Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

5. Thiền định

13 Tháng Ba 201100:00(Xem: 4661)
5. Thiền định

ĐẠO LÝ NHÀ PHẬT
Đoàn Trung Còn biên soạn, Nguyễn Minh Tiến hiệu đính

IV. SÁU BA-LA-MẬT

5. Thiền định

Cái đức thiền định, này cũng là vô tận, không thể lượng xét, nghị luận bằng lời nói, bằng câu văn. Nó cũng quan hệ chặt chẽ với mấy cái đức kia, và lại còn trọng hệ hơn nữa. Chính nó dẹp cái mê, diệt cái dốt, làm cho người ta minh mẫn, sáng láng, đắc đạo.

Thiền địnhsuy nghĩ, thẩm xét, phân biệt, tìm hỏi cho thấu đáo. Thiền định thuộc về cõi tưởng, cõi trí, cõi siêu hình. Thiệt là một cõi mênh mông như hư không, bao quát như vũ trụ, khó mà giải cho tường tận. Và như có ai thông hết các phép thiền mà toan giải ra, cũng không bao giờ giải cho hết.

Biết bao từng, bậc trong chốn Thiền-na! Từ người mới tập tành, đến người khá trổi, rồi đến người vào vòng, cho đến chư Tiên, chư Thánh, chư Bồ-tát, chư Phật, các hạng người đều thiền định khác nhau, tùy theo sở học, sức lựcduyên nghiệp của mình. Bậc thì tham thiền, thẩm xét đặng diệt những điều tệ, thói hư của mình. Bậc thì định trí, định tâm đặng tỉnh dưỡng tánh tình, đức hạnh của mình. Bậc thì lo trau dồi lòng dạ, lo nung đúc những đức từ, bi, hỷ, xả để hộ niệm các chúng sanh. Có bậc ngồi thiền đặng thấu những cái chưa hiểu, rõ những chỗ còn nghi. Cũng có bậc mạnh dạn mà tham thiền đặng vừa diệt các sở trược, vừa đắc những phép thần. Những vị này tu tập trong bốn bậc thiền, chứng lên từng bậc thiền, đắc nhập từng quả đức, cho đến chứng bậc thiền thứ tư. Cao hơn nữa, thiền định của chư Bồ-tát còn chia ra nhiều bậc nữa. Những vị này mỗi khi ngồi thiền thì thân, tâm chẳng động, theo tiếng Phạn là nhập phép Tam-muội, các ngài mặc sức mà tưởng đến một vấn đề hết ngày đến tháng, qua năm, có khi suốt đời! Dưới đây là mấy phép thiền trong những phép thiền của đức Diệu Âm Bồ-tát:

1. Diệu tràng tướng Tam-muội

2. Pháp Hoa Tam-muội

3. Tịnh đức Tam-muội

4. Túc vương hý Tam-muội

5. Vô duyên Tam-muội

6. Tri ấn Tam-muội

7. Giải nhất thiết chúng sanh ngữ ngôn Tam-muội

8. Tập nhất thiết công đức Tam-muội

9. Thanh tịnh Tam-muội

10. Thần thông du hý Tam-muội

11. Huệ cự Tam-muội

12. Trang nghiêm vương Tam-muội

13. Tịnh quang minh Tam-muội

14. Tịnh tạng Tam-muội

15. Bất cọng Tam-muội

16. Nhật triền Tam-muội ...



Chư Bồ-tát đã từng sống đời trong sạchchúng sanh, đã từng từ bi bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấnchúng sanh. Cho nên các ngài thiền định mau đạt kết quả. Lại nữa, bao đời qua các ngài đã từng tham thiền nhập định, cho nên các ngài thấu hiểu rất nhiều phép thiền. Chư Đại Bồ-tát là những đấng thành tựu, chỉ còn chờ thời gianlên ngôi Phật Như Lai, nên các ngài có biết bao phép Thiền thanh tịnh.

Thường thường, ta thấy chư Đại Bồ-tát đắc hai phép thiền này mà các ngài hay dùng: Hiện nhất thiết sắc thân Tam-muội và Hiện nhất thiết ngữ ngôn Tam-muội. Với phép thiền trước, các ngài biết rõ các hình sắc trong vũ trụ, các ngài hiện ra hình nào, thân nào, hóa ra nhân vật nào cũng được. Cho nên các ngài khi thì hóa ra Phật, khi thì hóa ra Phạm Thiên và các vua cõi trời, lắm khi hóa ra Tiên, Thần, người, thú, quỷ, ma, đặng cứu vớt, độ chúng sanh. Với phép thiền thứ hai, các ngài nói ra các thứ tiếng, và nghe được các thứ tiếng trong vũ trụ, tuy rằng mình ngồi một chỗ. Các ngài nghe tiếng các hạng chúng sanh. Các ngài nghe tiếng chư Phật, chư thánh, chư thần. Các ngài nghe tiếng người ta trong các dân tộc, đàn ông, đàn bà, già, trẻ, bé, lớn. Các ngài nghe tiếng các thứ chim chóc, thú vật, các loài ngạ quỷ. Các ngài nghe tiếng các thứ trống, chuông, kèn, sáo, tiếng cầu khẩn, tụng niệm. Các ngài nghe các thứ tiếng vui, buồn, khổ lụy, kêu rên, sầu não. Nghe như vậy để hiện đến các cảnh giớicứu độ chúng sanh đúng lúc.

Cao hơn những phép thiền Tam-muội của Bồ-tát, phép thiền Tam-muội của Phật Như Lai thì cao siêu vô cùng, bao quát vô tận. Giả như hồi đức Phật Dược Sư Lưu Ly đắc đạo rồi, ngài nhập định phép Tam-muội gọi là “Trừ diệt nhất thiết chúng sanh sanh khổ não”. Trong khi ngài nhập đại định, từ nơi đỉnh đầu, hào quang chiếu ra. Trong hào quang ấy, thuyết ra câu chú này:

Nam-mô Bạc-già-phạt-đế, bệ-sái-xã lũ-rô. Bệ Lưu-ly, bát-lạt-bà, hát-ra-xà-giã. Đát-đà-yết-đa-da. A ra-hát-đế. Tam-miệu, tam-bột-đà-da, đát-điệt-tha. Án, bệ-sái-thệ, bệ-sái-thệ, bệ-sái-xã. Tam-một-yết-đế, Tá-ha.

Câu chú ấy từ trong hào quang của Phật thuyết ra rồi thì cõi đại địa chấn động, các chúng sanh đều được tiêu trừ bệnh khổ. Cho đến nay những ai đọc ra những câu chú ấy một cách thành tâm thì cũng được giải thoát khỏi cơn bệnh hoạn khổ não.

Lại như đức Phật Thích-ca, hồi thuyết xong kinh Vô lượng nghĩa, ngài bèn nhập định, ngài nhập phép định gọi là “Vô lượng nghĩa xứ Tam-muội”. Sau khi ra khỏi cơn đại định này, ngài sẽ thuyết diễn kinh Diệu Pháp Liên Hoa.

Trong khi ngài ngồi đại định, từ khoảng giữa hai bên lông mày của ngài có phóng ra một luồng hào quang.

Luồng hào quang này chiếu ra cả muôn thế giới, làm cho hết thảy chúng sanh đều hiện ra rõ ràng. Lúc ấy, trước luồng hào quang của Phật, chư đại chúng thấy ra các chúng sanh thọ quả báo và hưởng phước do nơi sự hành động của mình từ trước: kẻ thì bị đọa khổ não ở các cảnh địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh; kẻ thì làm người có vinh, có nhục; kẻ thì làm thần, làm quỷ; có kẻ làm chư thiên; và cao hơn nữa, những vị tu hành đắc đạo thì thành A-la-hán, Bồ-tát và có vị thành đến Phật Như Lai.

Sức thiền định của Phật là oai diệu vô ngần.

Đắc những phép thiền linh, mấy phép Tam-muội, tưởng cũng là công phu lắm. Nhiều vị trì chí cả năm, cả đời, chẳng biết việc chi khác, cứ chú tâm tham thiền. Lắm vị thắng phục sự ngủ, sự nằm, bao giờ cũng ngồi mà tư tưởng. Lắm vị quên ăn, mải mê trong cuộc tham thiền; mà mấy vị ấy cũng chẳng muốn đi ăn uống, chỉ chú tâm trong định. Lắm vị nhập định quên cả thời gian, quên cả sự sống chết. Các ngài lấy sức lành mà hộ trợ thân thể, rồi ngồi trầm tư mặc tưởng nơi chốn rừng cao cả trăm, cả ngàn năm. Trong khi thân thể các ngài vẫn ngồi tự nhiên, không rã rục, thì dây leo bò quanh mình các ngài, cỏ hoa mọc lên trên mình các ngài, cho đến chim chóc làm tổ trên đầu các ngài! Trong quyển “Trí độ luận” có ghi lại một tích về hạnh tu thiền của đức Thích-ca, tưởng cũng nên thuật ra đây.

Có một thuở nọ, hồi còn làm Bồ-tát, đức Phật của chúng ta tên là Thượng-xà-lê. Ngài lên non tu thiền định và lấy hiệu là Lõa Kế. Trong khi ngài lặng lẽ ngồi thiền, ngưng thở hết tháng thâu năm dưới một cội cây, thì chim ngỡ chính ngài là một cái cây, bèn tựu lại làm tổ nơi đầu của ngài và chun vào tóc ngài mà đẻ trứng.

Chừng tỉnh giấc thiền, ngài biết rằng có chim làm tổ và đẻ trứng trên đầu ngài. Đức Bồ-tát bèn nghĩ rằng: “Nếu ta ra khỏi cơn thiền và lay động thì chim chẳng dám đến nữa, mà những cái trứng trên này sẽ rớt bể hết”. Vì lòng từ bi, trọng sanh mạng, ngài nhập thiền trở lại. Mãi cho đến khi chim đẻ và ấp xong và chim con bay được, chừng ấy ngài mới ra khỏi cơn thiền và bước chân ra đi.

Công phu tham thiền vô lượng, vô biên mà còn chưa đắc đạo thay, huống chi những kẻ ngạo mạn ỷ mình cao học trong đời, muốn tu một ít năm cho nhập Niết-bàn?

Muốn thiền định cho tiện hơn hết, hãy tìm đến những non cao, rừng vắng. Ở đó thanh tịnh, cao ráo, mùi trần bay lên chẳng tới, nhà đạo dễ mà thẩm xét. Cho nên ta thường thấy nhiều nhà vua chúa bỏ ngôi, lắm vị công hầu bỏ chức, bao nhà đại phú xuất trần, nhiều vị tăng đồ ưa tịnh, hay tìm đến nơi nhàn u, tĩnh mịch, vừa hưởng cái thú vị thanh cao nơi sơn lâm, động cốc, vừa trầm tĩnhtham thiền, nhập định.

Không được như vậy, thì đến mấy cảnh chùa xưa, những nơi tổ đình, mấy chỗ đã từng có cao tăng đắc đạo, cũng là chốn dễ tham thiềncông hiệu. Người tu vừa trầm tư mặc tưởng vừa niệm nhớ công đức của thầy xưa, cũng dễ mà lướt lên cõi tấn hóa về trí đức.

Tuy vậy, nói cho cùng thì chẳng luận nơi nào, miễn có kiên chí thì chỗ nào thiền định cũng được. Những vị xuất gia thong thả và những người tại giatịnh thất, đã đành là dễ tham thiền. Song những người nghèo cùng, bận rộn, cũng có thể chọn một chỗ trong nhà, và một giờ trong ngày mà giữ cho tâm trí dung hòa, an tịnh. Cho đến những kẻ vì sự sống mà phải rày đây mai đó, bôn ba đến các chợ búa, tỉnh thành, mấy kẻ ấy cũng có thể tham thiền được nữa. Trong khi bốn bánh xe hơi chạy vù vù trên đường nhựa, trong khi toa xe lửa trải qua các cảnh vật tươi xinh, hoặc thuyền tàu lướt sóng ngoài khơi, thì ta cũng có thể định tâm mà tập thiền. Hoặc khi nằm nghỉ lưng trong chốn lữ quán bên đường, ta cũng nên niệm nhớ chư Phật được.

Vậy thì ai nấy đều tham thiền được hết. Và đối với người thế thường, bận việc thì có cách thiền định này dễ thực hiện hơn hết: niệm Phật.

Niệm Phật tức là nhớ tên một đức Phật, một đức Bồ-tát trong trí mình. Hoặc là niệm đức Thích-ca Như Lai, đức Di Lặc, đức A-di-đà, hoặc là niệm đức Quán Thế Âm, đức Đại Thế Chí, đức Văn Thù, đức Phổ Hiền v.v... Lắm người tùy dịp mà niệm tên của từng vị ấy. Và phần đông đều nguyện thọ trì một vị trong mấy vị ấy, nhất là đức Phật A-di-đà và đức Bồ-tát Quán Thế Âm. Có kẻ ngồi trầm tĩnh mà niệm thầm trong bụng, có người vừa niệm vừa lần chuỗi, hoặc một xâu chuỗi lớn 108 hột, hoặc một xâu chuỗi nhỏ 18 hột vừa cầm trong tay. Niệm Phật có lần chuỗi thì dễ nhớ, ngón tay hiệp với câu niệm trong trí mà ghi khắc vào tâm. Và lần xâu chuỗi nhỏ thì tiện hơn, bỏ túi gọn, cầm nơi tay những kẻ bất tín chẳng để ý, và có đi đâu xa đem theo cũng dễ dàng.

Có người tùy giờ, tùy ngày mà niệm tưởng thiền định. Lắm kẻ tùy khi hữu sự thì niệm. Mà nhiều vị rất chú tâm, bất kỳ ngày nào, giờ nào và ở chốn nào cũng niệm tưởng được hết. Như vậy cái tâm không rời Phật, không rời sự lành. Tức là lúc nào cũng tham thiền nhập định, dầu đứng, đi, ngồi, nằm, cười, nói, uống, ăn.

Niệm Phật tức là thiền định. Niệm Phật và tin Phật thì lần lần trừ các tánh tham, ác, độc hiểm nơi mình. Niệm Phật thì ngày một thêm lành, thêm tốt, được từ, bi, hỷ, xả, được bồi dưỡng vào tâm trí những căn lành cội phúc. Niệm Phật thì trầm tĩnh, thanh nhàn, an nhiên mà trông ra hoàn cảnh, trừ lần nghiệp xưa, chẳng tạo ra nghiệp mới. Niệm Phật thì chẳng xao xuyến, bồn chồn, chẳng uất ức vì cảnh thế, chẳng tất bật vì sự đời, lại còn biết truy tìm, phán đoán, biết xét người, hiểu vật, biết so độ từ quá khứ, hiện tại cho đến vị lai. Niệm Phật cũng là bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn. Chí tâmniệm Phật cũng đắc đạo ngay ở cõi này. Và niệm Phật cũng minh tâm kiến tánh và phát sanh trí huệ.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 26266)
Cái chết là một sự khởi đầu mới. Nó là con đường đưa ta đến buổi bình minh của những cơ hội mới để cho chúng ta hưởng được những thành quảchúng ta đã vun trồng...
(Xem: 21677)
Trong thế kỷ XX, phương Tây có hai người tìm hiểu đất nước Tây Tạng rất sâu sắc, đó là bà Alexandra David Néel và ông Anagarika Govinda.
(Xem: 23459)
Tác phẩm này như một chìa khóa mở ra con đường dẫn dắt những hành giả sơ căn đến với Pháp. Do đó, những ai quan tâm đến nó sẽ hưởng được những lợi ích lớn lao.
(Xem: 14758)
Hiện đại hoá đạo Phật không có nghĩa là thế tục hóa đạo Phật. Đạo Phật đi vào cuộc đời nhưng không bị cuộc đời làm giảm mất đi những đặc tính siêu việt của nó.
(Xem: 12971)
Có thể nói Đức Đạt Lai Lạt Ma là nhà hoằng pháp vĩ đại nhất của PG trong thời hiện đại, và được xem là người có nhiều tác phẩm Phật học được người Tây Phương tiếp nhận và tìm đọc nhất.
(Xem: 19874)
Những gì Ðức Phật đã khám phá ra trong lúc Ngài thiền định hơn 2500 năm về trước càng ngày càng rõ rệt qua những cuộc thí nghiệm và những sự học hỏi được từ thiên nhiên của khoa học.
(Xem: 13832)
Tôi có nhân duyên với Đạo Phật từ khá sớm, hồi còn học trung học vào đầu thập niên 40. Thế Giới ấy đối với tôi là niềm vui thíchtin tưởng càng ngày càng lớn.
(Xem: 22790)
Ðạo Phật dạy rằng tâm là nhân duyên chính khiến ta bị luân hồi. Nhưng cũng chính tâm lại là cái duyên lớn nhất giúp ta thoát vòng sanh tử.
(Xem: 12001)
Chúng ta an vị Phật là rước Phật trong lòng chúng ta đem thờ tại chùa, để khi nhìn thấy Phật tại chùa mà nhớ Phật trong lòng của chúng ta...
(Xem: 12437)
Con đường đưa đến tuệ giác thì sao? Tu thiền định sẽ đoạn diệt vô minh. Cố gắng hiểu biết ba đặc tính của vạn pháp. Không có cái ngã nào biệt lập.
(Xem: 24109)
Ðức Phật là một chúng sanh duy nhất, đặc biệt Ngài là nhà tư tưởng uyên thâm nhất trong các tư tưởng gia, là người phát ngôn thuyết phục nhất trong các phát ngôn viên...
(Xem: 13746)
Rõ ràng, đối với đạo Phật, tâm là cơ sở, là đối tượng, đồng thời cũng là công cụ của việc thực nghiệm đời sống tâm linh. Tâm là gốc của sinh và tử...
(Xem: 21101)
Đức Đạt-lai Lạt-ma thứ 14, Tenzin Gyatso, có thể nói là một trong những tên tuổi lớn trên thế giớigần đây luôn được rất nhiều người tôn kính.
(Xem: 25706)
Với sự hỗ trợ của Phật pháp và sự thực hành chánh niệm, điều thay đổi lớn nhất mà tôi đã làm được cho bản thân, tôi nghĩ, đó là giờ tôi có thể dễ dàng tha thứ cho người...
(Xem: 19264)
Bây giờ, tâm thức tồn tại bằng sự tùy thuộc trên nguyên nhânđiều kiện (nhân duyên). Tâm thức hôm nay hiện hữu do bởi tâm thức hôm qua.
(Xem: 23265)
Tenzin Palmo đã kể lại cuộc sống ẩn cư của cô cho Vickie Mackenzie với tất cả lòng nhiệt thành cởi mở. Cô nói về những trở ngại, gian nan cô đã vượt qua, những thôi thúc thử thách mãnh liệt...
(Xem: 21411)
Đức Phật Thích Ca được tôn kính như bậc Thầy vĩ đại, một Thiện hữu, một vị Gương mẫu Toàn giác. Pháp hay giáo lý của Ngài chứa đựng những nguyên tắc căn bản, bất biến của Công bằngChân lý.
(Xem: 18344)
Nhờ Phật giáo, tôi biết tu tập để phát động lòng từ bi và đem lại hơi ấm cho tim tôi, sự tu tập ấy tỏ ra khá hữu ích cho tôi trong cuộc sống thường nhật.
(Xem: 14013)
Cách tốt nhất để đem đến ý nghĩa cho cuộc đời bạn là khiến nó có lợi cho những người khác, bằng lòng bi mẫn của bạn với họ. Đó cũng là cách tốt nhất để tìm thấy bình an, hạnh phúc...
(Xem: 15484)
Phật giáo và các khoa học vật chất có giao diện to lớn với nhau trên nhiều mức độ triết lý, thăm dò bản chất về nguồn gốc của vũ trụ, và bản chất tối hậu của vật chất.
(Xem: 17901)
Từ xưa đến nay, Đạo Phật luôn khẳng định rằng “số mạng là do mỗi người tự tạo, phước đức đều do chính mình tự cầu.” Như vậy, kẻ làm việc xấu ác tự nhiên sẽ mất phước đức...
(Xem: 21989)
Từ thơ ấu, Tuệ Trung đã được khen là thông minhdịu dàng. Giữ chức Thống Đốc Hồng Lô (bây giờ là tỉnh Hải Dương), ngài đã hai lần đẩy lui quân Mông Cổ xâm lược, và được thăng chức Tiết Độ Sứ trấn cửa biển Thái Bình.
(Xem: 17579)
Ý thức được cái chết là điều hệ trọng: phải hiểu rằng ta không ở lâu trên địa cầu này. Không ý thức được cái chết, ta sẽ không thể tận dụng toàn vẹn cuộc sống của ta.
(Xem: 30993)
Bài văn này được thiền sư Quy Sơn Linh Hựu viết ra nhằm sách tấn việc tu học của đồ chúng, nên gọi là văn cảnh sách, và lấy tên ngài để làm tựa. Từ xưa nay vẫn gọi là “Quy Sơn cảnh sách văn”.
(Xem: 28117)
Để hiểu Đạo Phật là gì? Ta hãy gạt mọi thiên kiến chỉ cần tìm sâu vào nguồn giáo lý cao đẹp ấy, một nền giáo lý xây dựng trên sự thật để tìm hiểu sự thật, do đức giáo chủ Thích Ca Mâu Ni sáng lập... HT Thích Đức Nhuận
(Xem: 14896)
Bằng cách tập trung vào sự kiện của tình trạng bị quy định chặt chẽ và sự cần thiết cho tinh thần phải trải qua một cách mạng, Krishnamurti dẫn chúng ta đến nền tảng chung, đến cái nguồn của cả cá thể lẫn xã hội.
(Xem: 17182)
Tác phẩm Phật Giáo và Khoa Học của giáo sư Phúc Lâm là một trong số ít các tác phẩm về thể tài phân tích Phật giáo dưới cái nhìn của khoa học.
(Xem: 22644)
Ngày nay đã qua, đời sống ngắn lại, Hãy nhìn cho kỹ, ta đã làm gì? Hãy cùng tinh tấn, thiền tập hết lòng, Đừng để tháng ngày trôi đi oan uổng.
(Xem: 28303)
Bởi vì niềm hạnh phúc và chính sự tồn tại của chúng ta là kết quả của sự giúp đỡ bảo bọc của mọi người, chúng ta phải phát huy thái độ cư xử tốt đẹp của mình đối với mọi người xung quanh.
(Xem: 14043)
Mỗi giây phút trong cuộc sống đều tượng trưng cho một giá trị vô biên. Thế nhưng chúng ta lại cứ để cho thời gian trôi đi như những hạt cát vàng lọt qua kẻ hở của bàn tay
(Xem: 17076)
Thông điệp của Đức Bổntuyên thuyết từ hơn hai mươi lăm thế kỷ, đến nay vẫn còn nguyên giá trị. Đó là thông điệp về sự tỉnh thức, về trí tuệ siêu tuyệt và về lòng từ bi nhân ái.
(Xem: 22327)
Không biết rửa bát thì khi cầm tách trà lên, có thể ta cũng không biết uống trà. Cầm tách trà lên ta có thể chỉ nghĩ đến những chuyện khác mà không biết là ta đang nâng tách trà trong tay.
(Xem: 14189)
Chúng ta cần biết ý nghĩa Giáo Pháp là gì. Giáo Pháp hay Pháp bảo là một từ ngữ tiếng Phạn mà có nghĩa đen là một “phương sách phòng ngừa”.
(Xem: 21503)
Phật giáo nhìn tính dục dưới khía cạnh của sự thèm khátđau đớn : đó là một mối hiểm nguy xô đẩy con người vào cảnh đọa đày của dục vọng và khổ đau.
(Xem: 20842)
Ðức Phật — Ðấng hoàn toàn giác ngộ — thuộc họ Gautama tên là Siddartha. Danh xưng Tất-đạt-đa có nghĩa là Nhất thiết nghĩa thành, Thành tựu chúng sinh...
(Xem: 28583)
Hai mươi bốn bài pháp thoại trong quyển sách này được giảng theo tinh thần của Kinh Đại Bát Niết Bàn, chú trọng vào sự thực hành nơi bản thân, 'xem Pháp là nơi nương trú, là hải đảo của chính mình".
(Xem: 15085)
Tôn giáo được giới thiệu ở đây là một hệ thống giáo dục thiết thựcvăn hóa tinh thần được khám phá ra cho thế gian cách đây chừng 25 thế kỷ bởi một Vị Ðạo Sư hoàn toàn giác ngộtừ bi.
(Xem: 26621)
Cuốn sách mang đến cho bạn đọc những suy ngẫm nghiêm túc về hạnh phúc mà đôi khi có thể chúng ta ngộ nhận hoặc lầm lẫn với niềm sung sướng.
(Xem: 19308)
Đức Phật dạy rằng nếu muốn tự giải thoát ra khỏi thế giới Ta bà thì phải tuân theo ba lời giáo huấn tối thượng như sau : đạo đức, chú tâmtrí tuệ. Khi nào biết noi theo ba lời giáo huấn ấy thì ta sẽ đạt được sự giải thoát cá nhân...
(Xem: 31658)
Trong khi Đức Phật tạo mọi nỗ lực để dẫn dắt hàng đệ tử xuất gia của Ngài đến những tiến bộ tâm linh cao cả nhất, Ngài cũng nỗ lực để hướng dẫn hàng đệ tử cư sĩ tiến đến sự thành công...
(Xem: 30687)
Khi nào chim sắt bay là một cuốn sách ghi lại toàn bộ một khóa tu thiền do một trong những Đạo sư phương tây được yêu thích nhất, đó là Ni sư Ayya Khema hướng dẫn.
(Xem: 21034)
Đạo Phật nhận rằng: Vạn vật chúng sinh đều có Phật tính. Con người đều có khả năng thành Phật. Do đấy, con người trong đạo Phậtcon người của mọi tầng lớp xã hội, mọi quốc gia...
(Xem: 26293)
Tu họchành trì giáo pháp của Phật dạy là dấn bước vào một cuộc chiến đối kháng giữa hai lực lượng tiêu cực của nội tâm. Hành giả cần truy cầu để khai trừ mặt tiêu cực...
(Xem: 23615)
Hình ảnh của Bồ Tát Quán Thế Âm trong thân tướng nữ nhân, tay cầm bình tịnh và cành dương liễu, còn được gọi dưới danh hiệu PHẬT BÀ QUAN ÂM NAM HẢI, là 1 hình ảnh rất gần gũi với dân tộc Việt Nam...
(Xem: 25654)
Vào khoảng đầu năm 1996, tình cờ tôi được xem một bức tranh của họa sĩ Samyot Hananundasule, trong cuộc triển lãm dưới chủ đề "Nhìn lại quá khứ" tại Viện Nghệ thuật Quốc gia Thái Lan.
(Xem: 25464)
Phật Pháp là một hệ thống triết họcluân lý truyền dạy con đường duy nhất dẫn đến Giác Ngộ, và như vậy, không phải là một đề tài để học hỏi hay nghiên cứu suông...
(Xem: 19749)
Cuốn sách nhỏ này trước hết dành cho độc giả trí thức chưa có hiểu biết đặc biệt gì về Phật pháp, mà muốn biết thực sự đức Phật đã dạy những gì.
(Xem: 18509)
Cuốn sách là những chỉ dẫn đơn giản, dễ hiểu về cách nhìn sự vật và cách sống theo giáo pháp của đức Phật, về cách thương yêu chính mình...
(Xem: 17815)
Thiên đườngđịa ngục là những khái niệm hầu như không xa lạ đối với bất cứ ai trong chúng ta. Tuy vậy, trong thực tế thì chúng ta luôn có những cách hiểu và cảm nhận khác nhau...
(Xem: 19087)
Mất đi quê hương vào tuổi mười sáu và trở thành một người tỵ nạn vào tuổi hai mươi bốn, tôi đã đối diện với rất nhiều khó khăn suốt dòng đời.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant