, vui vẻ và yêu nghề. Như mọi nhà trí thức khác, ông sống một cuộc đời rất thực tế và không buồn lưu ý đến những điều mà khoa học chưa giải thích được...
(Xem: 25198)
Chưa thấy ai/cái gì siêng năng như cái đồng hồ. Gő măi nhịp trường canh đều đặn từ giây này đến giây kế tiếp, từ phút này đến phút kia, từ giờ kia đến giờ nọ… cho đến khi hỏng, hoặc hết năng lượng, hết bin.
(Xem: 16995)
Hoa sen hay Liên hoa là loài hoa thanh khiết thiêng liêngvị trí tôn quý đặc biệt trong giáo nghĩa cùng với sức phát triển bao trùm trên nền văn hóa Phật giáo.
(Xem: 14832)
Trong lý tưởng Bồ tát đạo, có hai ý niệm quan hệ: Đại TríĐại Bi (hay Đại Hạnh). Đại Trí chỉ cho khả năng siêu việt soi thấu bản tính của vạn hữu.
(Xem: 19101)
Ôn Già Lam, chỉ ba tiếng ấy thôi cũng đủ làm ấm lòng bao lớp Tăng sinh của các Phật Học Viện: Báo Quốc - Huế, Phổ Ðà - Ðà Nẵng, Hải Ðức - Nha Trang, Già Lam - Sài Gòn.
(Xem: 22044)
Mùa thu lãng đãng trở về đưa theo từng cơn gió nhẹ, dịu mát. Cả bầu trời như trở mình sống lại, để chuyển rơi rụng những chiếc lá vàng.
(Xem: 20746)
Mở đầu là chuyện thiền sư Khương Tăng Hội từ Việt Nam chống gậy sang miền Giang Tả của Trung Quốc để truyền bá Phật pháp cách đây hơn 1.700 năm (vào năm 247 dương lịch)
(Xem: 25409)
Ngược xuôi trên dòng đời, đôi lúc nhớ về cội nguồn đã xa, tâm cảm kẻ lưu đày như thiền sư Tuệ Sỹ thoáng chốc bâng khuâng, ngậm ngùi như nhà thơ đã ghi lại trong thi phẩm Giấc Mơ Trường Sơn: Ngược xuôi nhớ nửa cung đàn Ai đem quán trọ mà ngăn nẻo về.
(Xem: 15897)
Cùng với tượng tròn (mà chúng tôi đã có dịp giới thiệu trên tập văn số 10) điêu khắc Phật giáo thời Lý, đặc biệt phải kể đến nhiều bức chạm nổi trên đá mà tinh khéo...
(Xem: 15828)
Trong đạo Phật thường nói ý là căn bản của hành động và lời nói. Khi suy nghĩ điều thiện thì lời nói sẽ lành và hành động khắc đẹp. Nghiệp là một thói quen...
(Xem: 20770)
Đọc thi ca chữ Hán và chữ Nôm của Thiền phái Trúc Lâm, có thể nêu lên những cảm hứng sau: Cảm hứng bản thể giải thoát, cảm hứng cõi thiên nhiên Phật nhiệm mầu...
(Xem: 17124)
Một khi ta cảm nhận được sự rộng lớn của cuộc sống này, và thấy được khả năng kinh nghiệm sự sống của mình là bao la đến đâu, thì chắc chắn ta sẽ hiểu được sự buông bỏ.
(Xem: 18709)
Trong văn học cũng như trong thực tế, người ta thường đề cập đến mùa thu có lá rơi, nhưng ít ai lại thấy thực tế hơn, chính xác hơn là trong bốn mùa, mùa nào cũng có lá rơi rụng cả.
(Xem: 20074)
Loại thức ăn thứ nhất là đoàn thực, tức là những thức ăn đi vào miệng của chúng ta. Chánh kiến cũng là biết phân biệt những đoàn thực có hại và những đoàn thực không có hại.
(Xem: 39374)
Vào độ thu, khi lúa chín rộ, những cánh đồng bát ngát như một tấm thảm vàng hoe. Nông dân đây đó tụ tập chúc mừng nhau một vụ mùa thắng lợi, và trời đất cũng hòa nhịp trong bầu không khí tràn ngập niềm hạnh phúc ấy.
(Xem: 31579)
Không có nhà tỷ phú nào không kiêu hãnh về tiền bạc, nhưng chính niềm kiêu hãnh ấy, lại tạo ra những sự lo lắng, sợ hãi, nghi ngờbất hạnh cho họ.
(Xem: 30731)
Thuở nhỏ cứ mỗi khi đến rằm tháng bảy, hình ảnh Đại Hiếu Mục Kiền Liên luôn hiện về trong tôi với đoản văn Bông Hồng Cài Aó của Thầy Nhất Hạnh.
(Xem: 36088)
Trong truyền thuyết dân gian phương Đông, rồng có chín con với hình dángsở thích hoàn toàn khác nhau. Các con của rồng được dân gian sử dụng làm linh vật trang trí ở những vị trí, những vật dụng với những ngụ ý đặc biệt khác nhau.
(Xem: 23927)
Một thời Thế Tôn trú ở Ràjagaha, tại Trúc Lâm, gọi các Tỷ kheo:Này các Tỷ kheo, đầy đủ năm đức tánh, người nữ nhân hoàn toàn không khả ý đối với người đàn ông.
(Xem: 26600)
Thuở mới đăng sơn cắm dùi khẩn đất làm chốn ẩn tu, sư lủi thủi một mình chẳng có móng đệ tử lăng xăng đón đưa phục dịch, sư tự vác cuốc, quẩy gánh...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant