Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Bảo Kiếm

28 Tháng Giêng 201100:00(Xem: 7257)
Bảo Kiếm

Âu Dã Tử là một kiếm sư đại tài thời Xuân Thu Chiến Quốc. Ông ta đúc ra những thanh gươm rất tốt, chém sắt như chém bùn. Vua nước Việt là Doãn Thường bèn triệu tới nhờ đúc gươm. Âu Dã Tử vâng lệnh cho đốt lò nung vàng và sắt theo lượng đã tính toán, nhưng đã bao ngày đêm ròng rã mà luyện mãi không thành. Cuối cùng ông ta cùng vợ nhảy vào lò luyện thì sắt mới chảy ra và học trò ông ta luyện thành 5 thanh gươm quý đem dâng lên vua Việt. Năm thanh gươm được đặt tên là: Tử Điển, Trảm Lư, Cự Khuyết, Bàng Dĩnh, Trủy Thủ.

Sau vua nước Việt đem 3 thanh gươm Trảm Lư, Bàng Dĩnh và Trủy Thủ dâng cho vua nước Ngô là Chư Phàn. Vua Ngô ban thanh Trủy Thủ cho con là công Tử Quang. Khi sắp mất thì Chư Phàn vâng theo di ý tiên vương không truyền ngôi cho con mà truyền cho các em Dư Sái, Di Muội lần lượt nối ngôi. Di Muội mất, đáng lẽ ngôi vua về em út là công tử Quý Trát, nhưng Quý Trát không chịu làm vua. Ngôi vua đáng lẽ phải trở về tay con Chư Phàn là công tử Quang, nhưng con Di Muội là Vương Liêu cậy thế lực tự lên làm vua. Công tử Quang bất mãn bèn âm mưu với Ngũ Tử Tư chống Vương Liêu. Ngũ Tử Tư tiến cử Chuyên Chư là tay dũng sĩ có tiếng hiếu thảo với mẹ.


Công tử Quang đem vàng lụa, gạo thịt chu cấp cho Chuyên Chư nuôi mẹ. Chuyên Chư cảm nghĩa nhận hy sinh hành thích Vương Liêu. Vì Vương Liêu mê ăn uống món ngon vật lạ, Chuyên Chư phải qua Thái Hồ học nghề nướng cá. Khi thành nghề, Chuyên Chư trở về. Công tử Quang mời Vương Liêu qua nhà đãi tiệc. Vương Liêu mặc 3 lần áo giáp sắt, mang theo 100 giáp sĩ qua nhà công tử Quang. Tất cả mọi người vào nhà đều bị khám xét kỹ lưỡng. Công tử Quang giao thanh gươm Trủy Thủ cho Chuyên Chư, thanh gươm này rất sắc bén mà lưỡi rất ngắn. Chuyên Chư bèn giấu thanh gươm trong ruột con cá mang vào dâng Vương Liêu. Giáp sĩ khám người Chuyên Chư không thấy vũ khí nên cho vào.


Mang mâm cá tới gần Vương Liêu, Chuyên Chư rút thanh Trủy Thủ ra đâm vào bụng Vương Liêu, thủng qua 3 lần áo giáp sắt, giết chết hắn. Giáp sĩ xông tới bằm nát Chuyên Chư. Công tử Quang phục sẵn quân đánh tan quân Vương Liêu và kéo vào triều xưng làm vua, tức là Hạp Lư. Hạp Lư sai quân đuổi đánh các con của Vương Liêu, sai Yêu Ly làm khổ nhục kế lén đâm chết Khánh Kỵ dứt hậu họa.


Thanh gươm Trủy Thủ giấu trong bụng cá nên được gọi là Ngư Trường.


Hạp Lư sau này sai Can Tương đúc gươm báu. Can Tương là sư đệ cùng thầy với Âu Dã Tử. Can Tương lập lò nấu sắt hoài không chảy, vợ là nàng Mạc Gia nhớ lại câu truyện của vợ chồng Âu Dã Tử bèn ăn chay tắm gội sạch sẽ rồi nhảy vào lò. Can Tương luyện được 2 thanh gươm, đặt tên thanh trống là Can Tương, thanh mái là Mạc Gia, chém sắt đá đều đứt ngọt. Can Tương dâng thanh Mạc Gia cho Hạp Lư, còn mình giữ thanh Can Tương. Ít lâu sau, Hạp Lư nghe nói Can Tương còn giữ 1 thanh gươm báu bèn truyền lệnh phải đem dâng vua. Quân sĩ tới nhà bắt, Can Tương rút thanh Can Tương ra, thanh gươm hóa thành con rồng chở Can Tương bay đi mất.


Nguyễn Công Trứ đã dùng chữ Can Tương để chỉ thanh gươm như trong câu thơ:


"Trong lang miếu ra tài lương đống

Ngoài biên thùy rạch mũi Can Tương"

Qua các cuộc chiến tranh liên miên các thanh gươm báu đều thất lạc. Thanh Trảm Lư lọt vào tay vua Tần, được cẩn thêm viên ngọc và đổi tên là Thái A. Khác với Ngư Trường, thanh Thái A kiếm rất dài, vua Tần luôn đeo bên mình. Khi Thái tử Đan nước Yên sai Kinh Kha đi sứ để hành thích Tần Thủy Hoàng, Kinh Kha rút đoản kiếm giấu trong tấm bản đồ ra đâm vua Tần. Tần Thủy Hoàng tránh được bỏ chạy, Kinh Kha cầm gươm rượt theo. TTH rút gươm nhưng vì thanh Thái A dài quá bị vướng vào bao gươm, TTH trong lúc lúng túng không rút ra được. Các quan trong triều thì không ai được phép mang vũ khí nên chỉ đưa mắt ngó. Nội thị là Triệu Cao bèn nhắc vua Tần cắt bỏ bao gươm, nên TTH rút được gươm chém Kinh Kha. KK đưa gươm đỡ bị Thái A kiếm chém đứt lưỡi gươm sả luôn xuống đùi. Lúc đó giáp sĩ bên ngoài ào vào bắt KK giết. Triệu Cao có công cứu giá được gia phong chức tước, sau lên tới chức Tả Thừa Tướng.


Thanh gươm Thái A sau này được truyền qua các đời vua, đổi tên là Long Tuyền và được coi như là biểu hiệu uy quyền của nhà vua. Tuy nhiên người đời sau vẫn dùng chữ Long Tuyền để chỉ thanh gươm báu. Chẳng hạn như trong bài thơ Cảm Hoài của Đặng Dung sau đây:


Thế sự du du nại lão hà

Vô cùng thiên địa nhập hàm ca
Thời lai đồ điếu thành công dị
Vận khứ anh hùng ẩm hận đa
Trí chúa hữu hoài phù địa trục
Tẩy binh vô lộ vãn thiên hà
Quốc thù vị báo đầu tiên bạch
Kỷ độ Long Tuyền đới nguyệt ma

Phan Kế Bính dịch:


Việc đời bối rối tuổi già vay

Trời đất vô cùng một cuộc say
Bần tiện gặp thời lên cũng dễ
Anh hùng lỡ bước ngẫm càng cay
Vai khiêng trái đất mong phò chúa
Giáp gột sông trời khó vạch mây
Thù trả chưa xong đầu đã bạc
Gươm mài bóng nguyệt biết bao rày

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 6953)
Vương Tường, đời Tần, mồ côi mẹ, phải sống với dì ghẻ. Bà dì ghẻ rất độc ác, tuy vậy, Vương Tường vẫn một lòng hiếu thảo.
(Xem: 12428)
"Nằm gai nếm mật" do chữ "Ngọa tân thường đảm". Đời Xuân Thu (722-479 trước D.L.), hai nước Ngô và Việt đánh nhau. Sau trận đại bại tại Cối Kê...
(Xem: 41533)
Quản Lộ tự Công Minh, vốn người ở đất Bình Nguyên đời Tam Quốc (220-264) diện mạo xấu xí, thích uống rượu. Từ bé, Lộ ham xem thiên văn...
(Xem: 6821)
Ngày xưa có một nhà vua, tuổi quá ngũ tuần rồi mà chưa được xem một quyển sách nào. Bộ sách ông thèm khát được đọc là bộ "Lịch sử loài người"...
(Xem: 8889)
Tục xưa truyền Sở Tương Vương nằm mơ thấy thần nữ trên núi Vu Sơn, hỏi ở đâu lại thì đáp rằng: "Thần nữ thường làm mây buổi sáng, làm mưa buổi chiều".
(Xem: 9052)
Ngày xưa có một người nhà quê lấy phải vợ độc ác. Người vợ này đối xử với mẹ chồng rất là hỗn láo vô lễ. Người chồng khuyên hoài không được, bèn nghĩ ra một kế.
(Xem: 9338)
Hiện nay, truyền thuyết Lương Sơn Bá-Chúc Anh Đài được lưu truyền dưới nhiều hình thức nghệ thuật khác như kể chuyện, ca dao, truyền kỳ, kịch, khúc nghệ, âm nhạc, v.v
(Xem: 9259)
Trong tác phẩm "Đoạn trường tân thanh" của cụ Nguyễn Du, lúc nàng Kiều bán mình chuộc tội cho cha, sắp sửa về ở cùng Mã Giám Sinh, nàng nhắn nhủ với em là Thúy Vân...
(Xem: 25126)
"Chương Đài" là tên một con đường ở thành Trường An bên Tàu. "Hỏi Liễu Chương Đài" là hỏi thăm cây liễu ở đường Chương Đài. Đây có nghĩa là hỏi thăm người tình nhân cũ...
(Xem: 10323)
Theo tục lệ Việt Nam, để hoàn tất một đám cưới, người ta phải có đủ 6 lễ, gọi là Lục Lễ: 1/ Nạp Thái: Nhà trai nhờ người đến nhà gái ướm ý...
(Xem: 110626)
Lục dục ( 六欲 ) gồm: 1. Sắc dục: ham muốn nhìn thấy sắc đẹp. 2. Thinh dục: ham muốn nghe âm thanh êm tai...
(Xem: 9275)
Vào cuối thế kỷ thứ hai, Triệu Thị Trinh (bà Triệu) cùng anh là Triệu Quốc Đạt lãnh đạo cuộc khởi nghĩa của nhân dân Giao-châu chống quân Ngô. Ban đầu Triệu Quốc Đạt khuyên can...
(Xem: 8163)
Năm Tiết Đào lên tám, một hôm vào mùa thu, Tiết Đào đứng chơi bên cạnh cha, gần một cây ngô đồng. Cây đã già, cành lá sum sê đứng sừng sững trước nhà...
(Xem: 13308)
Ngụy Thù, người nước Tấn, có người vợ lẻ trẻ đẹp. Lúc Ngụy Thù gần chết, không muốn cho người vợ thuộc về người khác, bèn dặn con là Ngụy Khỏa phải chôn sống nàng...
(Xem: 7952)
Trên đồ sứ Trung Hoa, ta thường thấy vẽ 7 ông cụ già ngồi trong rừng tre, kẻ đánh cờ, gẩy đàn, người uống rượu ngâm thơ. Đó là hình ảnh của Trúc Lâm Thất Hiền...
(Xem: 18318)
Trong sách "Quần ngọc chú" có ghi lại chuyện Tỉnh Lang đi chơi chùa Nam Huệ Tự. Ở chùa, Tỉnh Lang nằm chơi một lúc đã ngủ thiếp đi không hay biết gì.
(Xem: 6278)
Trịnh Công Sơn đã nói rằng ông đặt nghệ danh cho ca sĩ Lệ Mai là Khánh Ly bởi vì ông hâm mộ hai nhân vật trong lịch sử là Khánh Kỵ và Yêu Ly.
(Xem: 5916)
Thôi Hộ, một danh sĩ đời nhà Đường (618-907), nhân dự hội Đạp Thanh đến Đào Hoa Trang, gõ cửa một nhà xin được giải khát. Một thiếu nữ đứng thập thò bên cửa...
(Xem: 9101)
Trung Quốc, đời nhà Trần, người hầu cận Thái Tử là Từ Đức Ngôn có tình với Nhạc Xương công chúa. Khi nhà Trần suy loạn, Từ bảo công chúa:- Nước mất, nàng tất lọt vào nhà quyền quý.
(Xem: 59721)
Trong "Nam Kha ký thuật" của Lý Công Tá đời nhà Đường có kể truyện Thuần Vu Phần nằm mộng thấy chàng đến nước Hòe An. Thuần được vua Hòe An cho vào bái yết.
(Xem: 6918)
Thuần Vu Phần ngày xưa rất nghèo, nằm ngủ bên gốc cây hòe, chiêm bao thấy hai sứ giả mời ông làm Phò mã,...
(Xem: 26549)
"Hoàng lương" có nghĩa là kê vàng. Ngày xưa có Lư Sinh đi thi không đỗ, vào hàng cơm nghỉ chân. Có một lão già cho mượn một cái gối nằm.
(Xem: 13628)
Thời Ngũ Đại, có một người tên là Mã Ân, tiếm ngôi vua. Mã Ân nguyên trước chỉ là một vị quan võ nhỏ, bộ hạ của quan Vũ An Tiết Độ Sứ đời Đường...
(Xem: 6827)
Dương Quý Phi (chữ Hán:楊貴妃, 719 – 756) là một cung phi của Đường Minh Hoàng. Bà được xếp vào một trong Tứ đại mĩ nhân của lịch sử Trung Quốc
(Xem: 41111)
"Ba sinh" do chữ "Tam sinh" nghĩa là ba kiếp luân chuyển: kiếp này sang kiếp khác. Duyên nợ ba sinhduyên nợ từ ba kiếp với nhau.
(Xem: 9264)
Câu thành ngữ này có nghĩa là bàn định với con cáo hoặc con hổ để lột da chúng. Nay thường dùng để ví về những việc bàn luận đều phải hy sinh lợi ích của đối phương...
(Xem: 9111)
Điển tích Tơ Hồng do chuyện ngày xưa, bên Tàu có một người tên là Vi Cố, một bữa đi chơi trăng, bắt gặp một ông già đang ngồi xe các sợi dây đỏ.
(Xem: 6470)
Chim Cuốc còn có tên là Đỗ Quyên, Tử Quy hay Đỗ Vũ. Giống chim này, đầu mỏ hơi cong, miệng to đuôi dài, lưng màu tro, bụng sắc trắng có một đường đen...
(Xem: 12039)
Chim Việt là loài chim sinh ở đất Việt, thuộc phía nam nước Tàu. Mỗi năm cứ đến buổi đầu thu, từng đàn chim Việt bay sang phương Bắc để kiếm ăn.
(Xem: 19148)
Ngày nay, mọi người đều hiểu thành ngữ này là một cách nói ngoa dụ để chỉ người đàn bà rất đẹp, giống như cách hiểu thành ngữ "hoa hờn nguyệt thẹn"...
(Xem: 10329)
"Chắp cánh, liền cành" tức là "Chim chắp cánh, cây liền cành". Sách Nhĩ Nhã chép: Chim Kiêm giống chim le le, lông màu xanh, chỉ có một cánh và một mắt, thường ở phương Nam.
(Xem: 41586)
Hợp Phố xưa thuộc tỉnh Giao Châu, nay là Quảng Đông. Vào thời Bắc thuộc, miền bể ấy có rất nhiều ngọc châu (ngọc trai).
(Xem: 13035)
Tục truyền rằng đời xưa có một loại người gọi là Giao Nhân, ở dưới biển Nam Hải lên buôn bán với con người. Đến cuối năm thì họ phải trở về Thủy Cung.
(Xem: 14067)
Đời Hậu Hán (25-219), ở đất Giang Nam có một chàng hàn sĩ tên Lương Hồng. Nhà nghèo, Lương Hồng ở trong túp lều tranh vách đất. Họ Lương chăm học biết trọng liêm sỉ,...
(Xem: 11643)
Đời Tam Quốc (220-264), Tào Thực tự Tử Kiến là con thứ ba của Tào Tháo, vốn có tài làm thơ hay, được tiếng là đệ nhất thi nhân đời Tần-Hán nhưng có tính phóng túng.
(Xem: 9678)
Tục truyền có chàng thợ săn tên Dã Tràng, một ngày kia nhìn thấy một cặp rắn. Khi con rắn cái lột da thì rắn đực đi tìm đồ ăn mang về cho.
(Xem: 8008)
Một đêm nọ, sư cụ nằm mộng thấy một người đàn bà dắt năm đứa con nhỏ đến trước mặt mình rồi vái lấy vái để, miệng nói: "Xin cứu mạng! Xin cứu mạng!". Sư hỏi người đàn bà...
(Xem: 9410)
Cuối đời nhà Thương (1783-1154 trước D.L.) vua Trụ hoang dâm vô đạo, tàn hại lê dân, người người oán giận. Văn Vương là Cơ Xương, vốn là một chư hầu của nhà Thương, nhân từ đức hạnh...
(Xem: 7754)
"Bi Ca Tán Sở" là một bài hát do Trương Lương đặt ra cho hòa theo tiếng tiêu thổi để làm tan rã quân đội Sở Bá Vương Hạng Võ. Trương Lương tự Tử Phòng, người nước Hán...
(Xem: 19753)
Đời nhà Tống, ở vùng Vũ Khang thuộc Ngô Quận, có 1 người tên là Trầm Khánh Chi, từ nhỏ đã ôm chí lớn, lại có sức mạnh và giỏi về bài binh bố trận.
(Xem: 10506)
Đời nhà Tống, ở vùng Vũ Khang thuộc Ngô Quận, có 1 người tên là Trầm Khánh Chi, từ nhỏ đã ôm chí lớn, lại có sức mạnh và giỏi về bài binh bố trận.
(Xem: 7788)
Lời lẽ và ý tứ hai câu vốn mượn ý và lời ở hai câu liền nhau trong bài "Hàm đan thiếu niên hành" của Cao Tứ đời Đường: Vị tri can đảm hướng thùy thị, Linh nhân khước ức Bình Nguyên Quân.
(Xem: 49401)
Những thay đổi lớn trong cuộc đời, trong xã hội, thường được người Việt ví với "bãi bể nương dâu". Thí dụ: Phút giây bãi bể nương dâu, Cuộc đời là thế biết hầu nài sao. (Lê Ngọc Hân - Ai tư vãn)
(Xem: 16636)
Bát Trân ý nói là những món ăn ngon. Ngày xưa, có 8 món ăn được liệt vào hạng ngon nhất, nấu công phu và rất bổ dưỡng, chỉ có vua chúa mới có dịp ăn, ấy là...
(Xem: 16999)
Bá Nha đời Xuân Thu là một người có tài đàn. Chung Tử Kỳ là người biết thưởng thức âm nhạc. Khi Bá Nha ngồi gảy đàn, bụng nghĩ đến núi, thì Chung Tử Kỳ khen: "Tiếng đàn chót vót như núi cao".
(Xem: 22984)
Trong thời Pháp thuộc, có một bọn người chuyên tổ chức những "trò chơi có thưởng". Trò chơi của bọn họ gồm một cái que và ba chiếc lá. Mỗi lá có đính một chiếc vòng nhỏ ở cuống.
(Xem: 18049)
Nguyên Sở Hạng Võ chiếm đất Quang Trung là đất hưng vương, núi non hiểm trở; còn Hán Lưu Bang vì thế lực yếu nên phải bị đày vào đất Bao Trung.
(Xem: 29678)
Trong lịch sử Phật giáo Trung Quốc có vua Lương Võ Đế rất tin tưởng Phật pháp, song bà Hoàng hậu tên Hy Thị được vua yêu quý nhất thì tánh lại độc ác...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant