Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Gặp Gỡ Các Thiên Sứ

09 Tháng Ba 202419:04(Xem: 638)
Gặp Gỡ Các Thiên Sứ

Gặp Gỡ Các Thiên Sứ
(Meeting the Divine Messengers)

Bhikkhu Bodhi

Nguyên Nhật Trần Như Mai

 2



Huyền thoại truyền thống về cuộc đơi Đức Phật kể lại rằng trong suốt thời niên thiếu và vào tuổi trưởng thànhthái tử Siddhattha (Tất-Đạt-Đa), tức là Bồ Tát( lúc chưa thành Phật ), sống hoàn toàn không biết gì về những sự kiện sơ đẳng liên quan đến  hệ lụycủa kiếp người. Vì lo lắng  bảo vệ cho thái tử khỏi phải chứng kiến những cảnh khổ đau, phụ vương của ngài đã thiếu khôn ngoan khi gìn giữ  ngài như một người hoàn toàn không biết gì về thế giới bên ngoài. Bị giữ chân trong những lâu đài tráng lệ, được cung cấp mọi lạc thú trần gian, và luôn có bạn bè vui nhộn vây quanh, thái tử đã chẳng hề có chút nghi ngờ nào rằng cuộc sống không có gì khác  hơn là những cuộc vui và tiệc tùng lễ hội bất tận. Chỉ trong ngày định mệnh ấy, lúc thái tử được 29 tuổi,  vì tò mò thái tử đã đi ra khỏi cổng thành của cung điện và chứng kiến bốn “thiên sứ”, sự kiện này đã làm thay đổi số phận của ngài. Thiên sứ đầu tiên là một người già yếu, thứ hai là một người bệnh tật, và thứ ba  là một tử thi, tất cả đã dạy cho ngài biết sự thật kinh hoàng về tuổi già, bệnh tật và cái chết; và thiên sứ thứ tư là một du sĩ khổ hạnh, người hé lộ cho ngài biết về sự hiện hữu của một con đườngvượt thoát mọi  khổ đau.

Câu chuyện hấp dẫn này, đã nuôi dưỡng đức tin của Phật tử qua nhiều thế kỷ, và trong cốt lõi đã trân quý chứa đựng một sự thật tâm lý sâu sắc . Trong ngôn ngữ huyền thoại, chuyện đã kể cho chúng ta không những chỉ là những sự kiện đã xảy ra nhiều thế kỷ trước, mà còn là một tiến trình thức tỉnh mà mỗi chúng ta phải trải qua, nếu Giáo pháp ấy trở thành hiện thưc trong  chính  mỗi chúng ta. Bên dưới lớp vỏ biểu tượng của một huyền thoại xưa cổ, chúng ta có thể thấy rằng tuổi thanh niên cũa thái tử Siddhattha trải qua trong cung điện cũng không khác gì nhiều với lối sống mà phần lớn chúng ta ngày nay đã trải qua suốt cuộc đời  - và đáng buồn thay, thường là kéo dài cho đến khi quá muộn để có thể bắt đầu  chuyển qua một hướng mới. Nhà ở của chúng ta có thể khôngphải là cung điện hoàng gia, và tài sản của chúng ta có thể chẳng có gì đáng kể so với tài sản của một vị vua miền bắc Ấn độ, nhưng chúng ta cùng có chung với thái tử Siddhattha sự  thích thú ( và thường là cố ý ) lãng quên những thực tại phủ phàng đang liên tục thúc đẩy sự chú ý của chúng ta.

Nếu giáo pháp là những gì khác hơn  bối cảnh nhạt nhẽo, buồn chán của một cuộc sống thoải mái, nếu giáo pháp trở thành tiếng nói khơi nguồn cảm hứng, đôi lúc khó nghe, để lái chúng ta đến với con đường tỉnh thức cao thượng, thì chính chúng ta cần phải tích cực noi gương Bồ Tát trong quá trình trưởng thành của ngài. Tham gia vào cuộc hành trình của ngài bên ngoài các bức tường thành của cung điện – những bức tường định kiến đầy tự tin của chúng ta – chúng ta phải tận mắt nhìn thấy các thiện sứ mà chúng ta thường bỏ qua, vì mắt chúng ta đang dán chặt vào  “những chuyện quan trọng hơn”, nghĩa là  những mục tiêu và mối quan tâm đời thường.

Đức Phật nói rằng ít người cảm thấy bị kích động  bởi những gì thật sự đáng bị kích động , so với số đông những người không hề bị kích động. Những động lưc dẫn đến sự tỉnh thức thúc ép chúng ta từ mọi phía, tuy nhiên thay vì công nhận chúng, chúng ta thường đáp ứng bằng cách phủ thêm một lớp áo để bảo vệ chúng ta khỏi bị chúng làm tổn thương. Lời khẳng định này đã được mặc nhiên chứng minh, bởi hằng loạt các cuộc thảo luận và văn bản gần đây nói về vấn đề lão hóa, các bệnh tật đe dọa mạng sống và những cách tiếp cận khác nhau đối với cái chết và vấn đề tử vongTuy nhiên sự thức tỉnh cởi  mở và chân thật vẫn chưa đủ để các thiên sứ truyền đạt thông điệp của họ. Để truyền đạt thông điệp của các thiên sứ,  một thông điệp có khả năng sách tấn chúng ta đi đến con đường giải thoát, có nhiều việc hơn nữa cần phải làm. Chúng ta cần phải đương đầu với tuổi già, bệnh tật và cái chết, không đơn giản như là những thực tại không thể trốn tránh mà chúng ta phải cố gắng vượt qua trên thực tế, nhưng chúng ta cần phải xem chúng như là những sứ giả từ cõi trên, từ bến bờ xa xăm, đang tiết lộ cho chúng ta biết nhiều chiều hướng ý nghĩa mới.

Sự tiết lộ này xảy ra ở hai cấp độ. Trước tiên, để trở thành các thiên sứ, những sự thật về tuổi già, bệnh tật và cái chết phải đánh động chúng ta để  ta  tỉnh thức về bản chất mong manh, nguy hiểm của đời sống hằng ngày. Ba thiên sứ đầu tiên phải gây ấn tượng mạnh vào tâm trí chúng ta về sự thiếu sót trầm trọng xuyên suốt mọi vấn đề đáng quan tâm trong đời sống của ta, trải rộng đến toàn thể mọi hiện tượng hữu vi . Từ đó chúng trở thành những cánh cửa mở ra chân lý  đầu tiên về Khổ , mà Đức Phật đã nói là chân lý này không chỉ bao gồm sinh, già, bệnh, chết, không những chỉ là buồn khổ, sầu biđau đớnưu phiền mà còn bao gồm  tất cả những yếu tố thể chất và tinh thần đã tạo ra con người chúng ta trong thế giới này. Vị du sĩ khổ hạnh phải trở thành cái gì khác hơn là một đối tượng kỳ lạ khiến ta tò mò, vị ấy phục vụ như một người nhắc nhở chúng ta rằng con đườnggiải thoát đi xuyên suốt cảnh tượng khắc khổ của việc xuất gia và làm chủ nội tâm. Được bao bọc trong tấm y màu vàng đất, nhân vật trầm mặc và đáng kính trọng này phục vụ như là một dấu chỉ đến chân lý cao thượng thứ tư, chân lý về con đường giải thoát, và đỉnh cao là chân lý về sự chấm dứt khổ.

Khi chúng ta gặp các thiên sứ ở cấp độ này, họ trở thành những chất xúc tác tạo nên sự chuyển hóa nội tâm sâu sắc trong ta. Chúng ta nhận thức rằng bởi vì chúng ta  yếu đuối  và không thể nào tránh khỏi cái chết,  ta phải tạo ra những thay đổi quyết liệt về các vấn đề ưu tiên của sự hiện hữuvà giá trị cá nhận. Thay vì để cho cuộc sống của ta bị những chuyện phù du nhỏ nhặt chi phối, bởi những chuyện nay còn mai mất, ta cần phải quan tâm đến  “những gì thật sự quan trọng”, đến những mục đích và hành động có ảnh hưởng lâu dài đến số phận của chúng ta trong nhiều kiếp, và mục tiêu tối hậu của chúng ta khi ta còn  lang thang trong vòng luân hồi sanh tử.

Trước khi việc tái thẩm định giá trị xảy ra, chúng ta thường sống trong một tình trạng mà Đức Phậtgọi là ‘ buông lung phóng dật”( pamăda). Tưởng tượng rằng chúng ta bất tử và thế giới là sân chơi  của riêng ta, ta dành mọi năng lương của ta vào “ các pháp thế gian” như là tích lũy tài sản, hưởng thụ những dục lạc giác quanđạt được địa vị xã hội, và săn đuổi theo danh vọng. Thuốc chữa bệnh buông lung phóng dật có cùng phẩm chất như  đã khởi lên trong tâm trí Bồ Tát khi ngài gặp vị thiên sứ trên đường phố của thành Kapilavatthu  (Ca-tỳ-la-vệ ). Phẩm chất này, trong tiếng Pali gọi là samvega nghĩa là “ một cảm giác cấp bách “, một sự kích động nội tâm hay là kinh hoàng, không cho phép chúng ta giữ nguyên thái độ hài lòng với thói quen thích nghi  trong đời sống thế tục. Thay vào đó nó thúc đẩy chúng ta bắt đầu cuộc hành trình của kẻ sống không gia đình, dù là theo nghĩa đen hay nghĩa bóng. Như Thái tử Siddharttha đã làm sau khi gặp vị khất sĩ lang thang không nhà, chúng ta cũng phải bỏ lại đằng sau những lâu đài ấm cúng của mình và dấn thân vào các khu rừng hoang xa lạ, để tích cực tìm ra giải pháp đích thật cho số phận hiện hữu của chúng ta.

Chính ở điểm này mà chức năng thứ hai của các vị thiên sứ trở thành nổi bật. Vì già , bệnh và chết không chỉ là biểu tượng của bản chất bất toại nguyện của sự hiện hữu ở thế gian, nhưng còn là dấu chỉ của một thực tại sâu sắc hơn thế nữa. Theo huyền thoại truyền thống thì bốn vị thiên sứ này là chư thiên giả dạng. Các vị thiên  này đã được vua trời gởi xuống thế gian để thức tỉnh Bồ Tát về sứ mạng lịch sử của ngài, và một khi họ hoàn thành sứ mạng đem thông điệp đến cho Bồ Tát, họ sẽ trở lại hình tướng của chư thiên. Điều này cho chúng ta thấy rằng lời dạy cuối cùng của Giáo Pháp không phải là đầu hàng, không phải là một mênh lệnh buộc ta  cam chịu thực tại tàn nhẫn của kiếp người, thậm chí cũng không phải chấp nhận giới hạn của chúng ta bằng một tâm thái vui mừngTính chất không thể tránh được của già, bệnh và chết là thông điệp đầu tiên của Giáo Pháp,  thông báo rằng ngôi nhà của chúng ta đang bốc cháy. Thông điệp cuối cùng, do vị thiên sứ thứ tư gợi ý, là một điều gì khác : một tiếng reo vui tin tưởng rằng có một nơi an toàn, một khoảng đất trời rộng mở bên kia ngôi nhà lửa , và một dấu hiệu chỉ đường để ta thoát ra khỏi nhà lửa.

Nếu trong tiến trình thức tỉnh, .chúng ta phải đối mặt với già, bệnh, chết,  đó là  vì nơi an toàn chỉ có thể đạt được bằng cách thật tâm đương đầu với sự thật phủ phàng về thân phận con ngườiChúng ta không thể đạt đến nơi an toàn bằng cách giả vờ xem ngọn lửa đang bao trùm ngôi nhà của chúng ta như là những tràng hoachúng ta phải nhìn chúng đúng như thật, như là những ngọn lửa thật. Tuy nhiên, khi chúng ta nhìn những vị thiên sứ này một cách chính xác, không  ngượng ngùng hay sợ hãichúng ta sẽ thấy rằng khuôn mặt của họ trải qua một sự biến đổi bất ngờ.  Trước mắtchúng ta, bằng những mức độ tinh tế, họ biến thành một khuôn mặt khác – khuôn mặt của Đức Phật , với nụ cười an bình chiến thắng trước đoàn quân của Ma Vương, trước bầy quỷ Dục Vọng và Tử Thần. Các thiên sứ chỉ cho chúng ta thấy những gì bên kia cái tạm bợ phù du, đó là một trạng thái  thực tại  nơi không còn già, không còn bệnh và không còn chết. Đây là mục tiêu và đích đến cuối cùng của Phật đạo – đó là Niết Bàn, nơi Không Già, Không Bệnh,  Không Chết. Chính là để hướng dẫn chúng ta đí đến nơi ấy mà các thiên sứ đã xuất hiện giữa chúng ta và thông điệp của họ là tin vui báo cho chúng ta biết rằng mục tiêu này đang sẵn sàng chờ đón chúng ta.

Sources : Inquiring Mind-volume 25 # 1- fall-2008-Heavenly Messengers

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1781)
Trong các kinh Bát nhã ba la mật giảng nói nhiều về tánh Không với những phẩm tính như vô tự tánh, vô sở hữu, bất khả đắc, vô sanh, như huyễn…
(Xem: 1759)
Phật phápgiáo lý của Đức Phật. Gọi là giáo lý tức là nhằm chỉ đến giáo dục với tất cả các phạm trù
(Xem: 2342)
Con người vĩ đại đó, tấm lòng trí tuệ đó, phương pháp giáo dục siêu việt đó của đức Phật đã khiến muôn nghìn trái tim của nhân loại hướng về Ngài
(Xem: 2044)
Định hướng tư tưởng là một vấn đề vô cùng quan trọng trong đời sống sinh hoạt của con người.
(Xem: 1830)
Ngược dòng lịch sử hơn 2.500 năm về trước ở xứ Ấn Độ, trước khi Đức Phật ra đời, nơi đây đã đơm hoa kết trái nhiều hệ tư tưởng khác nhau.
(Xem: 2406)
Con người sinh ra đời, sống và lớn lên trong gia đình được ấp ủ bởi tình thương của cha mẹ, tình anh chị em, tình bà con dòng họ.
(Xem: 1995)
Phải học kinh điển một cách khôn ngoan. Chúng ta biết rằng hơn 400 năm sau khi Bụt nhập diệt, kinh điển mới được chép thành văn.
(Xem: 2125)
Trong rất nhiều phương pháp giảng dạy thì phương pháp định hướng tư tưởng được đức Phật chú trọng sử dụng trong lời dạy của mình.
(Xem: 2307)
Đức Phật dạy về nhân quả thật rõ ràng. Ai gây nhân tạo mười loại nghiệp bất thiện thì chịu quả đi đến ác xứ, không thể đổi khác được.
(Xem: 2624)
Bình đẳng giới và trao quyền cho phụ nữ hiện đang được xem là yếu tố quan trọng đối với sự tiến bộ kinh tế, xã hộidân chủ
(Xem: 2647)
Buông là một triết lý nhân sinh của nhà Phật. Triết lý đề cao năng lựctrí tuệ cá nhân trên con đường vạn dặm dứt bỏ luân hồi nghiệp báo “trở thành Thánh Nhân (ariya savaka)”.
(Xem: 2140)
Phước đức là những việc làm lành thiện được làm ở bên ngoài hình tướng như bố thí, cúng dường, từ thiện, giúp ích cho mọi người…
(Xem: 2636)
Phật tử chân chính là người theo Phật, yêu quý Ngài, kính trọng giáo pháp của Ngài và đi theo con đường...
(Xem: 1935)
Thói đời, chúng ta thường hay nghe mọi người than rằng: “Kiếp nhân sinh của ta, là gì - ra sao?”
(Xem: 2059)
Đức Phật dạy được làm người là khó. Mong sao mọi người hiểu được Chánh pháp, cố gắng tu dưỡng để ít nhất được tái sinh trời, người.
(Xem: 2391)
Phật tử chân chính là người theo Phật, yêu quý Ngài, kính trọng giáo pháp của Ngài và đi theo con đường Tám Bước Cao Quý mà Đức Phật đã trải qua biết bao gian khổ mới tìm được.
(Xem: 2907)
Người giữ giới không sát sanh được Thiện thần bảo hộ, tai ách tiêu trừ, tuổi thọ dài lâu, con cháu hiếu thảo hiền lương, mọi chuyện đều may mắn tốt đẹp.
(Xem: 1826)
Phật Giáo đã có mặt trên quê hương Việt Nam kể từ thời bình minh dựng nước của 2000 năm trước.
(Xem: 1722)
Nhà thơ, nhà văn nổi tiếng người Đức Hermann Hesse có lần viết trong tác phẩm “Siddhartha” rằng: “Cả hai đều lắng nghe dòng nước, đối với họ đó không chỉ là dòng nước, mà còn là âm ba của cuộc sống, tiếng nói của cái đang là, tiếng nói của cái sắp là.”
(Xem: 1930)
Chúng ta sinh ra và lớn lên trong cuộc đời này nhưng không phải ai cũng hiểu được nhờ đâu mà ta sinh ra hay mất đi và vì nhân duyên gì mà ta khổ đau hay hạnh phúc?
(Xem: 1788)
Phật Giáo đã có mặt trên quê hương Việt Nam kể từ thời bình minh dựng nước của 2000 năm trước.
(Xem: 2334)
Nếu một người có nghị lực, tâm trí, trong sáng trong suy nghĩ, lời nóiviệc làm một cách cẩn trọngcân nhắc, kiềm chế các giác quan của mình, kiếm sống theo Luật (Dhamma) và không vô tâm, thì danh vọng và tài lộc của người có tâm đó đều đặn tăng lên.
(Xem: 2458)
"Một thời Đức Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng, vườn Cấp Cô Độc. Bấy giờ Đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
(Xem: 2144)
Hạnh “bố thí” là một trong sáu hạnh của Bồ-tát làm phương tiện đưa đạo vào đời, đem lại niềm vui và xoa dịu nỗi đau của chúng sanh.
(Xem: 1933)
Từ nơi cao rộng mới thấy bao quát toàn cảnh bên dưới. Nào là núi, nào là rừng. Núi xa thì màu nhạt đi, núi gần thì sậm màu đất đá. Rừng thưa thì thấy cả những đường mòn quanh co xuyên qua các thảm lá mục và những tảng đá phong rêu; rừng sâu thì chỉ xanh một màu lá.
(Xem: 1841)
Trong kinh Thừa tự pháp, đức Phật dạy hàng đệ tử nên thừa tự giáo pháp của Ngài chứ không nên thừa tự tài vật của Ngài.
(Xem: 2024)
Người xưa thường nói: “Chúng ta chỉ có thể kiểm soát được hành động, nhưng không thể kiểm soát được kết quả” Xin Hãy Buông Gánh Nặng Xuống.
(Xem: 1784)
Dù những vật hữu tình hay vô tình đều có cội nguồn hình thành, lá rụng về cội, nước chảy về nguồn.
(Xem: 2787)
Khi bàn về cái tôi, người ta thường nói hóm hỉnh rằng: trong cuộc sống, cái tôi mà thệm dấu nặng thì thành TỘI; cái tôi huyền thì thành TỒI; và cái tôi sắc thì thành.. TỐI.
(Xem: 1904)
Muốn đi vào con đường giải thoát an vui thì phải đi qua con đường vô ngã, phải giải trừ, phải giảm nhẹ tình chấp ngã, không đường nào khác.
(Xem: 2244)
Tôi chưa từng chứng kiến sự ra đi của bất cứ ai. Trước khi mẹ tôi trở nên quá yếu, tôi chưa từng thấy ai bệnh nặng cả.
(Xem: 2195)
xuất gia hay tại gia, giàu hay nghèo, nam hay nữ, trẻ hay già cũng đều phải biết điều tiết, chế ngự tâm mình.
(Xem: 2558)
Có người nói tu không cần học Phật Pháp cũng được, chỉ cần học một pháp môn nào đó rồi chuyên tu pháp môn đó thì kết quả còn tốt hơn học nhiều pháp môn mà không chuyên tu.
(Xem: 1877)
Phật tử, chúng ta phải hằng ngày tự thân tu tập, tụng kinh, niệm Phật, ngồi thiền để tự cải tạo tâm mình theo hướng chân, thiện, mỹ.
(Xem: 2048)
Đừng đặt nặng vấn đề sống, chết. Đừng nghĩ đến điều đó. Chỉ cần thanh lọc tâm trí của bạn, thì điều đó sẽ an bài tất cả mọi thứ.
(Xem: 1921)
Trụ là ở chùa; Trì là gìn giữ trông nom chùa. Nghĩa là đối với sự uỷ thác của thập phương tín thí, nhân dân sở tại phải hết tâm, hết sức.
(Xem: 2095)
Đã xuất gia thì không ai là người ác cả, ác Tỷ kheo dùng để chỉ cho những người xuất gia tiến bộ chậm, chưa chuyển hóa các tập khí xấu ác của chính mình.
(Xem: 2674)
Quốc gia nào cũng vậy, bên cạnh những cái đẹp vẫn có cái xấu. Nếu cái tốt nhiều, cái xấu ít thì không đáng lo ngại.
(Xem: 3794)
Trong cuộc sống thường ngày có nhiều người rất dễ rơi vào tình trạng đau khổ, bởi vì có quá nhiều áp lực, nhiều gánh nặng, nhiều ưu tư, nỗi buồn trong lòng.
(Xem: 2348)
Những thành bại, được mất, hơn thua, tranh đoạt, tham vọng và thù hận v.v… sẽ chẳng có giá trị gì nếu như gần kề với cái chết.
(Xem: 2365)
Theo Thế Tôn, người tu mà không có lòng tin thiện pháp là một biểu hiện của bần cùng.
(Xem: 1723)
Cây phong đầu ngõ đã dần dần chuyển sắc lá. Lá vàng chen lá xanh. Lác đác vài chiếc lá phong chỉ mới úa vàng đã rơi quanh gốc, không theo tiến trình sinh trụ hoại diệt của thiên nhiên.
(Xem: 2042)
Các vị thiền sư tu tập theo pháp Phật khẳng định rằng tuy tâm khônghình dáng nhưng chúng ta có thể phân biệt được lúc nào tâm khỏe mạnh và lúc nào tâm bệnh hoạn.
(Xem: 2394)
Hôm trước, tôi có chia sẻ một phương cách để đối trị vọng tưởng, tâm chạy đi lang thang chỗ này chỗ kia bằng cách...
(Xem: 2361)
Khi có một điều không may mắn, bất như ý xảy đến thì đa phần chúng ta đều nghĩ và thậm chí đổ lỗi là do nghiệp.
(Xem: 2210)
Buông bỏ tất cả để tu hành vốn không bị xem là ích kỷ, thậm chí đó là cao thượng nhưng rũ bỏ trách nhiệm trước một thực trạng gia đình ngổn ngang là không thể chấp nhận, đáng bị phê phán.
(Xem: 3207)
Pháp luân nghĩa là bánh xe Phật pháp. Dhamma trong tiếng Pali (Nam Phạn) có nghĩa là Pháp Bảo, lời dạy từ Đức Phật.
(Xem: 2188)
Nghiệp nói cho đủ là nghiệp quả báo ứng, tức đã gây nhân thì có kết quả tương xứng, và quả đến sớm hay muộn khi hội đủ nhân duyên, hội đủ điều kiện.
(Xem: 2580)
Đây là một lời dạy phù hợp với cái nhìn sâu sắc cốt lõi của Phật giáo: rằng chúng ta đau khổ bởi vì chúng ta tin rằng chúng ta có một cái tôi.
(Xem: 2103)
Một nhóm sinh viên đến chùa để tìm hiểu về đạo Phật và kiến trúc chùa nhằm phục vụ cho chương trình học. Có một em tự giới thiệu mình là tín đồ của đạo Thiên Chúa.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant