Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương 3: Hết xuống đầm lầy lại lên đỉnh tuyết...

20 Tháng Ba 201100:00(Xem: 6494)
Chương 3: Hết xuống đầm lầy lại lên đỉnh tuyết...

DU LỊCH XỨ PHẬT
Tác giả: Montgomery Mc. Govern, Đoàn Trung Còn dịch, Nguyễn Minh Tiến hiệu đính

Chương 3: Hết xuống đầm lầy lại lên đỉnh tuyết...

Đi gần tới Gantok là kinh thành xứ Sikkim, tôi muốn ghé lắm, nhưng không dám, vì ở trong thành có nhiều do thám của chính phủ Tây Tạng. Nếu họ biết mình vào và nhận ra thì còn mong gì đến kinh đô xứ Phật nữa. Tới đây, phải băng ngang lầy, lần đi từng người, đã lâu mà không tìm được dấu một con đường mòn. Ngựa và la chở nặng, đi không nổi vì đường lầy. Mấy ngày mới qua khỏi chỗ nầy, tuy là một khoảng dài độ bốn mươi cây số thôi. Đi được là nhờ lấy tre và cây nhỏ kê theo rồi bước lên trên.

Ra khỏi lầy, đi một quãng xa, thỉnh thoảng lại gặp một cái chòi ở riêng một mình hoặc một xóm nhỏ bặt đường đi lại với các nơi. Ấy là nhà và xóm của một dân tộc cổ, người Lepchas. Họ chỉ riêng mình ở theo rừng núi, không gần gũi với một dân tộc nào khác, họ sinh hoạt theo xưa, cày cấy một vài công ruộng, cùng là đánh cá bắt tôm. Họ không thờ đạo nào làm chính, nhưng phần đông đều trọng hai vị thần Thiện và Ác. Cùng một vợ một chồng lo làm ăn, có ai qua đời thì họ thiêu xác hoặc có khi cũng chôn cất. Đó là một dân tộc đã gần diệt chủng, là vì họ không đủ sức để phấn đấu tồn tại nữa.

Chúng tôi đi trưa, nóng nực lắm, mồ hôi chảy ra như xối. Ở trong cảnh ấy, khó mà tin rằng trong tám chín ngày nữa, chúng tôi sẽ đến miền tuyết phủ quanh năm, lạnh buốt tới xương.

Chúng tôi vào nghĩ trong một làng người Lepchas. Tôi đi dạo để khảo sát các việc nhỏ nhặt trong sinh hoạt của họ, để so sánh với nếp sống với người Sikkim. Họ nói riêng một thứ tiếng, khác với tiếng người Sikkim. Họ sợ mấy người tôi thuê đi theo lắm, vì những người này là người Sikkim. Họ sợ, vì Sikkim là một dân tộc đã chiếm xứ họ ngày xưa. Và tôi phải bảo mấy người của tôi đi chỗ khác rồi hỏi họ mới chịu trả lời.

Ngày kế, 14 tháng 1, chúng tôi lại ra đi, lấy làm nhọc nhằn lắm. Từ hôm đi đến nay chưa xuống dốc lần nào thật cao. Hôm ấy dốc nhìn bắt chóng mặt, lại có đá chất chồng. Người đi không lấy gì làm khó, duy có thú là khổ hơn, cho nên phải lấy dây mà buộc thú lại để làm thắng, nếu có trợt thì kéo chúng nó lại. La xuống dốc khá hơn ngựa, nhưng sau hết có một con ngựa trợt mạnh suýt chết và kéo anh chàng Sa-tăn theo, làm chàng này suýt nữa thì mất mạng.

Muốn được yên ổn, tôi không còn thích vào nghỉ đêm trong làng. Cứ chiều đến thì che trại ngoài trời, mặc tình mà ngắm sao với bầu trời xinh đẹp.

Từ đây, mỗi ngày không còn ăn ba bữa như mọi khi. Sáng trước khi đi, chúng tôi uống nước trà đậm, rồi để bụng trống mà đi, theo phong tục người Sikkim. Ba giờ chiều thì dừng lại, qua bốn giờ là ăn. Mỗi ngày chúng tôi chỉ ăn một lần thôi. Bình thường tôi chỉ ăn một phần cơm nhỏ thì vừa no, bây giờ tôi ăn đến bảy tám quả trứng gà với một tô cơm lớn. Mấy người kia vẫn chỉ ăn có chừng mực.

Tôi ăn được bữa nên thường sai người giúp việc vào xóm mua thêm đồ. Đi đến một chỗ kia, có một quãng cưỡi ngựa được, chúng tôi khỏi dắt ngựa với la. Đường này của một điền chủ làm. Ông ta có trên một tấm bia mướn chạm tại thành Calcutta, Ấn Độ, ghi rõ công lao to lớn của mình. Ông có biết đâu tôi là người đọc được cái bia này trước hết, vì trong xứ nào có ai biết tiếng Anh.

Ông điền chủ này xài tiền không phải cách, nhưng còn khá hơn các điều xa xỉ khác. Nước nhà thì nghèo ngặt mà bọn tư bản thì giàu muôn hộ, xài phá tiền của trong nháy mắt. Như họ dám bỏ bạc ngàn ra để mua dầu thắp trong chùa, mà chùa thì lại bỏ phế gần hư hỏng. Xứ Tây Tạng nghèo chẳng phải vì thiếu tiền, chính là tại người ta xài tiền quá. Nhân một lần dừng chân hạ trại, tôi tính bỏ đồ Âu phục mà mặc đồ Tây Tạng, vì người bản xứ họ hay ngó bộ đồ tây của tôi lắm. Tôi lại sợ rằng họ thấy mình đi vào trong mà không thấy trở ra thì họ đồn dậy lên, bất tiện cho mình. Một bề tôi lại sợ một vài viên quan họ thấy tôi mặc đồ Tây Tạng họ lại càng để ý nghi ngờ, vì tôi có giấy đi các đèo mà còn giả dạng thì đáng cho họ nghi lắm. Sau rốt, tôi mặc đồ Tây Tạng, nhưng không sơn vẽ mặt mày.

Mấy người theo giúp tôi ngỡ rằng tôi không được tỉnh trí, nên không để ý việc tôi thay đổi cách ăn mặc. Họ cứ tưởng rằng tôi sắp trở lại chùa Pemayangtsé, nên tôi phải nói rõ rằng tôi muốn đến thành Lachen mà luận về Phật học với một vị hòa thượng tại đó, rồi mới trở lại chùa Pemayangtsé. Họ không thể nào hiểu được cái chủ ý thật sự của tôi.

Đến một cái làng kia, là làng Drikchu, lúc trước có vài cái suối nước nóng rất hay, trị được bệnh. Du khách thường vãng lai, nhưng từ khi suối bị đá lăn bít, người trong xứ lo dẹp và sửa lại. Bây giờ chỗ ấy vắng tanh, không mấy người ở gần, du khách cũng vắng luôn. Lại chỗ này không có đồ ăn, la và ngựa dành phải dùng măng tre, và mấy người theo tôi phải ăn tạm rau mà chịu. Thay vì rượu chai hiệu Bière với sữa, giờ đây ai nấy đều uống nước trong múc dưới suối trừ cơn khát! Nhưng may gặp một đoàn thương khách đi lại, chúng tôi mua được thịt ướp. Người Tây Tạng họ cắn mà ăn sống, về sau tôi cũng tập ăn như họ vậy.

Tôi giả dạng được kết quả rồi. Người qua đường không còn ngoái lại mà xem và trằm trồ nữa.

Gặp đường lên dốc, nhưng dốc không mấy cao. Đi luôn như vậy, bấy giờ mới hết nóng nực và hết đổ mồ hôi. Nhưng chừng lên khỏi mới hay rằng băng đã phủ kín cả mấy cái đèo. Tôi hay tin mất hết tinh thần, buông xuôi cả tay chân.

Cảnh tượng càng đơn sơ, xa xa ẩn hiện một vài cái nhà hư sập, như vậy cũng làm cho khách bớt nản lòng. Hôm ấy, kiếm một chỗ để che trại cũng không ra, cùng nhau đành đi lại một cái hang đá, ngoài có lá cây bao phủ. Ngủ đến nửa đêm, ai nấy đều thức dậy vì bị đỉa đeo đầy mình. Phải lấy nước muối nhỉ lên mới làm nhã ra từng con. Ngựa và la cũng đều bị đỉa cắn. Chúng tôi phải thức mà phòng bị suốt đêm.

Sáng ra, ngày 18 tháng 1, tính đi thẳng một hơi nên mọi người đều cùng ăn thật no cho vững bụng. Mặt trời mọc, cả bọn đều từ giả cái đỉnh núi trắng xóa mênh mông mang tên là Kinchinjunga. Đỉnh núi này xem coi oai nghiêm lắm, người trong xứ vẫn xem như vị thần bảo hộ cho họ vậy. Đường thật tốt, xa xa đã thoáng thấy mấy hòn núi nằm rãi rác, cho biết là sắp vào được trong địa phận xứ Tây Tạng.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 10192)
Sự sinh ra cao quý, tự dothuận lợi này thật khó có được. Cầu mong con không lãng phísử dụng nó một cách có ý nghĩa.
(Xem: 11247)
Ta cần có những thiện hạnh để chấm dứt những dục vọng vô độ và việc coi mình là quan trọng; cách hành xử tránh điều độc hại như thuốc độc...
(Xem: 13588)
Xuất phát từ một nhận thức có tính thuyết phục về đạo Phật, quyển "Thuần Hóa Tâm Hồn" được viết với một văn phong hiện đại, trong sángtinh tế; nghiêm trang nhưng vẫn đan xen đôi nét hóm hỉnh.
(Xem: 13740)
Một cách khái quát, Thiền có thể hiểu là trạng thái tâm linh vút cao của một hành giả đã chứng ngộ. Với nghĩa này, Thiền cũng là Đạo, là Phật, là Tâm...
(Xem: 22216)
Các khoa học gia ngày nay trên thế giới đang có khuynh hướng chú trọng vào chế độ dinh dưỡng lành mạnh lấy chất bổ dưỡng từ nguồn thức ăn do thực vật đem lại...
(Xem: 21875)
Chúng tôi đi với hai mục đích chính: Thay mặt toàn thể Phật tử Việt Nam chiêm bái các Phật tích và viết một quyển ký sự để giới thiệu các Phật tích cho Phật Tử Việt Nam được biết.
(Xem: 27387)
Tâm tánh của chúng sinh dung thông không ngăn ngại, rộng lớn như hư không, lặng trong như biển cả. Vì như hư không nên thể của nó bình đẳng...
(Xem: 17778)
Tây phương Cực lạccảnh giới thanh tịnh giải thoát. Thanh tịnhvô nhiễm là thuần thiện, giải thoát là vượt ngoài ba cõi, vượt ngoài ba cõi là xả ly thế gian.
(Xem: 11740)
Tinh thần Đại thừa Phật giáo nhằm mục đích chuyển hóa cõi Ta-bà uế trược này trở thành Cực-lạc thanh lương. Sự phổ biến Phật giáo khắp mọi tầng lớp quần chúng là điều Phật tử phải thực hiện.
(Xem: 12330)
Là một tu sĩ Phật giáo Việt Namtrách nhiệm và nhiều nhiệt tình thì thấy điều gì hay trong Phật giáo tôi tán thán, biết việc gì dở tôi chê trách, đều nhằm mục đích xây dựng Phật giáo Việt Nam mà thôi.
(Xem: 25248)
Chúng ta tu Thiền là cốt cho tâm được thanh tịnh trong lặng. Từ tâm thanh tịnh trong lặng đó hiện ra trí vô sư. Trí vô sư hiện ra rồi thì chúng ta thấy biết những gì trước kia ta chưa hề thấy biết...
(Xem: 23282)
Đối tượng nghiên cứu của xã hội học là con người, trong khi đó, xã hội học Phật giáo có những bước nghiên cứu xa hơn không chỉ nói về con người mà còn đề cập đến các loài hữu tình khác...
(Xem: 28578)
Một chủ đề chính của cuốn sách này là qua thực hành chúng ta có thể trau dồi tỉnh giác lớn lao hơn suốt mỗi khoảnh khắc của đời sống. Nếu chúng ta làm thế, tự dolinh hoạt mềm dẻo liên tục tăng trưởng...
(Xem: 22772)
Chân thật niệm Phật, lạy Phật sám hối, giữ giới sát, ăn chay, cứu chuộc mạng phóng sinh. Đó là bốn điểm quan trọng mà sư phụ thường dạy bảo và khuyến khích chúng ta.
(Xem: 25711)
Con đường thiền tậpchánh niệm tỉnh giác, chứng nghiệm vào thực tại sống động. Khi tâm an định, hành giả có sự trầm tĩnh sáng suốt thích nghi với mọi hoàn cảnh thuận nghịch...
(Xem: 22299)
Với người đã mở mắt đạo thì ngay nơi “sắc” hiện tiền đó mà thấy suốt không chướng ngại, không ngăn che, nên mặc dù Sắc có đó vẫn như không, không một chút dấu vết mê mờ...
(Xem: 13992)
Trên đời này, hạnh phúc và khổ đau; chiến tranh và hòa bình; giàu và nghèo… nếu chúng ta chịu khó tu tập một chút và giữ tâm thật bình thản, chúng ta sẽ khám phá ra nhiều điều hay vô cùng.
(Xem: 13436)
Bước đường hành đạo của đức Phật thật sinh động trong khung cảnh Ấn Ðộ cổ đại được minh họa bằng các trích đoạn kinh kệ từ Tam Tạng Pàli nguyên thủy đầy thiền vị hòa lẫn thi vị...
(Xem: 22476)
Bắt đầu bằng cách bỏ qua một bên tất cả những mối quan tâm ở bên ngoài, và quay vào quán sát nội tâm cho đến khi ta biết tâm trong sáng hay ô nhiễm, yên tĩnh hay tán loạn như thế nào.
(Xem: 26383)
Kinh Nghĩa Túc đã bắt đầu dạy về không, vô tướng, vô nguyệnbất khả đắc. Kinh Nghĩa Túc có những hình ảnh rất đẹp về một vị mâu ni thành đạt.
(Xem: 18484)
Bản thể hiện tiền là Sự Sống Duy Nhất vĩnh hằng, luôn hiện tiền, vượt quá hằng hà sa số dạng hình thức sinh linh vốn lệ thuộc vào sinh và diệt.
(Xem: 18964)
Khi bạn chú tâm đến sự yên lặng, ngay lập tức có một trạng thái cảnh giác nhưng rất im lắng ở nội tâm. Bạn đang hiện diện. Bạn vừa bước ra khỏi thói quen suy tưởng của tâm thức cộng đồng...
(Xem: 34513)
Đây là phần thứ 2 trong 3 phần chính của cuốn Zen no Rekishi (Lịch Sử Thiền) do giáo sư Ibuki Atsushi soạn, xuất bản lần đầu tiên năm 2001 tại Tôkyô.
(Xem: 27381)
Thật ra chân lý nó không nằm ở bên đúng hay bên sai, mà nó vượt lên trên tất cả đối đãi, chấp trước về hiện hữu của Nhị Nguyên. Chân lý là điểm đến, còn hướng đến chân lý có nhiều con đường dẫn đến khác nhau.
(Xem: 28424)
Trong tiếng Phạn (Sanskrit), từ "Thiền" có ngữ nguyên là dhyâna. Người Trung Hoa đã dịch theo âm thành "Thiền na". Ý nghĩa "trầm tư mặc tưởng" của nó từ xưa trong sách vở Phật giáo lại được biểu âm bằng hai chữ yoga (du già).
(Xem: 21384)
Giác ngộ là sự hiểu biết đúng như thật; giải thoát là sự chấm dứt mọi phiền não khổ đau. Chỉ có sự hiểu đúng, biết đúng mới có sự an lạchạnh phúc...
(Xem: 14900)
Càng sống thiền định để thấu suốt cái vô thường, đau khổvô ngã trong đời sống thì ta càng dễ dàng mở rộng trái tim để có thể sống hòa ái và cảm thông cho tha nhân nhiều hơn.
(Xem: 19217)
Bồ Tát Quán Thế Âm là một trong những hình tượng gần gũi nhất với hầu hết tín đồ Phật giáo, dù ở bất cứ nơi đâu, dù thuộc tầng lớp nào. Ngài là biểu tượng của lòng đại bi...
(Xem: 10619)
Giáo dục của chúng ta là sự vun đắp của ký ức, sự củng cố của ký ức. Những thực hành và những nghi lễ của tôn giáo, đọc sách và hiểu biết của bạn, tất cả là sự củng cố của ký ức.
(Xem: 18575)
Đức Phật đã nhìn thấy rất rõ rằng, những trạng thái khác nhau của tâm và những hành động khác nhau của thân sẽ đưa đến những kết quả hoàn toàn khác biệt.
(Xem: 15664)
Phương pháp thiền tập được xuất phát từ phương Đông nhiều ngàn năm trước đây, sau khi được truyền sang phương Tây đã trở thành một phương pháp thực tập được nhiều người yêu thích...
(Xem: 13185)
Chư Bồ Tát, tùy theo hạnh nguyện thù thắng khác biệt mà mỗi vị mang một danh hiệu khác nhau, tựu trung hạnh nguyện của vị nào cũng vĩ đại rộng sâu không thể nghĩ bàn...
(Xem: 13423)
Tuy ra đời khá sớm trong dòng văn học Phật giáo, nhưng cho đến nay, điểm thú vị của độc giả khi đọc lại tập sách này là vẫn có thể nhận ra được những vấn đề quen thuộc với cuộc sống hiện nay của bản thân mình.
(Xem: 14027)
Chân lý chỉ có một, nhưng mỗi người đến với chân lý bằng một con đường khác nhau. Dù bằng con đường nào đi nữa thì đó cũng là hạnh phúc lớn nhất trong cuộc đời...
(Xem: 11793)
Đây là kết quả của 17 năm trường mà Ngài Huyền Trang đã ở tại Ấn Độ. Đi đến đâu Ngài cũng ghi lại từ khí hậu, phong thổ cho đến tập quán và nhất là những câu chuyện liên quan đến cuộc đời đức Phật...
(Xem: 11634)
Chính là nhờ vào con đường tu tập, vào sự bứng nhổ tận gốc rễ cái ảo tưởng rằng ta là một cá thể riêng biệt mà ta tìm lại được hạnh phúc chân thật sẵn có trong ta.
(Xem: 11342)
Đức Phật thuyết Pháp, chư tăng gìn giữ pháp Phật để vĩnh viễn lưu truyền làm đạo lý tế độ quần sanh. Vì thế, Phật, Pháp và Tăng là ba món báu của chúng sanh...
(Xem: 11894)
Sân chùa yên ả không một tiếng lá rơi. Mặt trời áp má lên những vòm cây xum xuê, chỉ để rớt nhiều đốm nắng rất nhỏ xuống đất, không nóng bức, không khó chịu...
(Xem: 19945)
Như những con người, tất cả chúng ta muốn an lạc hạnh phúc và tránh buồn rầu đau khổ. Trong kinh nghiệm hạn hẹp của mình, nếu chúng ta đạt đến điều này, giá trị bao la của nó có thể phát triển...
(Xem: 12398)
Ở xứ Tây Tạng, tạo hóa và dân sự dường như bảo nhau mà giữ không cho kẻ lạ bước vào! Núi cao chập chùng lên tận mây xanh có tuyết phủ...
(Xem: 13942)
Đức Phật Thích-ca Mâu-ni ra đời cách đây đã hơn 25 thế kỷ. Những gì ngài để lại cho cho chúng ta qua giáo pháp được truyền dạy khắp năm châu là vô giá...
(Xem: 13273)
Trong các vị cao tăng Trung Hoa, ngài Huyền Trang là người có công nghiệp rất lớn, đã đi khắp các nơi viếng Phật tích, những cảnh chùa lớn, quan sátnghiên cứu rất nhiều.
(Xem: 31980)
Những phương pháp và lời hướng dẫn mà Đức Phật đã đề ra giúp chúng ta có thể từng bước tiến đến một sự giác ngộ sâu xa và vượt bậc, và đó cũng là kinh nghiệm tự chúng Giác Ngộ của Đức Phật.
(Xem: 13437)
Vào một buổi chiều lười biếng ở Sydney, tôi mở Tivi và thấy chương trình Oprah Winfrey đang tranh luận về kiếp trước kiếp sau, cuộc tranh luận rất sôi nổi.
(Xem: 12758)
Đây là một cuốn nhật ký ghi chép cuộc hành trình đi về Ấn Độ để học đạo. Tác giả nhân khi chùa Văn Thù Sư Lợi tổ chức chuyến đi hành hương các Phật tích tại Ấn đã tháp tùng theo...
(Xem: 13333)
Sách gồm những lời phát biểu của Đức Đạt-Lai Lạt-Ma về Phật giáo và vài vấn đề liên quan đến Phật giáo, chọn lọc từ các bài diễn văn, phỏng vấn, các buổi thuyết giảng và các sách của Đức Đạt-Lai Lạt-ma.
(Xem: 11905)
Trời bên này đã thật sự vào thu rồi đó! Buổi chiều, con đường về nhà hai bên rừng có ngàn lá đổi sang màu trái chín, đẹp kỳ diệu.
(Xem: 21870)
Ni sư Ayya Khema viết quyển tự truyện này không vì mục đích văn chương, mà để chúng ta từ câu chuyện đời của Ni sư tìm được những bài học giá trị về con đường đạo Người đã đi qua.
(Xem: 11097)
“Đạo lý nhà Phật, là một nền đạo lý thâm trầm, siêu việt hơn hết”. Ấy là lời nói của nhiều nhà thông thái xưa nay trên hoàn võ, và cũng là một mối cảm của chúng tôi nữa.
(Xem: 12901)
Các chân sư thực hiện những kỳ công của các ngài mà không chút tự hào, với một thái độ giản dị hồn nhiên hoàn toàn như trẻ con. Các ngài biết rằng, năng lực của tình thương luôn che chở các ngài.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant