Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Bát ngát Delhi

22 Tháng Hai 201100:00(Xem: 16920)
Bát ngát Delhi

Delhi bây giờ đang độ giữa đông, trời lạnh nhưng khô ráo, không có mưa phùn gió bấc như tiết lạnh thường thấy ở miền Trung hay miền Bắc Việt Nam. Sáng sớm và chiều tối, không gian mờ ảo trong màn sương mù giăng phủ, đây đó tiếng quạ kêu dáo dác trên những nóc nhà, vòm cây đã khiến cho Delhi trở nên âm u tịch mịch.

Ấn Độ là một đất nước có điều kiện khí hậu tương đối khắc nghiệt: rất nóng vào mùa hè và rất lạnh vào mùa đông. Và cũng chính vì sống trong điều kiện khí hậu như vậy nên người dân ở đây có một sức chịu đựng nắng mưa vô cùng giỏi. Trong cái nắng như thiêu như đốt hay trong mưa rơi gió lạnh, ít khi thấy họ sử dụng đến nón mũ hay áo mưa. Điều đó trở thành một thói quen, và thói quen này giúp họ có một sức đề kháng tốt để chấp nhận một điều kiện thiên nhiên không mấy được ưu đãi


Tuy vậy, trong thời tiết đông giá thế này người ta không thể không cần đến chăn mền, áo ấm, và hơn hết là một căn nhà để trú ngụ. Ở Delhi này có rất nhiều người vô gia cư, họ đã trải qua cuộc đời của mình bên những vỉa hè đường phố, mà những ngày đông rét mướt thế này thì tình cảnh như vậy thật đáng thương tâm. Ấn Độ không bị coi là một quốc gia nghèo, nhưng thật kỳ lạ, ở Ấn lại có quá nhiều người nghèo, và người nghèo ở đây rất dễ nhận ra: qua dáng dấp, áo quần và chính công việc họ đang làm. Ở Ấn Độ, mức chênh lệch giàu nghèo quá lớn, và giá trị con người lại được phân định qua điều đó.

Ở đây sự phân chia giai cấp vẫn còn rất rõ rệt, dù vấn đề này luật pháp Ấn đã bãi bỏ hơn năm mươi năm. Có thể bây giờ ta khó phân biệt rạch ròi ra bốn đẳng cấp như sử sách đã chép, nhưng ta có thể nhận ra một cách dễ dàng hai giai cấp hiện hữu song song trong lòng xã hội Ấn: giai cấp cao và giai cấp thấp. Và như một định luật, những người thuộc giai cấp cao thường là những người giàu; ngược lại, những người nghèo luôn thuộc về giai cấp thấp. Đến thời điểm này, tư tưởng về vị thế xuất thân vẫn còn nguyên vẹn hiệu lực trong xã hội Ấn. Điều này ở một góc độ nào đó đã giúp thiết lập trật tự xã hội ở đây, nhưng mặt khác nó đã tạo cho những người nghèo một lối sống thụ động, cam chịu, thiếu ý chí vươn lên. Hầu hết những người nghèo ở Delhi đều làm những công việc bị coi là thấp kém như lau quét nhà cửa, giặt giũ cho người giàu, đạp xe chở khách thuê, thu dọn rác, v.v… mà những công việc như vậy thì tiền công không bao giờ cao. Có những nhà giàu đã có nguyên một gia đình người nghèo đến phục vụ; và có những đứa bé còn rất nhỏ cũng đã bắt đầu tiếp nối công việc của cha mẹ mình, nói đúng hơn là đã thừa kế công việc của đẳng cấp mình từ hàng ngàn năm trước.

Xã hội Ấn ngày nay đã cách xa thời đức Phật hơn 2500 năm nhưng có những điều được mô tả trong kinh điển, nhất là trong Jākata, ta vẫn còn bắt gặp trên các nẻo đường; chẳng hạn như việc biểu diễn nhào lộn dạo trên đường, biểu diễn rắn, xiếc khỉ rong để mưu sinh. Trong Jākata, những công việc này chỉ dành riêng cho người nghèo thì ngày nay nó cũng như vậy. Về nghi thức tang lễ, Ấn Độ bây giờ vẫn không có gì khác với những cách thức đã được đề cập trong Jākata: xác chết luôn được hỏa thiêu và không bao giờ sử dụng đến quan tài. Người ta đặt xác chết lên một cái cáng, phủ vải trắng lên, rải hoa quanh người và khiêng đi thiêu. Thiêu xong, tro được đem rải xuống một dòng sông nào đó và sẽ không có thờ cúng gì về sau. Tuy thế sau một năm, họ sẽ tổ chức lễ tưởng niệm người mất tại một ngôi đền của họ. Cách thức sử dụng hương hoa cho việc thờ cúng, tang lễ vẫn không có gì khác vào thời đức Phật. Loại nước hương mà ta thường nghe nhắc đến nhiều trong kinh là chiên đàn (sandal) hiện vẫn được sử dụng phổ biến cho việc dâng cúng, và loại nước hương này có mùi vị rất đặc trưng. Người Ấn vẫn thích xâu hoa thành từng vòng nhỏ để dâng cúng, và loại hoa được dùng thông dụng để làm thành vòng là vạn thọ. Hoa vạn thọ ở đây thấy khá phổ biến nhưng hoa không lớn.

Xã hội Ấn nói chung khá bình lặng, hiền hòa. Họ sống gần gũi với thiên nhiên và rất yêu mến thiên nhiên. Ở đây ta có thể bắt gặp công viên bất cứ nơi đâu. Dọc hai bên những trục đường chính của Delhi luôn xanh ngát một màu xanh của cây cối. Những bảng hiệu dọc hai bên đường ghi “Delhi xanh” điều đó thật chính xác. Có những con đường chạy qua những công viên mà đôi lúc tưởng như đang đi qua một cánh rừng nào đó. Hai bên những đại lộ, không thấy có nhiều nhà cửa mà hầu hết là cây xanh. Phải nói rằng tinh thần bảo vệ thiên nhiên của người Ấn rất cao; dù người lớn hay trẻ nhỏ, họ không bao giờ có những hành động làm hại đến cây cối hay chim muông. Ở Delhi không có những tòa nhà chọc trời. Nó ít mang dáng dấp của một xã hội công nghiệp thời hiện đại, dù Delhi vẫn có sân bay quốc tế lớn, có hệ thống metrol hiện đại, có những nhà ga xe lửa quy mô.

Ở Delhi ta có thể thấy hàng ngày rất nhiều những loại chim mà ở Việt Nam chỉ xuất hiện ở trên rừng, chẳng hạn như diều hâu, quạ, sáo, két… Dân Ấn không bao giờ xua đuổi hay làm hại chúng, hơn thế họ còn đặt máng nước cho chúng uống và rải thức ăn cho chúng ăn. Thái độ sống này cũng được nhắc đến rất nhiều trong Jākata (thật chính xác khi người ta xem Jākata như là một bộ sử phản ánh đầy đủ và khách quan đời sống xã hội, kinh tế và chính trị thời đức Phật). Ở Ấn sẽ rất khó khăn để tìm ra một người gọi là “vô thần”. Dân Ấn rất coi trọng đời sống tâm linh. Họ có thể ngăn lại một đoạn đường trong khu phố để tổ chức tế lễ và những đám rước thần có thể bắt gặp hàng ngày trên đường. Người Ấn có một bề dày văn hóa hàng ngàn năm và họ ít chịu ảnh hưởng những nền văn hóa bên ngoài Ấn. Có người cho rằng dân Ấn sống bảo thủ. Thực ra rất khó đánh giá điều này. Có thể vì nền văn hóa của họ quá dày, đã ăn sâu vào trong máu thịt của họ nên nhưng nền văn hóa khác không đủ sức để thâm nhập vào.

Dân Ấn hầu hết đều ăn chay, và theo thống kê của một trang web của Ấn thì con số đó lên đến 80 phần trăm (thực ra người Ấn ăn chay không hoàn toàn thuần tuý vì thỉnh thoảng họ vẫn dùng thịt gà, trứng và một số loại thịt cá khác). Và vì ăn chay nên họ ít sử dụng đến các thức uống có men như bia rượu. Bia rượu chỉ phục vụ cho một số người rất ít trong xã hội, và họ có những cửa hàng bán riêng, bán theo giờ, không giống như ở Việt Nam hễ có quầy tạp hóa là có bán bia rượu. Ngay cả vấn đề hút thuốc lá, người dân ở đây cũng ít sử dụng đến. Ở Ấn Độ, từ các quầy hàng nhỏ bán rau quả cho đến những cửa hiệu sang trọng đều do nam giới đảm trách, nữ giới ít làm những công việc này. Ở xứ Việt Nam một thanh niên ngồi bán rau quả có thể là một điều lạ, nhưng ở đây nếu một thiếu nữ đứng bán thì mới là chuyện khác thường.

Ở Delhi, dọc hai bên đường phố, đâu đâu ta cũng thấy những bể nước uống công cộng. Không biết mô hình này có ảnh hưởng từ việc làm của vua A Dục (Asoka) trước đây không? Nhưng ngày xưa vua A Dục cho đào giếng hai bên đường là để phục vụ người qua đường nói chung, bất kể người giàu hay nghèo; còn việc gắn các thùng nước công cộng ngày nay, hẳn nhiên là người giàu cũng có thể uống, nhưng chủ yếu vẫn dành cho người nghèo, vì người giàu chẳng mấy khi ghé lại đó.

Có một điều rất đặc biệt ở Ấn là đến bây giờ người ta vẫn còn coi bò như một vị thần. Trừ những trục đường lớn xe cộ lưu thông nhiều, còn lại bò xuất hiệnmọi nơi, từ đường phố đến chợ búa. Chúng đi lang thang, vô tư lự giữa phố phường, ngủ bất cứ nơi đâu và ăn đồ bố thí từ con người. Chưa ở đâu người ta lại quý mến bò như ở đây. Người ta có thể dừng xe hơi lại mua rau, bánh mì cho bò ăn trước khi đi đến công sở và người ta cũng có thể đem thực phẩm mình mua từ chợ về cho bò ăn, mà đúng ra đó là thức ăn của gia đình họ. Và bò ở đây như cũng cảm nhận được tình cảm của con người dành cho chúng, nên trông chúng sống rất thoải mái giữa xã hội loài người. Bò ở xứ Ấn này cũng có phước thật!

Thật sự ở đây có rất nhiều điều khiến ta phải ngạc nhiên. Ngay khi ghé vào một dịch vụ tin học hay một tiệm Net nào đó cũng khiến ta ngỡ ngàng. Ấn Độ được xem là một nước có công nghệ phần mềm tin học hàng đầu thế giới, nhưng các dịch vụ computer hay internet ở đây lại không cho ta cảm nhận được điều đó. Để tìm ra một dịch vụ internet có cổng USB không phải là dễ ở đây, và có những tiệm nếu mình gắn đĩa vào là họ lấy thêm tiền. Tiền cho một giờ truy cập từ 10 đến 15 rupees (tương đương 3500-5000 đồng VN), tùy theo từng dịch vụ. Nói chung các dịch vụ Net ở đây không thể bằng Việt Nam được.

Đối với người con Phật, nỗi buồn lớn nhất khi đến Delhi nói riêng và Ấn Độ nói chung là nhận thấy bóng dáng mờ nhạt của Phật giáo trong đời sống xã hội. Thật khó tưởng tượng được nơi khai sinh ra Phật giáo giờ đây lại như thế này. Khắp Delhi rộng lớn ngày nay vẫn còn có một số chùa chiền, nhưng lượng tín đồ cũng không còn đáng kể gì. Người ta đưa ra rất nhiều nguyên nhân về sự suy tàn của Phật giáo Ấn Độ, mà nguyên nhân nào đối với người con Phật cũng tạo nên sự ngậm ngùi xót xa. Từ tình cảnh này, người con Phật phải thấy được trách nhiệm của mình hơn trong việc duy trì, bảo vệ và phát triển Phật pháp nơi mình đang sống. Bài học từ Phật giáo Ấn Độ là quá đắt, và vì thế những người con Phật không được phép quên nó.

Delhi là một thủ đô rộng lớn của một quốc gia rộng lớn, có một nền văn hóa lâu đời và đa dạng, nó chứa đựng trong lòng thật nhiều điều kỳ bí nên khiến người ta luôn phải ngạc nhiên khi sống trong đó. Và Delhi thật sự là một điểm đến bổ ích và thú vị cho những ai muốn tìm hiểu về một trong những nền văn hóa lớn của thế giới. Chắc chắn rằng, những ai đã đến và sống ở đây sẽ có những dấu ấn khó quên về con người và cuộc sống nơi này.

Nguồn: Tập San Pháp Luân 34
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 66)
Như người bị trúng tên độc là một trong những ảnh dụ gây ấn tượng mạnh mẽ về những việc cần làm ngay.
(Xem: 73)
Bất cứ chuyến đi nào cũng giữ lại trong tôi nhiều kỷ niệm.
(Xem: 114)
Bệnh tật và thống khổ không thể tách rời nhau, cho nên gọi là “Bệnh thống” [病痛], “Bệnh khổ” [病苦], “Tật khổ” [疾苦].
(Xem: 198)
Sống ở đời ai cũng mong muốn gia đạo bình an, sự nghiệp ổn định và phát triển.
(Xem: 370)
Một ngày nọ, Phật thấy một vị tăng khóc bên ngoài lối vào Tịnh xá Jetavana Vihara (Kỳ đà tinh xá).
(Xem: 299)
Trong những ngày vừa qua, câu chuyện về một vị sư mang tên T.M.T lan truyền trên mạng xã hội với hình ảnh một vị đầu trần
(Xem: 275)
Lòng từ bi giống như một hạt giống lành đặt vào lòng đất, từng ngày lớn lên thành sự thấu cảm, yêu thương.
(Xem: 274)
Bài bác có nghĩa là phủ nhận một điều gì đó và dùng lý lẽ để chứng minh điều đó là không đúng, theo sự hiểu biết của cá nhân của mình.
(Xem: 354)
Trong cuộc sống hiện đại, chúng ta gặp phải nhiều áp lực và lo lắng từ công việc, cuộc sống xã hội, về giao tiếp theo truyền thống và trên mạng xã hội.
(Xem: 385)
Là Phật tử, chúng ta thường được nghe giảng “đạo Phật là đạo của từ bi và trí tuệ”, nhưng ý nghĩa thật sự của đạo Phật là gì?
(Xem: 561)
Trong cuộc sống đời thường, mỗi một cá nhân chúng ta thường không để ý đến hiệu quả của lòng thương trong nhiều trường hợp ứng xử hoặc trong nhiều công việc thường ngày.
(Xem: 385)
Phra Ajaan Lee Dhammadharo (1907-1961), là một trong những vị thiền sư theo truyền thống tu khổ hạnh trong rừng.
(Xem: 385)
Ở đây, này Hiền giả, vị Thánh đệ tử thành tựu lòng tinbất động đối với Đức Phật… đối với Pháp…
(Xem: 473)
húng ta có thân này là do nghiệp. Nghiệp được hiểu đơn giản nhất, đời thường nhất là thói quen.
(Xem: 414)
Trong chùa có một anh câm. Không ai nhớ anh ta đến chùa từ bao giờ, vả lại cũng không mấy người để ý đến anh ta.
(Xem: 407)
Danh và thực trong đời sống xã hội là nói cái tên gọi và thực chất, chức danh và khả năng, danh vị và tài đức.
(Xem: 398)
Theo giáo thuyết nhà Phật, quán tưởng là tập trung tư tưởng để quan sát, phân tích và suy nghiệm một vấn đề, giúp cho thân an và tâm không loạn động, cũng như được chánh niệm.
(Xem: 413)
Theo Phật giáo, hồi hướng được làm với lòng ước nguyện để chuyển đổi những thiện hành trở thành nguyên nhân để giúp một người đạt được toàn giác.
(Xem: 516)
Như người bị trúng tên độc là một trong những ảnh dụ gây ấn tượng mạnh mẽ về những việc cần làm ngay.
(Xem: 347)
Là một công dân, bạn có thể trở nên dễ phục tùng các mệnh lệnh, sẵn sàng nhượng bộ các quyền của bạn hơn vì những lời hứa mơ hồ về sự an toàn.
(Xem: 299)
Chánh kiến là thấy biết đúng sự thật. Thấy biết về thiện và bất thiện, căn bản của thiện và bất thiện;
(Xem: 347)
Đã xuất gia thì không ai là người ác cả, ác Tỷ kheo dùng để chỉ cho những người xuất gia tiến bộ chậm, chưa chuyển hóa các tập khí xấu ác của chính mình.
(Xem: 358)
Con người khổ đau vì không biết và không thể sống đời sống chân thực (real life). Đời sống chân thựctrong bài này được gọi là “thực tại của đời sống”.
(Xem: 446)
Hiện tại chính là thời kỳ mạt pháp, pháp đã đến đoạn cuối của nó. Phần đông không chú trọng vào sự tu hành,
(Xem: 515)
Hôm nọ lúc Đức Thế Tôn đang giảng dạy ở tu viện Kỳ Viên, có một ông say rượu loạng quạng đi vô và nói "Thế Tôn, Con muốn xuất gia đi tu".
(Xem: 512)
Bốn mươi lăm năm thuyết pháp, Đức Phật đã dày công thiết lập nên lộ trình TU CHỨNG duy nhất, là VĂN - TƯ - TU.
(Xem: 525)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 526)
Chữ “tu” có nghĩa là “sửa đổi” hay “thay đổi”. Sửa chữa những hành vi bất thiện sai lầm để bản thân trở nên tốt đẹplương thiện hơn.
(Xem: 509)
Đức Phật đến với cuộc đời không gì khác ngoài chỉ bày cho con người một nếp sống hạnh phúc an lạc.
(Xem: 799)
Chết an lànhmong mỏi to lớn và sau cùng của một kiếp nhân sinh. Ngoài đời hằng mong sinh thuận tử an.
(Xem: 743)
Pháp giớivũ trụ được các bậc giác ngộ chứng ngộ.
(Xem: 1024)
Một số bài pháp hay nhất mà tôi từng nghe là những bài pháp của Đức Phật.
(Xem: 606)
Huyền thoại truyền thống về cuộc đơi Đức Phật kể lại rằng trong suốt thời niên thiếu và vào tuổi trưởng thành, thái tử Siddhattha
(Xem: 825)
Xã hội ngày nay, đời sống hiện đại phần nào làm con người bị cuốn vào guồng xoay vật chất như “thiêu thân”.
(Xem: 652)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 657)
Ái là tâm yêu thích. Người đời thì yêu thích nhiều thứ nên biển ái mênh mông.
(Xem: 525)
Chánh kiến là thấy biết đúng sự thật. Thấy biết về thiện và bất thiện, căn bản của thiện và bất thiện;
(Xem: 639)
Thiền sư Sawaki luôn nhấn mạnh đến tầm quan trọng của việc hành thiền hơn là học kinh sách hay tham công án.
(Xem: 604)
Cách đây hơn 2500 năm trước, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã từng dự ngôn
(Xem: 794)
“Sinh ra, tồn tại, suy biến và hoại diệt trong từng thoáng chốc. Thế gian được thấy như thế...”
(Xem: 567)
Một trong những giả định đằng sau Phật giáo đương đại (Contemporary Buddhism) là 'thông điệp' của Phật giáo có thể truyền đến...
(Xem: 974)
Con đường Bồ tát gồm hai sự tích tập trí huệ và tích tập công đức. Hai sự tích tập này đầy đủ thì được gọi là Lưỡng Túc Tôn, bậc hai sự đầy đủ, tức là một vị Phật.
(Xem: 722)
Có người nói thế giới này hư hoại, thật ra thế giới không có hư hoại. Vậy thì cái gì hư hoại?
(Xem: 711)
Buông bỏ là một hạnh lành, không phải người nào cũng làm được. Xả bỏ được bao nhiêu thì nhẹ nhàng và thong dong bấy nhiêu.
(Xem: 1168)
Nhân dịp Năm Mới, tôi xin cảm ơn tất cả những người đã gửi cho tôi những lời chúc tốt đẹp, và tôi xin gửi lời chào đến tất cả chư Huynh Đệ trên khắp thế giới.
(Xem: 808)
Trong lịch sử dân tộc Việt Nam, vị thủy tổ đầu tiên về nguồn gốc của dân tộc Việt Nam là...
(Xem: 686)
Theo truyền thuyết, rồng là loài vật linh thiêng, có thần thông, có khả năng làm mưa, phun ra khói, lửa, thăng, giáng, ẩn, hiện, biến hóa lớn nhỏ một cách tự tại.
(Xem: 1076)
Trí tuệ giống như ánh sáng, và có ba cấp độ:
(Xem: 650)
Chúng ta thường nghe dặn dò rằng, hãy tu đi, đừng nói nhiều, đừng lý luận nhiều, đừng dựa vào chữ nghĩa biện biệt sẽ dễ loạn tâm
(Xem: 774)
Trước khi tìm hiểu chủ đề “Nương thuyền Bát nhã là gì? ”, chúng ta cùng nhau tìm hiểu ý nghĩa của từ Bát nhã.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant