Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Cỏ đỏ trên mộ Chiêu Quân

04 Tháng Mười Hai 201000:00(Xem: 6279)
Cỏ đỏ trên mộ Chiêu Quân

Tỉnh Tuy Viễn ở Trung Hoa, bắc giáp Mông Cổ. Thị trấn tỉnh hội là Quy Tuy. Cách 10 cây số về phía nam có mộ của Vương Chiêu Quân, người cung phi tuyệt đẹp của Hán Nguyên đế, được tiếng là "trầm ngư"(*), một trong "tứ đại mỹ nhân" ở cổ Trung Hoa. 
Nơi đây có 3 tòa cổ miếu xây bằng đá và 4 tấm bia xoay mặt về hướng nam. Đó là mộ của nàng Chiêu Quân ở giữa; hai bên là mộ của 2 nữ tỳ đã cùng thác với nàng. Trên bia đá có khắc tên tuổi của ba người.
Mộ của Chiêu Quân đặt ở dưới ngôi miếu giữa. Trên mộ bia có khắc mấy dòng chữ đã mờ vì thời gian "Vương Chiêu Quân chi mộ". Trên một tấm bia chót to hơn, có ghi qua sự tích của nàng kỳ nữ Chiêu Quân.
Đây là cuộc đời của Chiêu Quân, vì lịnh vua, vì để làm một công việc hòa bình cho đất nước trong lúc vận nước suy đồi nên đem tấm thân liễu yếu đào tơ, vượt qua hai cửa ải Nhạn MônĐắc Thắng để sang cống Hồ.
Chiêu Quân tên là Vương Tường quê ở Tùy Quy là một cung phi của vua Nguyên đế đời nhà Hán (48-53 trước D.L.). Lúc bấy giờ vua Hán có đến ba ngàn mỹ nữ cung phi nên không thế nào biết mặt cả thảy được. Vua truyền tên thị vệ Mao Diên Thọ bảo họa sĩ vẽ hình tất cả những cung phi để vua ngắm và chọn làm hậu cung khi cần thiết.
Mao Diên Thọ được dịp "nước đục thả câu", ăn hối lộ của cung nhân. Hễ ai đút tiền thì truyền thần mặt xinh tươi, đẹp đẽ để dâng lên nhà vua. Cung nhân cũng nhờ đó mà hưởng được chút ơn mưa móc của quân vương, cho cuộc đời tài sắc của mình đỡ tẻ lạnh. Chiêu Quân đẹp hơn các cung phi khác nên không chịu đút lót tiền, lại còn xỉ vả nặng lời Diên Thọ. Do đó, khi cầm lấy bức ảnh Chiêu Quân, hắn lấy viết chấm dưới mắt ảnh nàng một chấm làm thành nốt ruồi. Rồi khi dâng tranh lên nhà vua, hắn lại xàm tấu cho rằng Chiêu Quân tuy đẹp nhưng vì có nốt ruồi mà sách tướng gọi là "thương phu trích lệ", đó là ruồi sát phu. Nhà vua nghe lời nên không đoái hoài đến nàng.
Rợ Hung Nô bấy giờ đánh thắng nhà Hán. Chúa Hung Nô buộc Hán Nguyên dến phải cống phẩm vật và một cung phi tuyệt sắc mới chịu bãi binh. Trong tình thế nguy của nước nhà, Nguyên đế phải đồng ý.
Vừa sợ việc làm bị bại lộ, vừa ghét Chiêu Quân nên Mao Diên Thọ mưu với bọn gian thần đem Chiêu Quân đi cống. Nguyên đế trước đã xem hình của Chiêu Quân nên bằng lòng đem nàng đi cống Hồ. Nhưng đến lúc Chiêu Quân vào triều bái để lên đường sang Phiên thì nhà vua mới trông thấy rõ mặt thật là một tuyệt thế giai nhân. Vua tức giận lắm, điều tra mới rõ mưu mô gian xảo của Diên Thọ, định đem trị tội. Thọ hay được trốn sang đầu hàng Hung Nô. Bây giờ sự thực đã rồi, không thể thay người khác được. Vì sứ giả đã nhận được mặt của Chiêu Quân.
Thế là Chiêu Quân từ biệt xứ sở cố hương, tới ải biên thùy Nhạn Môn. Nỗi thương nhớ nước nhà, nỗi giận kẻ gian thần, xót xa phận bồ liễu, nàng xuống kiệu song loan hướng về quê hương cố quốc, gảy một bản đàn biệt ly. Giọng đàn bi ai thảm thiết, những kẻ theo đưa tiễn đều não lòng rỏ lệ. Cây cỏ bên đường cũng héo xào gục xuống mặt đất như để xớt thảm chia sầu...
Chiêu quân chẳng những có sắc mà còn có tài đàn hay thơ giỏi. Nhìn một con chim lẻ cánh bạt gió về chiều, nàng xót xa cảm cho thân thế, cất tiếng ngâm:
 Cánh én cô đơn đượm tủi sầu,
 Ngang trời gió cuốn bạt về đâu?
 Quan san ngàn dặm vương thương nhớ,
 Hồ Hán từ đây cách biệt nhau.
Và:
 Mây trắng trời trong gió ngạt ngào,
 Hồn hoa mờ mịt dưới trăng sao,
 Đêm đêm thổn thức, đêm đêm mộng,
 Có phải trời xanh cợt má đào.
Và, khi mùa thu đến, nhìn mây thu, trời thu, sắc thu nhuộm úa lá vàng, dưới bầu trời ảm đạm lá vàng rơi lả tả, bài "Thu phong oán" của nàng còn truyền tụng do một tình cảm sâu đậm của một kỳ nữ vì nước ly hương:
Thu mộc lê thê,
Kỳ diệp nuy hoàng.
Hữu điểu xử sơn,
Tập ư bào tang.
Dưỡng dục mao vũ.
Hình dung sinh quang.
Ký đắc thanh vân,
Thượng du khúc phường.
Ly cung tuyệt khoáng.
Thân thế tồi tàn.
Chí niệm ức chẩm,
Bất đắc hiệt ngoan.
Tuy đắc ẩm thực,
Tâm hữu hồi hoàng.
Y hà ngã độc,
Vãng lai biến thường!
Phiên phiên chi yến,
Viễn tập Tây Khương,
Cao sơn nga nga.
Hà thủy ương ương
Phụ hề mẫu hề.
Đạo lý du trường.
Ô hô ai tai
Ưu tâm trắc thương!
Thái Bạch dịch:
Cành thu hiu hắt lá thu vàng,
Trên đỉnh non cao, đó rõ ràng.
Có một chim kìa hay đáo để,
Ở ăn tự lúc mớ ra dàng.
Ra dàng đã đủ cánh lông bay,
Thấy rõ hình dung quý giá thay.
Trên nóc lầu cao đá đổ xuống.
Chín từng mây thẳm đã tung bay.
Tung bay, nhưng khốn biết sao rầy;
Sự thế than ôi, nỗi nước này!
Nỗi nọ dường kia khôn tả xiết;
Gan sầu ruột héo, ngỏ ai hay!
Ai hay cho khúc đoạn trường này,
Cho nỗi quan hoài ở chốn đây!
Uống uống ăn ăn khôn đắp lại,
Những hờn những oán, những sầu cay!
Sầu cay riêng nghĩ xiết bàng hoàng,
Biết đến bao giờ hận mới tan.
Én nọ tung bay xập xòe cánh,
Đường xa mấy mấy dặm quan san.
Quan san thăm thẳm nỗi lòng đau,
Biển rộng non cao chất tủi sầu.
Vòi vọi đường xa muôn dặm cách,
Mưa nắng sân Lai, xót dãi dầu!
Dãi dầu ai hỡi thấu cho chăng?
Lấp đặng cho ai những bất bằng.
Những nhớ những thương tầy núi biển,
Tình thu chan chứa hận sầu vương!
Khi đến Lạc Nhạn đài bên sông Hắc Thủy, Chiêu Quân bắt được chim nhạn, liền viết thư buộc vào chân nhạn, rồi thả cho bay đi, mong nó mang tin về quê hương. Nhìn chiếc nhạn bay, nhìn dòng sông Hắc Thủy, nàng xót xa đau đớn, ngao ngán thở dài:
Thủy hà sóng lạnh gió đìu hiu,
Cánh nhạn lê thê giải nắng chiều.
Thấp thoáng mây về nơi lữ thứ,
Mơ màng một giấc mộng cô liêu.
Ngâm thơ xong, nàng lao mình xuống sông Hắc Thủy. Cái chết trinh liệt của nàng khiến cho mọi người, kể cả chúa Hung Nô cũng ngậm ngùi thương tiếc, cảm phục người kỳ nữ nhà Hán. Nhứt là chúa Hung Nô tưởng là hoa nọ về tay, người mang tiếng là chúa của một nước rợ oai hùng sẽ được cùng người ngọc Trung Nguyên âu yếm, tận hưởng tất cả những khoái cảm của cuộc đời người, không ngờ mối hy vọng nay đã hoàn toàn tan vỡ.
Văn thơ đời Hán và đời sau có nhiều bài nói về cuộc đờica tụng đức tính hy sinh cao khiết của Chiêu Quân. Đến đời nhà Tấn (265-419), Tấn chúa Tư Mã Chiêu đổi tên Chiêu Quân là Minh Phi. Thạch Sùng sáng tác khúc ca gọi là Vương Minh Quân. Có khúc cổ nhạc phủ được phổ biến ở Trung Hoa xưa gọi là khúc "Chiêu Quân oán", "Chiêu Quân cống Hồ".
Tương truyền cỏ ở chung quanh đất nầy đều màu trắng, chỉ riêng cỏ mọc trên mộ Chiêu Quân màu đỏ, là giống màu cỏ ở Trung Nguyên mà thôi. Phải chăng đó là hồn thiêng của đất nước của người kỳ nữ đã hun đúc tạo thành một vật lạ lùng để tiếng muôn đời.
Trong tác phẩm "Đoạn trường tân thanh" của cụ Nguyễn Du, đoạn diễn tả khúc Kiều đánh đàn cho Kim Trọng nghe buổi sơ ngộ có câu:

Quá quan này khúc Chiêu Quân,
Nửa phần luyến chúa, nửa phần tư gia.

Trong tác phẩm "Lục Vân Tiên" của cụ Nguyễn Đình Chiểu cũng có câu:

Chiêu Quân xưa cũng cống Hồ,
Bởi người Diên Thọ họa đồ gây nên.

*: theo tư liệu khác, tứ đại mỹ nhân được mô tả theo 4 vẻ đẹp:Tây Thi "trầm ngư", Điêu Thuyền "nguyệt thẹn", Chiêu Quân "lạc nhạn" (vì chim nhạn thấy nàng đi cống Hồ, mải nhìn mà đâm vào đá(!?)), Dương quý phi(Dương Ngọc Hoàn) "hoa nhường". Mỗi vẻ đẹp đều có tích riêng. Tôi ghi thêm vào đây chứ phần này không có trong tác phẩm.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 6312)
Vương Bột tự Tử An, người đất Long Môn. Sáu tuổi đã biết làm văn. Mười sáu, mười bảy tuổi nổi danh hạ bút nên vần.
(Xem: 5794)
Đời Chu Tương Vương (651-617 trước D.L.), Tần Mục Công làm bá chủ các nước ở tây phương. Nhà vua có một người con gái.
(Xem: 5656)
Có một chàng tên Giang Thu San, quê ở An Huy, vốn người phong nhã, tính ưu ngao du sơn thủy. Gặp buổi ngày xuân, chàng liền rủ bạn sang Kim Lăng thưởng xuân.
(Xem: 5863)
Hằng Nga trong cung trăng: Theo sách của Hoài Nam Tử, Hậu Nghệ xin thuốc trường sinh của bà Tây Vương Mẫu, Hằng Nga là vợ của Hậu Nghệ uống trộm...
(Xem: 30619)
Ý của câu thành ngữ này là chỉ chim chóc bị săn bắn hết rồi thì cất cung nỏ vào kho. Câu thành ngữ này có xuất xứ từ "Sử ký - Việt thế gia".
(Xem: 6959)
Điêu Thuyền (chữ Hán: 貂蟬, bính âm: diào chán) là một người đẹp trong tứ đạinhân Trung Hoa và là một nhân vật nổi tiếng trong tiểu thuyết Tam Quốc diễn nghĩa.
(Xem: 5897)
"Đẩu ngọc xích bố" có nghĩ là một đấu lúa, một thước vải. Ngày xưa Cao Tổ có hai đứa con Hán Văn Đế và Hoài Nam Vương.
(Xem: 6223)
Đời nhà Tấn (265-419) có quan Thái Úy tên Khước Giám muốn chọn một người rể hiền, mới cho người đến trường của Vương Đạo xem trong đám học sinh...
(Xem: 7361)
Người Việt Nam xưa chia tầng lớp xã hội ra làm 4: Công, Nông, Binh, Thương. Công là những người làm nghề công nhân nhà máy, chuyên về công nghiệp.
(Xem: 7964)
"Xe dê" do chữ "Dương xa". Ngày xưa, nhà vua nào cũng vậy, ngoài có hoàng hậu, thứ phi còn có hàng ngàn cung nữ, chọn lấy người đẹp...
(Xem: 5871)
"Xích thằng" là tơ hồng hay chỉ hồng. "Nguyệt lão" là ông già dưới trăng do chữ "Nguyệt Hạ Lão Nhân", nói tắt.
(Xem: 7033)
Vương Chiêu Quân (王昭君) cũng như Tây Thi, Điêu Thuyền, Dương Quí Phi, nổi danh không chỉ bởi với nhan sắc mà còn bởi tài năng và những dấu ấn nàng để lại trong lịch sử.
(Xem: 6788)
Chùa Bà Đanh là tên gọi Nôm của chùa Châu Lâm. Chùa này được cất lên cùng với viện Châu Lâm vào thời vua Lê Thánh Tông (1460-1497)...
(Xem: 10862)
Thành ngữ "Trung ngôn nghịch nhĩ". Tức nói thật mất lòng, hoặc nói thẳng nghe trái tai. Câu thành ngữ này có xuất xứ từ "Sử ký-Lưu Hầu Thế Gia".
(Xem: 8909)
Ngày xưa có anh học trò tên là Trần Miên, học hành rất thông minh và siêng năng. Tuy vậy, anh ta rất nghèo.
(Xem: 8008)
"Trúc mai" là cây trúc và cây bương. Trúc thuộc một loại tre nhỏ. Bương là một giống tre to ở rừng. Lá to có thể dùng gói bánh.
(Xem: 6594)
Trong vùng có nàng họ Lương tên Bích Nga, sắc đẹp lộng lẫy, duyên dáng cực kỳ. Cha mẹ mất sớm, nàng họ Lương phải ở nhờ cô ruột.
(Xem: 5797)
Lịch cổ nước Tàu chia một năm ra làm 8 tiết, gọi là "Bát tiết": lập Xuân, lập Hạ, lập Thu, lập Đông, Xuân phân, Thu phân, Hạ chí và Đông chí.
(Xem: 5963)
"Tựa cửa", "tựa cổng" do chữ "Ỷ môn", "Ỷ tư". Nhạc Nghị là tướng nước Yên đời Chiến Quốc đem quân đánh Tề, hạ được 72 thành.
(Xem: 5847)
Người Trung Hoa ngày xưa chọn bốn người con gái có sắc đẹp tuyệt nhất trong lịch sử, gọi là "Tứ Đại Mỹ Nhân", đó là Tây Thi...
(Xem: 6610)
Đời nhà Lý (1010-1225), vua Lý Thái Tông tên Phật Mã lúc còn làm thái tử (1020), Lý Thái Tổ là Lý Công Uẩn sai đem quân đánh Chiêm Thành.
(Xem: 5464)
Tết Đoan Dương cũng gọi là Tết Đoan Ngọ. Theo phong tục Tàu, tết này ăn vào ngày mồng 5 tháng 5.
(Xem: 5773)
Tết Trung Thu ăn vào ngày rằm tháng 8. Nguyên cuối đời nhà Tây Hán (206 trước 23 sau D.L.), Vương Mãng nhân được cầm giữ chính quyền...
(Xem: 5938)
Theo phong tục của Tàu, Tết Trùng Cửu ăn vào ngày mồng 9 tháng 9. Nguyên đời Hậu Hán (25-250) có Hoàng Cảnh, người huyện Nhữ Nam...
(Xem: 5500)
Tết này ăn vào ngày mồng 3 tháng 3. Vào ngày này người Tàu ăn toàn đồ nguội và tổ chức những cuộc chơi vui vẻ lắm.
(Xem: 6996)
Tây Thi (chữ Hán: 西施; bính âm: xi shi, 506 TCN-?) là một người con gái rất đẹp thời Xuân Thu và cũng là một trong Tứ đạinhân Trung Quốc.
(Xem: 9767)
Đạo gia (tức Đạo giáo, theo học thuyết của Lão Tử) cho rằng cái Thần (tinh thần) của con người ở vào ba nơi. Một ở óc, hai ở minh đường (quả tim)...
(Xem: 16388)
Thoạt nghe, không ít người nghĩ rằng, trong nội dung câu thành ngữ "Sư Tử Hà Đông" có điều gì liên can đến đất Hà Đông xưa của Việt Nam.
(Xem: 5752)
"Suối vàng" do chữ "Huỳnh tuyền" tức là suối nước màu vàng. Người Tàu ngày xưa tin rằng ở dưới âm phủ có chín cái suối nước vàng...
(Xem: 8347)
Ngày xưa, một nhà quan lang họ Cao có hai người con trai hơn nhau một tuổi và giống nhau như in, đến nỗi người ngoài không phân biệt được ai là anh, ai là em
(Xem: 5999)
Ngày xưa, vào hồi Tây Sơn khởi nghĩa, có một chàng trai người vùng Đồng Nai, có tài cả văn lẫn võ, đã vung gươm hưởng ứng sự bất bình của thiên hạ.
(Xem: 5552)
Ngày xửa... Ngày xưa... Có một cô bé rất giàu lòng yêu thương. Cô yêu bố mẹ mình, chị mình đã đành, cô còn yêu cả bà con quanh xóm...
(Xem: 5620)
Có hai vợ chồng một ông già tên là Dã Tràng. Trong vườn họ có một hang rắn. Thường ngày làm cỏ gần đấy, ông già vẫn thấy có một cặp vợ chồng rắn...
(Xem: 5951)
Ngày ấy, không biết từ bao giờ và cũng không biết bằng cách gì, Quỷ chiếm đoạt tất cả đất nước. Người chỉ ăn nhờ ở đậu và làm rẽ ruộng đất...
(Xem: 15016)
Sử còn ghi lại, nơi địa đầu tỉnh Quảng Bình ngày nay có một vùng đất rộng lớn cạnh là Hồ Xá, nên gọi là Truông Nhà Hồ.
(Xem: 11965)
Sào Phủ Hứa Do là tên một tích truyện cổ Trung Quốc, lấy tên hai nhân vật trong đó là Sào Phủ (chữ Hán:巢父) và Hứa Do (許由).
(Xem: 7282)
Theo "Tây Hán chí ", "Sa nang ủng thủy" là một kế hoạch của tướng Hán là Hàn Tín đánh bại quân Sở tại ngọn sông Duy thuộc tỉnh Sơn Đông.
(Xem: 8087)
Nàng Bân là con gái của Ngọc Hoàng nhưng khác với nhiều chị em của mình, nàng Bân chậm chạp và có phần vụng về.
(Xem: 10365)
Niêm hoa vi tiếu: nói đầy đủ là: "Thế tôn niêm hoa, Ca Diếp vi tiếu." Nghĩa là: Đức Phật Thích Ca cầm cái hoa đưa lên, ông Ma Ha Ca Diếp mỉm cười.
(Xem: 5663)
Thời Chiến Quốc, thái tử Đan nước Yến đang làm con tin tại nước Việt đã quen biết với Tần Vương Chính cũng đang làm con tin tại nước Triệu.
(Xem: 5056)
Nhan: Là Nhan Hồi, quê ở nước Lỗ, tự là Tử Uyên, học trò ưu tú của Khổng Tử. Nhan Hồi siêng năng, học giỏi, cam sống cảnh nghèo mà vẫn vui vẻ.
(Xem: 6234)
Ngưu Lang là một gã chăn trâu nghèo, gặp Chức Nữ, một nàng tiên. Hai người yêu nhau say đắm. Ngọc Hoàng Thượng Đế bèn cho hai người lấy nhau.
(Xem: 9853)
Ngày Tết, người Việt Nam thường chúc nhau "Ngũ Phúc Lâm Môn", có nghĩa là năm hồng phúc đến nhà. Ngũ Phúc ấy là: + Phú: Nghĩa là giàu có...
(Xem: 9394)
Trong chiến tranh thế giới lần thứ 2, tên phát xít đầu sỏ Adolf Hitler cầm đầu phần tử Nazi đã thực hiện hành động diệt chủng vô cùng tàn bạo...
(Xem: 7313)
Truyền rằng, thời xưa có hai trái núi là Thái Hàng và Vương Ốc. Có một ông già nhà ở phía bắc núi tên là Ngu Công. Do có hai trái núi này...
(Xem: 16548)
Đời Vũ Đế nhà Hán (140-86 trước D.L.), có một người phường chèo tên Lý Diên Niên múa hát rất giỏi. Được hầu trong nội điện, cung vi của nhà vua...
(Xem: 6273)
Trầm là một loại cây có mùi hương, nên còn được gọi là Trầm Hương, trị được nhiều chứng bệnh, rất quí và hiếm. Những người đi tìm Trầm thường được gọi là "đi điệu"
(Xem: 5366)
Thông thường, trong các kinh điển, thành ngữ «sư tử hống» hay tiếng rống của con sư tử được dùng theo các ý nghĩa như sau:
(Xem: 5235)
"Ngôn quá kỳ hành..." nguyên câu là: "Ngôn quá kỳ hành bất khả trọng dụng" đó là lời nói của Lưu Bị chúa nước Tây Thục đời Tam Quốc...
(Xem: 9236)
Ở Trung Hoa ngày xưa, nơi thôn quê, người ta thường trồng dâu gần bên đường. "Mạch thượng tang" cũng là tên khúc hát cổ nhạc phủ của nàng La Phu nước Triệu...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant