Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương 3: Cuộc Sống Tha Hương

14 Tháng Ba 201100:00(Xem: 7246)
Chương 3: Cuộc Sống Tha Hương

QUÀ TẶNG CUỘC ĐỜI
Tự Truyện Của Một Ni Sư Phật Giáo Người Tây Phương: Ayya Khema
Dịch từ tiếng Đức: Sherab Chodzin Kohn - Dịch từ tiếng Anh: Diệu Liên-Lý Thu Linh

Chương 3
Cuộc Sống Tha Hương


Các hành đều vô thường
Ai biết được điều đó với trí tuệ
Sẽ thoát khỏi bao khổ đau.
Kinh Pháp Cú – 277 

Cả cuộc đời, tôi chưa bao giờ cảm thấy cô đơn bằng lúc đi trên chuyến tàu từ Bá Linh đến Hamburg. Tôi cảm thấy như cả thế giới bỏ rơi chúng tôi. Tất cả phó mặc chúng tôi cho số mệnh dung rủi. Tôi đã không khóc được; tất cả trong tôi như đông cứng một nỗi hãi sợ. Nhưng tôi còn gì để mất nữa chứ, tôi đã mất: mái ấm của cha mẹ, gia đình, quê hương. Tôi hoàn toàn không biết điều gì sẽ xảy ra cho tôi trong tương lai.

Có được một quê hương là điều khiến người ta cảm thấy gắn bó, bảo bọc. Nhưng kể từ đó, tôi không bao giờ cảm thấy đâu là nhà nữa. Sự quen thuộc, ấm áp, tin cậy -tất cả chỉ còn là những tình cảm của quá khứ. Tất cả tôi đã bỏ lại với Bá Linh, mãi mãi. Tôi đã nói hiện giờ tôi sống rất thanh thản ở Allgau. Đó là sự thật, nhưng bất cứ lúc nào tôi cũng có thể sẳn sàng khăn gói lên đường, đến sống ở một nơi nào khác, bất cứ nơi nào trên thế giới.

Ý nghĩ có một cái gì thuộc về 'của tôi' không còn nữa trong tôi -như quê tôi, nhà tôi, tài sản của tôi. Tôi không bao giờ còn nghĩ có cái gì đó thuộc về mình hay mình thuộc về cái gì đó. Hôm nay tôi nói những lời này không hối tiếc, vì đó là tình cảm chân thật từ đáy lòng tôi. Đức Phật, chắc chắn, đã dạy con người từ bỏ mọi sở hữu, nhưng tôi đã biết đến tình cảm này trước đó rất lâu, trước khi tôi biết chút gì về Phật giáo.

Chúng tôi đến Anh trên một chiếc tàu chiến của Đức với thủy thủ đoàn người Đức. Các thủy thủ rõ ràng là rất tội nghiệp lũ trẻ. Họ rất tử tế với chúng tôi, dẫn chúng tôi đi xem cả chiến thuyền từ phòng chiếu bóng xuống đến hầm máy, bất cứ thứ gì để dỗ nín chúng tôi. Họ trang trí phòng ăn bằng các giấy màu, và còn có cả kem để cho chúng tôi tráng miệng. Nhưng vô ích đối với những em còn quá nhỏ. Chúng không chịu ăn gì cả, và luôn khóc đòi cha mẹ. Trong cabin của chúng tôi, có khoảng sáu đứa trẻ. Mỗi đêm đều có một người thủy thủ đến kể chuyện cổ tích, chuyện thần thoại cho đến khi chúng tôi thiếp ngủ. Tôi sẽ không bao giờ quên lòng từ ái của các thủy thủ này đối với chúng tôi. Nhưng dưới mắt của chính phủ họ, chúng tôi chỉ là một loài bẩn thỉu.

Đến Dover, chúng tôi lại lên tàu hỏa đi Luân Đôn, nơi chúng tôi được một phái đoàn Do Thái đón tiếp. Họ gồm khoảng ba mươi phụ nữ đứng ở những chiếc bàn dài, với nước chanh, bánh ngọt, bánh mì. Họ đọc tên chúng tôi cùng với một địa danh: "Kussel, Ilse - Glasgow".

Thế là tôi phải đến Glasgow với hai em bé gái nữa. Một phụ nữ nói tiếng Anh dẫn chúng tôi lên tàu. Bà còn cho tôi ít tiền bỏ theo người, một hay hai bảng Anh gì đó, với một túi đồ ăn.

Tôi không nói được tiếng Anh trừ chào buổi sáng, buổi chiều, xin vui lòngcảm ơn, mà ở đây thì không có ai nói tiếng Đức. Tôi tự hối là đã không học tiếng Anh thay vì tiếng Tây Ban Nha ở trường sinh ngữ Bá Linh. Hơn thế nữa, tôi hoàn toàn không hình dung nỗi Glasgow ở đâu, dầu đó là thành phố lớn nhất nước Tô Cách Lan. Ở mỗi trạm xe lửa, tôi đều nhìn qua cửa sổ để xem có phải là Glasgow không. Mỗi lần như thế tôi đều thấy tấm biển đề: "Players please". Đó là tên loại thuốc lá nổi tiếng nhất ở Anh, nhưng dĩ nhiên là lúc đó tôi không biết. Tôi chỉ thấy ngạc nhiên sao thành phố nào cũng gọi là: "Players please".

Trên các toa xe rất lạnh, và trời tối nhanh, nhưng xe lửa cứ đi tới, đi tới. Rồi một người soát vé đến chỗ chúng tôi. "Glasgow?", tôi hỏi ông. Ông ráng giải thích để tôi hiểu rằng Glasgow là trạm cuối cùng. Ngay sau đó mắt tôi ríu lại, vì tôi hiểu rằng khi nào tàu còn chạy, chúng tôi còn có thể ngồi yên một chỗ.

Sáng hôm sau, chúng tôi đến trạm cuối cùngGia đình người bảo trợ đón chúng tôi ở sân ga. Hai vợ chồng và bảy đứa con. Họ không nói được tiếng Đức nào, họ nói tiếng Yiddish. Vì Yiddish là tiếng địa phương dựa trên tiếng Đức, nên gia đình này nghĩ là tôi phải biết Yiddish. Yiddish thường được sử dụng trong các gia đình theo đạo Do Thái chính thống, nhưng như tôi đã giải thích, gia đình tôi không theo Do Thái chính thống.

Gia đình người bảo trợ tôi đến từ Do Thái-Nga. Việc tôi không thể nói cùng thứ tiếng với họ là một điều bất hạnh, dầu nhỏ. Vấn đề nằm ở một điểm khác. Họ đã ký tên bảo lãnh tôi vì họ cần người đỡ việc cho người mẹ với bảy đứa con trong gia đình. Nhưng thực tế là họ đã chọn phải một người hoàn toàn không thích hợp với công việc này. Cũng do cô đầu bếp ở nhà tôi lúc trước không cho tôi được bước chân vào bếp, mà tôi không biết nước sôi là như thế nào. Tôi phải thay các áo gối, nhưng tôi cũng chưa từng làm việc đó trong đời. Tôi phải coi và nhóm bếp lửa ngoài trời, mà tôi không biết cần phải có giấy, người ta mới nhóm được lửa.

Người vợ càng ngày càng khó chịu với tôi, nhưng ông chồng thì nói: "Thôi bỏ đi, dầu gì nó cũng chỉ là một đứa trẻ". Họ nói bằng tiếng Yiddish, nghĩ rằng tôi không biết nói thì không thể hiểu được. Nhưng tôi hiểu được vì rất giống tiếng Đức.

Nhưng ở trường thì tôi không hiểu được chữ nào. Vì thế, nơi tôi học tiếng Anh là những rạp chiếu bóng. Vé rẻ nhất là sáu pence (tiền xu của Anh), và tôi có thể mua được vé với số tiền ít ỏi của mình. Sau ba tháng, tôi nói tiếng Anh lưu loát, vậy ra đi coi hát cũng có ích chứ.

Có khả năng hiểu hết mọi thứ cũng không phải hoàn toàn có lợi. Có lần một cô bạn mời tôi đến dự tiệc sinh nhật ở nhà cô, tôi hiểu rất rõ khi mẹ cô nói: "Con nhỏ di dân kia đừng hòng bước chân vào nhà tao!". Nhưng đó không phải là sự kỳ thị duy nhất đối với tôi. Một bạn trai định mời tôi đi dự tiệc khiêu vũ ở trường đại học. Lúc bấy giờ, tôi đã mười sáu tuổi, và đã trở thành một cô gái không đến nỗi xấu xí. Mẹ của anh ta ta nói: "Bao nhiêu người, sao con lại chọn cô bé người nước ngoài này?" Anh trả lời: "Cô ta khác gì với mấy cô gái kia đâu?"

Điều khác biệt giữa tôi và các cô gái khác có thể nói gọn bằng một câu: Tôi bất hạnh. Tôi không thuộc vào thế giới mà tôi bị đẩy vào này. Tất cả mọi thứ đều lạnh lùng, xa lạ, không chỉ nói về con người mà cả thời tiết cũng thế, lạnh và ẩm ướt. Nhưng tôi có rất nhiều nghị lực, nên đã quyết định như đinh đóng cột -tôi sẽ cố gắng thêm một năm nữa xem sao, nhưng từ giờ cho đến lúc đó, phải chấp nhận tất cả không than vãn.

Năm tháng qua đi, giữa năm đó, chiến tranh bùng nổ. Tôi viết thư cho cha ở Thượng Hải, kể cho ông nghe hoàn cảnh tôi khổ sở thế nào. Tôi viết, "Con muốn được ở cạnh cha mẹ".

Thời gian dần trôi, cuối cùng mùa hè năm 1940, câu trả lời đã đến. Trái bom Đức đầu tiên đã nổ ở gần Edinburgh. Cha tôi trả lời thư: "Nếu con không được thoải mái, thì hãy đến đây". Lúc đó cha mẹ tôi đã có được một căn hộ ở Thượng Hải. Cha tôi đã mở một tiệm quần áo may sẵn, khá phát đạt. Quần áo may sẵn ở Trung Hoa lúc đó là một điều mới lạ. Trừ việc cha mẹ tôi phải sống ở một nơi không được sầm uất, mọi thứ khác đều ổn thỏa.

Đáng lý cậu tôi ở Luân Đôn phải mua vé đi tàu thủy cho tôi, nhưng chờ mãi không thấy. Cuối cùng vào tháng 11 năm 1940, tôi mới được vé. Tôi báo cho gia đình bảo trợ là tôi muốn đi thăm cha mẹ. Nhưng họ hiểu là tôi muốn bỏ ra đi. Có lẽ họ cũng mừng tôi ra đi, nhưng họ không nói gì.

Cậu tôi, người mà tôi chưa gặp bao giờ, gửi cho tôi vé xe buýt đi từ Glasgow đến Luân Đôn. Đến Luân Đôn, cậu lại đi lo các giấy tờ cần thiết cho chuyến đi của tôi. Cuối cùng, tôi là người không có quê hương, vì người Đức đã lấy lại thông hành Đức tịch của tôi.

Tôi còn nhớ rất rõ: Đó là vào buổi chiều khi tôi từ giã gia đình người bảo trợ ở Glasgow. Họ không hề hỏi tôi: "Con có tiền mang theo mình không?" Một mình tôi đi bộ trong bóng tối ra trạm xe buýt, lưng đeo túi vải, tay mang valise nhỏ mà tôi đã mang đến. Khi cánh cửa nhà đóng sập lại sau lưng, tôi cảm thấy hoàn toàn lạc lỏng -một kẻ không ai trông đợi, không tiền, không một giấy tờ tùy thân, cô đơn giữa những người xa lạ trong một xứ sở xa lạ.

Ngày nay nhìn lại tôi thấy là tôi đã không làm vừa lòng gia đình người bảo trợ. Tôi không vừa lòng về họ, và họ cũng không vừa lòng về tôi. Vài năm trước đây, tôi đã tìm lại địa chỉ của Mimmie, đứa con gái trong gia đình mà tôi thân thiết nhất. Tôi viết thư cho cô, cảm ơn cô và gia đình. Dầu gì, nếu họ không tiếp nhận tôi, tôi đã chết như chín mươi ngàn đứa trẻ khác ở Bá Linh. Từ đó, chúng tôi trao đổi thư từ. Cô thấy cuộc đời tôi cũng khá thú vị.

Chuyến đi mười hai tiếng từ Glasgow đến Luân Đôn thật là khủng khiếp đối với tôi, vì tôi quá đói. Các hành khách khác cứ chốc chốc lại xuống các trạm dọc theo đường đi để mua thức ăn. Nhưng tôi không có một xu ten. Khi đến Luân Đôn tôi phải xin một người xa lạ tiền để gọi điện thoại. Giờ, tôi mới biết đó cũng là một hình thức ăn xin. Anh ta cho tôi chút đỉnh, không nhiều.

Điều đó gợi tôi nhớ lại một việc đã xảy ra khi tôi còn là một cô bé được yêu thương, chiều chuộng. Tôi đi với cha đến sở thú. Chúng tôi đi qua Cổng Voi, nơi có một người ăn xin đang ngồi. Tôi nhìn thấy ông rõ ràng trước mắt tôi. Ơng chỉ còn một chân và giữ một chiếc hộp nhỏ trên đùi, trong đựng bút chì để bán. Cha tôi đặt một đồng xu lên chiếc hộp, và tôi đã nghĩ: Đó cũng có thể là tôi. Điều đó cũng có thể xảy ra cho tôi. Tôi có thể là người ăn xin ngồi đó, xin tiền thiên hạ. Có lẽ tôi là một cô bé ngoan ngỗn, nên tôi chưa đến nỗi phải làm thế.

Lúc đó, tôi được năm tuổi, chưa biết gì về tôn giáo, và dĩ nhiên là không biết tí gì về Phật giáo. Nhưng điều mà tôi cảm nhận được một cách trực giácnghiệp lực, nhân quả, mà mãi sau này tôi mới biết tên gọi. Hành động ác sẽ mang lại nghiệp ác. Nếu bạn làm điều xấu, chuyện xấu sẽ xảy ra cho bạn, giống như người ăn xin kia. Lạ lùng là cuộc gặp gỡ đó đã để lại dấu ấn sâu đậm trong tôi.

Cậu tôi là một luật sư ở Luân Đôn. Cậu đã di tản khỏi Đức rất sớm từ những năm 1933, ra là cậu có cái nhìn rộng rãi hơn cha tôi. Cậu không sống ngay tại Luân Đôn, nhưng ở gần đó. Cậu hướng dẫn qua điện thoại cho tôi đường đến nhà cậu; cậu sẽ trả tiền tàu hỏa khi tôi đến nơi. Đó là một buổi sáng ảm đạm, và tôi cảm thấy mệt mỏi vô cùng. Mọi chuyện lớn, nhỏ trong đời tôi hình như luôn đầy khó khăn. Giống như không dễ dàng gì để giải thích với nhân viên hỏa xa là vé của tôi sẽ được trả khi tôi đến trạm dừng. Không có gì dễ dàng, không có gì xảy ra mà không đòi hỏi ta phải cố gắng. Tôi chưa quen được điều đó. 

Cậu tôi đứng đón ở sân ga. Người soát vé được cậu cho tiền bồi dưỡng, và đó là lần đầu tiên tôi có cảm giác được đón chờ. Thật là một cảm giác sung sướng.

Tôi ở với cậu và em họ tôi, Steffi, vài ngày. Cậu tôi đã lo được giấy chứng minh tạm trú cho tôi ở một văn phòng chuyên lo thủ tục cho người nước ngoài. Cậu đưa cho tôi một ống điếu bằng vàng, và một vài vật có giá trị cho cha tôi. Rồi tôi lại một mình lên xe lửa. Đó là vào tháng mười hai. Tháng tám vừa qua, tôi được mười bảy tuổi.

Tàu đậu ở bến cảng Liverpool. Khi nhìn thấy nó, tôi bỗng sợ. Đó không phải là con tàu người ta cảm thấy thoải mái để đi trên đó vượt qua đại dương. Nó giống như mấy chiếc tàu sắp bị đắm trong các phim cướp biển: Rĩ sắt, hoen ố. Người ta gọi nó là Haruna Maru. Trên boong tàu, một lá cờ Nhật Bản bay phất phới. Châu Aâu đang có chiến tranh. Không còn chiếc tàu nào dành chở dân sự.

Con tàu Haruna Maru nặng mười ngàn tấn, khá nhỏ. Trên thuyền đầy các thủy thủ Nhật Bản. Rất nhiều các bao tải, các thùng được mang lên tàu. Nhưng chỉ có mười hai hành khách -một vị truyền giáo người Anh, hai thương nhân người Pakistan và một bác sĩ người Aán. Trên chuyến đi, vị bác sĩ đã ngỏ lời cầu hôn với tôi. Tôi là người phụ nữ trẻ duy nhất trên tàu. Thật khó để nói cho ông ta biết lúc bấy giờ tôi không hề nghĩ đến chuyện hôn nhân.

Tôi nhớ, cuộc hành trình là một chuyến đi đầy khủng khiếp mà lãng mạn. Tôi chưa từng đi biển bao giờ. Thật là một cảm giác kỳ lạ khi chỉ nhìn thấy nước và trời, mấy con cá thỉnh thoảng nhảy vọt lên khỏi mặt nước. Màu trời thay đổi từ xanh, xám, đến xanh lục, tất cả gợi cho ta cảm giác một chuỗi màu sắc, ẩn hiện ở chân trời. Nhưng đe dọa trùm phủ lên tất cả. Một lần, giữa biển, chúng tôi cứu được những người sống sót từ một chiếc tàu Thụy Điển đã bị Đức đánh bom. Đó không phải là tàu chiến, nhưng vẫn bị đánh chìm. Các nạn nhân la hét giữa dòng nước. Sau đó tôi không còn mấy tin tưởng ở chiếc cờ Nhật Bản to tướng trên tàu nữa. Ai đảm bảo được rằng chúng tôi sẽ không là mục tiêu tấn công? Ban đêm tàu đi trong bóng tối đen ngòm. Tất cả các lỗ thông hơi đều được sơn đen. Vượt biển trong bóng tối như thế khiến tất cả mọi người trên tàu đều cảm thấy thần kinh căng thẳng.

Có một thủy thủ không thể chịu đựng nổi, anh ta phát điên. Anh ta chạy tán loạn trên boong tàu, đập vỡ tất cả mọi thứ trong tầm tay. Tôi đang ở trong cabin, nghe ồn mở cửa ra định xem chuyện gì. Ngay lúc đó, anh ta chạy về hướng tôi. Hai tay cầm hai mảnh chai vỡ, miệng sủi đầy bọt nước miếng, anh ta la hét cuồng loạn. Ai đó vội đẩy tôi trở vào cabin. Cuối cùng người ta khống chế được người thủy thủ điên và nhốt anh ta lại suốt cuộc hành trình. Nhưng tôi không thể nào quên gương mặt của người ấy. Giờ thì tôi hiểu phát điên là như thế nào: tâm bất ngờ tán loạn, bao thú tính của một con vật hung bạo đều phát ra ngoài.

Tất cả mười hai hành khách. Mỗi người đều có một cabin nhỏ, có giường, tủ, ngoài ra không có gì nữa. Khi dùng bữa, chúng tôi đến một căn phòng có những bàn sắt nhỏ, với những lò lửa nhỏ được đặt ở khoảng cách giữa các bàn sắt. Khi muốn nướng cá hay rau củ, bạn có thể ngồi trên mấy cái ghế nhỏ đặt trên sàn để tự nướng cho mình.

Tôi không thể nào chịu nỗi điều đó. Tôi không nuốt nỗi thức ăn nửa chín, nửa sống đó. Tôi cũng không nhớ mình đã sống bằng gì trên suốt chuyến đi. Có lẽ chỉ nhờ bánh lạt, may mà thỉnh thoảng nhà bếp cũng làm bánh. Tôi không cảm thấy khỏe suốt chuyến đi. Ngay bây giờ nhớ tới cuộc hành trình đó, tôi vẫn còn muốn bịnh. Đó là một cuộc tra tấn dã man nhất.

 Lại còn nóng nữa chứ! Lúc chúng tôi bắt đầu đi từ biển Đại Tây Dương vào Kênh Suez, hãy còn là mùa đông. Nhưng sau đó trời bắt đầu nóng. Tàu dừng ở Bombay, ở Colombo, mỗi nơi hình như càng lúc càng nóng hơn. Tôi không được quyền rời tàu với các hành khách khác. Giấy tờ của tôi không phải là thông hành chính thức, vì thế tôi phải ở lại đằng sau trong chiếc tàu nhỏ, kín bưng, nằm nướng mình trong ánh nóng mặt trời.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 10214)
Sự sinh ra cao quý, tự dothuận lợi này thật khó có được. Cầu mong con không lãng phísử dụng nó một cách có ý nghĩa.
(Xem: 11273)
Ta cần có những thiện hạnh để chấm dứt những dục vọng vô độ và việc coi mình là quan trọng; cách hành xử tránh điều độc hại như thuốc độc...
(Xem: 13614)
Xuất phát từ một nhận thức có tính thuyết phục về đạo Phật, quyển "Thuần Hóa Tâm Hồn" được viết với một văn phong hiện đại, trong sángtinh tế; nghiêm trang nhưng vẫn đan xen đôi nét hóm hỉnh.
(Xem: 13758)
Một cách khái quát, Thiền có thể hiểu là trạng thái tâm linh vút cao của một hành giả đã chứng ngộ. Với nghĩa này, Thiền cũng là Đạo, là Phật, là Tâm...
(Xem: 22260)
Các khoa học gia ngày nay trên thế giới đang có khuynh hướng chú trọng vào chế độ dinh dưỡng lành mạnh lấy chất bổ dưỡng từ nguồn thức ăn do thực vật đem lại...
(Xem: 21893)
Chúng tôi đi với hai mục đích chính: Thay mặt toàn thể Phật tử Việt Nam chiêm bái các Phật tích và viết một quyển ký sự để giới thiệu các Phật tích cho Phật Tử Việt Nam được biết.
(Xem: 27426)
Tâm tánh của chúng sinh dung thông không ngăn ngại, rộng lớn như hư không, lặng trong như biển cả. Vì như hư không nên thể của nó bình đẳng...
(Xem: 17824)
Tây phương Cực lạccảnh giới thanh tịnh giải thoát. Thanh tịnhvô nhiễm là thuần thiện, giải thoát là vượt ngoài ba cõi, vượt ngoài ba cõi là xả ly thế gian.
(Xem: 11752)
Tinh thần Đại thừa Phật giáo nhằm mục đích chuyển hóa cõi Ta-bà uế trược này trở thành Cực-lạc thanh lương. Sự phổ biến Phật giáo khắp mọi tầng lớp quần chúng là điều Phật tử phải thực hiện.
(Xem: 12338)
Là một tu sĩ Phật giáo Việt Namtrách nhiệm và nhiều nhiệt tình thì thấy điều gì hay trong Phật giáo tôi tán thán, biết việc gì dở tôi chê trách, đều nhằm mục đích xây dựng Phật giáo Việt Nam mà thôi.
(Xem: 25267)
Chúng ta tu Thiền là cốt cho tâm được thanh tịnh trong lặng. Từ tâm thanh tịnh trong lặng đó hiện ra trí vô sư. Trí vô sư hiện ra rồi thì chúng ta thấy biết những gì trước kia ta chưa hề thấy biết...
(Xem: 23318)
Đối tượng nghiên cứu của xã hội học là con người, trong khi đó, xã hội học Phật giáo có những bước nghiên cứu xa hơn không chỉ nói về con người mà còn đề cập đến các loài hữu tình khác...
(Xem: 28629)
Một chủ đề chính của cuốn sách này là qua thực hành chúng ta có thể trau dồi tỉnh giác lớn lao hơn suốt mỗi khoảnh khắc của đời sống. Nếu chúng ta làm thế, tự dolinh hoạt mềm dẻo liên tục tăng trưởng...
(Xem: 22809)
Chân thật niệm Phật, lạy Phật sám hối, giữ giới sát, ăn chay, cứu chuộc mạng phóng sinh. Đó là bốn điểm quan trọng mà sư phụ thường dạy bảo và khuyến khích chúng ta.
(Xem: 25756)
Con đường thiền tậpchánh niệm tỉnh giác, chứng nghiệm vào thực tại sống động. Khi tâm an định, hành giả có sự trầm tĩnh sáng suốt thích nghi với mọi hoàn cảnh thuận nghịch...
(Xem: 22337)
Với người đã mở mắt đạo thì ngay nơi “sắc” hiện tiền đó mà thấy suốt không chướng ngại, không ngăn che, nên mặc dù Sắc có đó vẫn như không, không một chút dấu vết mê mờ...
(Xem: 14023)
Trên đời này, hạnh phúc và khổ đau; chiến tranh và hòa bình; giàu và nghèo… nếu chúng ta chịu khó tu tập một chút và giữ tâm thật bình thản, chúng ta sẽ khám phá ra nhiều điều hay vô cùng.
(Xem: 13454)
Bước đường hành đạo của đức Phật thật sinh động trong khung cảnh Ấn Ðộ cổ đại được minh họa bằng các trích đoạn kinh kệ từ Tam Tạng Pàli nguyên thủy đầy thiền vị hòa lẫn thi vị...
(Xem: 22539)
Bắt đầu bằng cách bỏ qua một bên tất cả những mối quan tâm ở bên ngoài, và quay vào quán sát nội tâm cho đến khi ta biết tâm trong sáng hay ô nhiễm, yên tĩnh hay tán loạn như thế nào.
(Xem: 26434)
Kinh Nghĩa Túc đã bắt đầu dạy về không, vô tướng, vô nguyệnbất khả đắc. Kinh Nghĩa Túc có những hình ảnh rất đẹp về một vị mâu ni thành đạt.
(Xem: 18509)
Bản thể hiện tiền là Sự Sống Duy Nhất vĩnh hằng, luôn hiện tiền, vượt quá hằng hà sa số dạng hình thức sinh linh vốn lệ thuộc vào sinh và diệt.
(Xem: 18984)
Khi bạn chú tâm đến sự yên lặng, ngay lập tức có một trạng thái cảnh giác nhưng rất im lắng ở nội tâm. Bạn đang hiện diện. Bạn vừa bước ra khỏi thói quen suy tưởng của tâm thức cộng đồng...
(Xem: 34565)
Đây là phần thứ 2 trong 3 phần chính của cuốn Zen no Rekishi (Lịch Sử Thiền) do giáo sư Ibuki Atsushi soạn, xuất bản lần đầu tiên năm 2001 tại Tôkyô.
(Xem: 27422)
Thật ra chân lý nó không nằm ở bên đúng hay bên sai, mà nó vượt lên trên tất cả đối đãi, chấp trước về hiện hữu của Nhị Nguyên. Chân lý là điểm đến, còn hướng đến chân lý có nhiều con đường dẫn đến khác nhau.
(Xem: 28474)
Trong tiếng Phạn (Sanskrit), từ "Thiền" có ngữ nguyên là dhyâna. Người Trung Hoa đã dịch theo âm thành "Thiền na". Ý nghĩa "trầm tư mặc tưởng" của nó từ xưa trong sách vở Phật giáo lại được biểu âm bằng hai chữ yoga (du già).
(Xem: 21436)
Giác ngộ là sự hiểu biết đúng như thật; giải thoát là sự chấm dứt mọi phiền não khổ đau. Chỉ có sự hiểu đúng, biết đúng mới có sự an lạchạnh phúc...
(Xem: 14927)
Càng sống thiền định để thấu suốt cái vô thường, đau khổvô ngã trong đời sống thì ta càng dễ dàng mở rộng trái tim để có thể sống hòa ái và cảm thông cho tha nhân nhiều hơn.
(Xem: 19243)
Bồ Tát Quán Thế Âm là một trong những hình tượng gần gũi nhất với hầu hết tín đồ Phật giáo, dù ở bất cứ nơi đâu, dù thuộc tầng lớp nào. Ngài là biểu tượng của lòng đại bi...
(Xem: 10639)
Giáo dục của chúng ta là sự vun đắp của ký ức, sự củng cố của ký ức. Những thực hành và những nghi lễ của tôn giáo, đọc sách và hiểu biết của bạn, tất cả là sự củng cố của ký ức.
(Xem: 18598)
Đức Phật đã nhìn thấy rất rõ rằng, những trạng thái khác nhau của tâm và những hành động khác nhau của thân sẽ đưa đến những kết quả hoàn toàn khác biệt.
(Xem: 15690)
Phương pháp thiền tập được xuất phát từ phương Đông nhiều ngàn năm trước đây, sau khi được truyền sang phương Tây đã trở thành một phương pháp thực tập được nhiều người yêu thích...
(Xem: 13205)
Chư Bồ Tát, tùy theo hạnh nguyện thù thắng khác biệt mà mỗi vị mang một danh hiệu khác nhau, tựu trung hạnh nguyện của vị nào cũng vĩ đại rộng sâu không thể nghĩ bàn...
(Xem: 13436)
Tuy ra đời khá sớm trong dòng văn học Phật giáo, nhưng cho đến nay, điểm thú vị của độc giả khi đọc lại tập sách này là vẫn có thể nhận ra được những vấn đề quen thuộc với cuộc sống hiện nay của bản thân mình.
(Xem: 14053)
Chân lý chỉ có một, nhưng mỗi người đến với chân lý bằng một con đường khác nhau. Dù bằng con đường nào đi nữa thì đó cũng là hạnh phúc lớn nhất trong cuộc đời...
(Xem: 11815)
Đây là kết quả của 17 năm trường mà Ngài Huyền Trang đã ở tại Ấn Độ. Đi đến đâu Ngài cũng ghi lại từ khí hậu, phong thổ cho đến tập quán và nhất là những câu chuyện liên quan đến cuộc đời đức Phật...
(Xem: 11650)
Chính là nhờ vào con đường tu tập, vào sự bứng nhổ tận gốc rễ cái ảo tưởng rằng ta là một cá thể riêng biệt mà ta tìm lại được hạnh phúc chân thật sẵn có trong ta.
(Xem: 11365)
Đức Phật thuyết Pháp, chư tăng gìn giữ pháp Phật để vĩnh viễn lưu truyền làm đạo lý tế độ quần sanh. Vì thế, Phật, Pháp và Tăng là ba món báu của chúng sanh...
(Xem: 11917)
Sân chùa yên ả không một tiếng lá rơi. Mặt trời áp má lên những vòm cây xum xuê, chỉ để rớt nhiều đốm nắng rất nhỏ xuống đất, không nóng bức, không khó chịu...
(Xem: 19959)
Như những con người, tất cả chúng ta muốn an lạc hạnh phúc và tránh buồn rầu đau khổ. Trong kinh nghiệm hạn hẹp của mình, nếu chúng ta đạt đến điều này, giá trị bao la của nó có thể phát triển...
(Xem: 12414)
Ở xứ Tây Tạng, tạo hóa và dân sự dường như bảo nhau mà giữ không cho kẻ lạ bước vào! Núi cao chập chùng lên tận mây xanh có tuyết phủ...
(Xem: 13963)
Đức Phật Thích-ca Mâu-ni ra đời cách đây đã hơn 25 thế kỷ. Những gì ngài để lại cho cho chúng ta qua giáo pháp được truyền dạy khắp năm châu là vô giá...
(Xem: 13288)
Trong các vị cao tăng Trung Hoa, ngài Huyền Trang là người có công nghiệp rất lớn, đã đi khắp các nơi viếng Phật tích, những cảnh chùa lớn, quan sátnghiên cứu rất nhiều.
(Xem: 32027)
Những phương pháp và lời hướng dẫn mà Đức Phật đã đề ra giúp chúng ta có thể từng bước tiến đến một sự giác ngộ sâu xa và vượt bậc, và đó cũng là kinh nghiệm tự chúng Giác Ngộ của Đức Phật.
(Xem: 13454)
Vào một buổi chiều lười biếng ở Sydney, tôi mở Tivi và thấy chương trình Oprah Winfrey đang tranh luận về kiếp trước kiếp sau, cuộc tranh luận rất sôi nổi.
(Xem: 12770)
Đây là một cuốn nhật ký ghi chép cuộc hành trình đi về Ấn Độ để học đạo. Tác giả nhân khi chùa Văn Thù Sư Lợi tổ chức chuyến đi hành hương các Phật tích tại Ấn đã tháp tùng theo...
(Xem: 13348)
Sách gồm những lời phát biểu của Đức Đạt-Lai Lạt-Ma về Phật giáo và vài vấn đề liên quan đến Phật giáo, chọn lọc từ các bài diễn văn, phỏng vấn, các buổi thuyết giảng và các sách của Đức Đạt-Lai Lạt-ma.
(Xem: 11916)
Trời bên này đã thật sự vào thu rồi đó! Buổi chiều, con đường về nhà hai bên rừng có ngàn lá đổi sang màu trái chín, đẹp kỳ diệu.
(Xem: 21903)
Ni sư Ayya Khema viết quyển tự truyện này không vì mục đích văn chương, mà để chúng ta từ câu chuyện đời của Ni sư tìm được những bài học giá trị về con đường đạo Người đã đi qua.
(Xem: 11111)
“Đạo lý nhà Phật, là một nền đạo lý thâm trầm, siêu việt hơn hết”. Ấy là lời nói của nhiều nhà thông thái xưa nay trên hoàn võ, và cũng là một mối cảm của chúng tôi nữa.
(Xem: 12921)
Các chân sư thực hiện những kỳ công của các ngài mà không chút tự hào, với một thái độ giản dị hồn nhiên hoàn toàn như trẻ con. Các ngài biết rằng, năng lực của tình thương luôn che chở các ngài.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant