Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương 9: Đến Lhassa

20 Tháng Ba 201100:00(Xem: 6113)
Chương 9: Đến Lhassa

DU LỊCH XỨ PHẬT
Tác giả: Montgomery Mc. Govern, Đoàn Trung Còn dịch, Nguyễn Minh Tiến hiệu đính

Chương 9: Đến Lhassa

Mấy lúc sau, tôi mệt lắm, mệt cho đến nổi không còn quan tâm đến cảnh đẹp của hóa công. Thình lình, La-ten kêu to lên, bảo tôi nhìn về tay mặt. Tôi trông thấy cảnh vật tưởng không bao giờ có thể quên được. Ngoài xa, chừng vài cây số, là Potala (Bổ-đà-lạc-ca), đền vua Đạt-lai Lạt-ma, đức Phật sống, với dinh thự nguy nga. Còn bên kia núi phía dưới đền là đô thị Lhassa, tức là xứ Phật của người đạo Phật vậy.

Bây giờ đến nơi đến chốn, bao nhiêu sự khổ não ngẫm lại không phải là vô ích. Chúng tôi dừng lại vài phút đồng hồ mà trông ra, thật là đích đáng vô cùng. Sau cùng, xuống tới chân núi, chúng tôi đi thẳng vào thành. Tôi hết sức lực, ước rằng vào thành sẽ được bình yên. Một con lừa mệt quá, ngã quỵ trên đường. Người ta xúm lại coi đông, tôi rất sợ, vì ở đây là trước chùa Drépung. Mấy nhà sư họ ghét người ngoại quốc lắm, nếu họ biết thì nguy to. Sa-tăn e có chuyện liên lụy nên đi trước, giả đò không nhìn biết bọn tôi. Tôi lấy làm lúng túng. Sau cùng phải lấy đồ đạc chất trên lưng mấy con ngựa, hai thằng đi sau coi chừng. Tôi ra dấu bảo La-ten lên ngựa đặng đi luôn. Một quãng hơn năm trăm mét mới gặp Sa-tăn ngồi trong một cái nhà. Hắn thấy chúng tôi đi tới một cách vô sự, nó mới chịu đi chung. Chưa phải lúc xử trí với tên này, nên đành làm thinh, nhưng tôi lấy làm chán ngáncử chỉ của nó.

Qua khỏi chùa Drépung, chưa vào thành. Đi qua một cái truông, hẹp lắm, phải đi từng người. Thình lình nhìn ra thấy phong cảnh rất xinh đẹp, thích thú. Phía trước, một con đường rộng chạy thẳng vào thành với những phố phường, bên trái là đền vua choán hết cả trái núi. Lúc nảy chỉ trông thấy đền từ xa, bây giờ được thấy ngay tận mặt, tôi ngẩng cả người ra mà nhìn một chặp lâu. Đền làm bằng gạch và đá, chạy dài chừng ba cây số, kiểu mới không phức tạp lắm, nhưng thật là mỹ thuật tài tình. Phía trên đỏ, phía dưới trắng. Còn dưới chân núi sát đồng bằng là những tàu ngựa, những kho chứa đồ ăn, những dinh thự của các quan nhỏ, gần đó là nhiều nhà của thường dân.

Chúng tôi tìm nhà trọ, chỗ nào cũng chật cứng, họ không thể nào nhận thêm khách nữa.

Lạ thật, chúng tôi vào kinh đô Lhassa nhằm đúng ngày cuối năm Âm lịch, ba mươi tháng chạp (theo Dương lịch là 15 tháng 2), ngày kế đó là Tết. Và suốt trong ba tuần lễ sắp tới, trong thành sẽ có lễ lạt liên miên. Thiện nam tín nữtăng chúng tựu về kinh đô nhiều không kể xiết. Trên các nẻo đường, Tăng chúng ở ba nhà chùa Drépung, Séra và Ganden đi choán chật ních. Lại cũng có chư tăng các nơi tựu về rất đông. Bình thường dân số ở kinh thành là hai chục ngàn người, không kể chư tăng trong ba nhà chùa. Nhưng đến mấy ngày lễ như hôm nay thì trong thành đếm ra ít nhất cũng là một trăm ngàn người!

Chỗ nào họ cũng không cho chúng tôi ngụ. Chúng tôi xin nghỉ tạm ngoài sân, họ cũng không chịu. Chúng tôi tính đi thẳng vào trong, họa may kiếm được chỗ trọ. Trời sắp tối, nếu ở ngoài đường mãi thì nguy.

Đường tuy không có lề, nhưng xem rất uy nghiêm. Vừa rộng rãi, mà hai bên có những vườn hoa xinh đẹp. Những vườn hoa này của nhà vua hoặc của những nhà sang trọng, ngăn cách với đường bằng vách tường xây chắc chắn. Phần nhiều trong vườn có trồng liễu. Nhằm mùa đông, liễu không lá, nhưng tôi đã trải qua những cảnh đồng hoang, bây giờ xem cây cối rất hữu tình. Trên đường, tôi gặp nhiều người đi dạo, có vẻ tươi cười. Có năm ba người thanh niên, cũng đi dạo và trêu ghẹo mấy người qua đường. Trong bọn ấy, một người có tuồng sáng láng hơn hết, lấy cùi chỏ thúc người bạn và chỉ tôi, nói rằng tôi như người ngoại quốc. Nhưng chàng kia trông thấy áo quần tôi rách nát, bộ tướng tôi nguy khốn và dại khờ có lẽ lúc đó vì tôi quá sợ họ biết thì cười to lên và đáp rằng tôi chỉ là một đứa đầy tớ mạt hạng của một người nào bên Sikkim đó thôi. Một cô gái đẹp đi ngang, nhờ cơ hội này mà họ không còn để ý đến tôi, tôi rất mừng.

Bây giờ vào tới giữa nội thành, đi ngang một vòng nguyệt rất khéo, làm theo kiểu Trung Quốc. Trời tối, không dạo xem thị tứ được, trong lòng chỉ muốn mỗi một việc là tìm cho được một nhà trọ để nghỉ đêm, xấu tốt cũng được.

Tìm mãi cũng không được, chỗ nào người ta cũng nói rằng hết phòng rồi. Đi trọn cả giờ, tôi sợ phải ngủ ngoài trời. Tôi sợ người ta biết lắm, cho nên làm thế nào cũng phải kiếm một chỗ để nghỉ. Tôi thấy phía bên trái có một cái nhà lầu ba tầng. Mấy người dẫn đường nói là lầu của chính phủ, chia ra nhiều ngăn, để cho những quan chức lớn trong thành ở. Mình biết họ không để nhà cho bộ hành mướn. Nhưng cũng đánh liều. Tôi bảo Sa-tăn và La-ten vào nói rằng chúng tôi là người bên Sikkim đi hành hương đến đây, không kiếm được chỗ trọ nên xin vào tá túc.

Hai mươi phút sau, hai người trở ra nói rằng được, nhưng chỉ ở tạm một đêm thôi. Tôi dắt ngựa vào sân, rồi lên lầu. Tới đây tôi kiệt sức, không thể nào đi nữa, lên cầu thang cũng không nổi. Mấy người kia xúm khiêng tôi lên. Mệt lắm, tôi ngủ liền. Một lát sau, La-ten mang đồ ăn lại cho tôi. Thú thật, chưa lần nào tôi ăn ngon bằng lần này.

Chủ nhà chưa đến viếng chúng tôi, thình lình con chó đánh hơi đồ ăn, bèn chạy lại và ngửi hơi tôi. Nó định chắc rằng tôi không phải như mấy người kia. Nó bèn sủa tôi rất dữ tợn. Tôi làm hết thế để cho nó thôi sủa, nhưng không được. Nghỉ mà nực cười, mình đã qua mắt được bao nhiêu người, mới vào tận kinh đô. Đến đây lại bị một con chó nhỏ lật tẩy mình!

Tôi bèn nhất định xuất đầu lộ diện. Tự mình lộ diện còn hơn là để người ta truy tầm. Vả lại, từ khi mới bước chân ra, tôi đã có ý muốn làm cho chính phủ Tây Tạng biết rằng tuy cấm không cho tôi vào kinh đô mà nay tôi đã vào được rồi. Còn nếu qua đây mà về êm lặng lẽ thì có ai biết mà nhận rằng tôi đã viếng kinh thành nghiêm cấm?

Tôi định kiếm người chủ nhà mà thú thật. Tôi nghĩ rằng nên dùng cơ hội này là mình đương ở trong một nhà quan và dùng một ông quan làm môi giới cho mình với chính phủ. Tôi cũng biết rằng họ không dám hại mạng tôi, vì họ sợ mang tiếng đối với chính phủ Anh bên Ấn Độ.

Con chó còn sủa, tôi lột đồ giả dạng ra từng món. Mấy người làm thuê cho tôi hoảng sợ, không hiểu tôi muốn làm gì. Tôi đi thẳng vào phòng kế, gặp chủ nhà, liền khai tên thật của tôi.

Người này ngạc nhiên lắm, ngó sửng tôi một chặp và không thốt một lời. Khi ông ta định trí và nói được thì lại làm cho tôi ngạc nhiên trở lại, là vì ông chính là Sonam, vị bộ trưởng thay mặt xứ Tây Tạnggiao thiệp với Ấn Độ. Hôm trước, chính ông truyền rao cho nhân dân hay rằng tôi vào Tây Tạng và chính ông thông báo cho các quan địa phương tìm bắt tôi mà đuổi ra ngoài. Nay tôi lại đến trình diện với ông!

Cảm tưởng đầu tiên của tôi là tôi đã lọt vào miệng hùm rồi và ông ta là người oán ghét tôi hơn hết. Nhưng ngược lại, ông đãi tôi rất trọng và hứa rằng ông sẽ tiếp giúp cho tôi. Ông chắc rằng tôi sẽ gặp nhiều việc rủi ro, vì tôi đến Tây Tạng nhằm lễ đầu năm là lúc mà dân chúng đem lòng tín phục hơn hết đối với tôn giáo và các nhà sư, và lúc mà các nhà sư chiếm hết quyền hành. Hai tôi bàn soạn rất lâu, sau mới định tâu ngay lên vua Đạt-lai Lạt-ma. Ông Sonam đây là người gốc gác ở bên Sikkim, có học rộng, giỏi tiếng Anh, biết người Anh nên chính phủ Tây Tạng mời ông đến, bổ dụng ông để trực tiếp giao thiệp với chính phủ Anh bên Ấn Độ.

Sáng lại, ông chưa tâu được. Ông bèn dời tôi lại phòng riêng của ông để nghỉ, còn ông thì lui vào một phòng khác mà ở chung với gia đình. Mấy tuần lễ nay, giờ mới được biết một cảnh nhà tốt đẹp, được nghỉ ngơi một chỗ đàng hoàng!

Tuy rằng La-ten đã dọn cho tôi ăn rồi, nhưng ông cũng bảo người nhà mang thức ăn đãi tôi, nấu nướng kỹ lưỡng. Tôi đã yếu trong mình vì sự nhọc nhằn, thiếu thốn nên ăn ngon miệng và ăn khá nhiều. Ông với tôi ăn chung, lại cùng nhau chén tạc chén thù.

Tôi ra sân xem mấy người của tôi đang làm gì, cũng để có dịp mà xem rõ nhà quan và cách ăn ở của người Tây Tạng. Kinh đô có nhà cửa hiện đại, các quan đều ở nhà sơn phết và trang hoàng theo lối Tây phương, mỗi nhà có năm ba cái phòng.

Tôi ngụ ở đây, không ai biết gì hết. Tôi cấm mấy người giúp việc không được thổ lộ với ai.

Tôi vào phòng, ngủ một giấc thật dài, bỏ công việc qua ngày sau. Sáng dậy sớm, La-ten mang cho tôi một tách nước trà. Tôi bảo anh ta với Sa-tăn đi chợ mua đồ ăn, là vì theo phong tục Tây Tạng, khách phải tự mua lấy đồ ăn dùng.

Hôm ấy nhằm lễ đầu năm, các quan đều tựu mặt để chúc thọ vua, cho nên cũng khó mà tâu lên, nhưng Sonam hứa rằng ông sẽ cố dâng mật sớ lên cho vua hay.

Ông Sonam đưa tôi lên nóc lầu, xem qua thấy trọn cả thành phố. Nóc lầu bên Tây Tạng bằng thẳng, có thể tự do đi bách bộ và ngắm cảnh nội thành luôn thể. Bên ngoài nóc có lan can che chắn, nên chẳng ai trông thấy được mình.

Về hướng tây, có một cây cầu rất mỹ thuật với những vườn hoa thanh lịch chạy dài tới hai trái núi trên đỉnh có trường y học và đền Potala. Từ chỗ tôi đứng tới đền Potala cách xa trên một cây số rưởi, thế mà trông ra không mất đi sự tráng lệ, hùng vĩ chút nào. Lại ánh hồng buổi ban mai chói vào cảnh đền xem ra vàng hực, đẹp hơn bội phần. Ngọn núi có đền Potala che khuất cảnh chùa Drépung phía sau. Rồi bắt từ chùa Drépung mà đi tới chừng ba bốn cây số nữa gặp chùa Séra là cảnh chùa thứ nhì trong ba cảnh chùa lớn. Chùa Drépung có nhiều quyền hành trong chính giới, còn chùa Séra thì nổi danh nhờ tăng chúng rất thông kinh luật. Và ai được nghe nhà sư chùa Séra đọc kinh giảng lý thì được hạnh phúc lắm. Ở xứ Tây Tạng là xứ xở của đạo Phật và là nơi trung tâm đạo Phật, mà được tiếng tăm như chư tăng chùa Séra, ấy là sự quý báu vô cùng vậy.

Về hướng đông, cánh đồng rộng giăng thẳng đến mười cây số ngàn, đến miền núi non. Rãi rác nổi lên năm ba tòa biệt thự trên mấy con đường, và nối theo mấy con đường này thì đến chùa Ganden là cảnh chùa lớn hạng ba ở Lhassa. Tầm mắt trông ra xa, ấy là miền Trung Hoa và Mông Cổ. Người Trung Quốc và người Mông Cổ không được bước chân vào đất Tây Tạng, song người ta không cản những kẻ tu hành đến viếng Lhassa. Tôi nhận thấy ngoài xa có vài đoàn lữ hành Mông Cổ kéo nhau đến kinh đô linh thiênglạy Phật thỉnh kinh. Người ở Mông Cổ qua thì đi bằng lạc đà to rất dễ biết.

Về hướng nam, tôi thấy sông Kyi, chính còn sông này làm cho cánh đồng ở Lhassa trở nên phì nhiêu. Phía sau con sông, cánh đồng chạy vài cây số thì gặp vùng núi non.

Chung quanh tôi là thành phố Lhassa, gần một cây số vuông. Hồi trước thành phố có một vòng tường kiên cố bao bọc, ngày nay chỉ còn sót lại một ít dấu tích thời trung cổ ấy, vì vòng tường bị người ta phá hủy đi rồi. Nhà cửa trong thành phố đều cất bằng gạch quét vôi, mỗi nhà có vài ba tầng và trên nóc đều bằng thẳng.

Về phía bắc, có đền Ramoché là một cảnh đền thờ nổi danh và là một cảnh đền xưa hơn hết ở Tây Tạng. Đền thờ thôi chứ chẳng phải chùa. Từ đền Ramoché đi qua hướng tây, gặp chùa Tsomoling là một cảnh chùa trong bốn cảnh chùa của nhà vua ở Lhassa. Đức vua có bốn cảnh chùa: chùa Tsomoling là một, kế đến là chùa Lengyeling ở gần cầu, chùa Kunduing nằm về triền núi phía sau trường Y học, và chùa thứ tư ở về phía bắc sông Kyi. Bốn cảnh chùa ấy giàu có vô cùng, điền thổ rải rác khắp nơi trong xứ Tây Tạng và được giữ gìn rất đặc biệt. Trong khi ba cảnh chùa lớn nhất ở Lhassa là Séra, Drépung và Ganden càng ngày càng nhận thêm tăng đồ thì trong bốn cảnh chùa của nhà vua, mỗi chùa chỉ có một giáo hội là năm trăm người thôi. Các sư được tuyển rất kỹ và giữ giới hạnh rất nghiêm. Các vị đại đức đứng đầu trong bốn cảnh chùa ấy đều được xem như các vị Đại Bồ-tát giáng sanh. Mỗi khi vua chưa đến tuổi trưởng thành, người ta thường cử một trong bốn vị đại đức ấy lên cầm quyền nhiếp chính. Đức vua hiện thời thì đã trưởng thành nên không cần việc nhiếp chính.

Trong các lầu đài ở thành phố Lhassa, đẹp đẽ hơn hết và trang nghiêm hơn hết là đền Chokang, đang đứng sừng sững trước mắt tôi, phía bên kia chợ. Đền nầy linh thiêng hơn hết đối với người Tây Tạng và người Mông Cổ. Lại là cảnh nhà chung của đạo Phật ở khắp cả nước Tây Tạng và của chính phủ Tây Tạng nữa. Đền Chokang có kém vẻ hùng vĩ và ít sắc sảo hơn đền Potala của vua. Song cánh cửa cái rất đẹp và trên nóc có mấy mũi tên bằng đồng đâm lên rất ngộ nghĩnh. Người ta nói mũi tên lớn hơn hết làm toàn bằng vàng.

Ông Sonam từ biệt tôi mà đi chầu vua. Tôi liền vào phòng, kê gối mà nằm nghỉ. Nằm nơi cửa sổ, tôi trông xuống thấy chợ búa với sự náo nhiệt của dân gian.

Tôi đang mơ màng ngủ thì ông Sonam trở về. Ông cho hay công việc đã xong. Tuy quần thần họp rất đông, nhưng ông cũng đã tìm được cách dâng mật sớ lên vua, tâu rằng tôi đã vào đến kinh thành. Vua xem qua, không phán một lời. Ngài vẫn bình tỉnh và giữ vẻ tự nhiên.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 10192)
Sự sinh ra cao quý, tự dothuận lợi này thật khó có được. Cầu mong con không lãng phísử dụng nó một cách có ý nghĩa.
(Xem: 11247)
Ta cần có những thiện hạnh để chấm dứt những dục vọng vô độ và việc coi mình là quan trọng; cách hành xử tránh điều độc hại như thuốc độc...
(Xem: 13591)
Xuất phát từ một nhận thức có tính thuyết phục về đạo Phật, quyển "Thuần Hóa Tâm Hồn" được viết với một văn phong hiện đại, trong sángtinh tế; nghiêm trang nhưng vẫn đan xen đôi nét hóm hỉnh.
(Xem: 13742)
Một cách khái quát, Thiền có thể hiểu là trạng thái tâm linh vút cao của một hành giả đã chứng ngộ. Với nghĩa này, Thiền cũng là Đạo, là Phật, là Tâm...
(Xem: 22217)
Các khoa học gia ngày nay trên thế giới đang có khuynh hướng chú trọng vào chế độ dinh dưỡng lành mạnh lấy chất bổ dưỡng từ nguồn thức ăn do thực vật đem lại...
(Xem: 21875)
Chúng tôi đi với hai mục đích chính: Thay mặt toàn thể Phật tử Việt Nam chiêm bái các Phật tích và viết một quyển ký sự để giới thiệu các Phật tích cho Phật Tử Việt Nam được biết.
(Xem: 27387)
Tâm tánh của chúng sinh dung thông không ngăn ngại, rộng lớn như hư không, lặng trong như biển cả. Vì như hư không nên thể của nó bình đẳng...
(Xem: 17778)
Tây phương Cực lạccảnh giới thanh tịnh giải thoát. Thanh tịnhvô nhiễm là thuần thiện, giải thoát là vượt ngoài ba cõi, vượt ngoài ba cõi là xả ly thế gian.
(Xem: 11740)
Tinh thần Đại thừa Phật giáo nhằm mục đích chuyển hóa cõi Ta-bà uế trược này trở thành Cực-lạc thanh lương. Sự phổ biến Phật giáo khắp mọi tầng lớp quần chúng là điều Phật tử phải thực hiện.
(Xem: 12330)
Là một tu sĩ Phật giáo Việt Namtrách nhiệm và nhiều nhiệt tình thì thấy điều gì hay trong Phật giáo tôi tán thán, biết việc gì dở tôi chê trách, đều nhằm mục đích xây dựng Phật giáo Việt Nam mà thôi.
(Xem: 25248)
Chúng ta tu Thiền là cốt cho tâm được thanh tịnh trong lặng. Từ tâm thanh tịnh trong lặng đó hiện ra trí vô sư. Trí vô sư hiện ra rồi thì chúng ta thấy biết những gì trước kia ta chưa hề thấy biết...
(Xem: 23284)
Đối tượng nghiên cứu của xã hội học là con người, trong khi đó, xã hội học Phật giáo có những bước nghiên cứu xa hơn không chỉ nói về con người mà còn đề cập đến các loài hữu tình khác...
(Xem: 28583)
Một chủ đề chính của cuốn sách này là qua thực hành chúng ta có thể trau dồi tỉnh giác lớn lao hơn suốt mỗi khoảnh khắc của đời sống. Nếu chúng ta làm thế, tự dolinh hoạt mềm dẻo liên tục tăng trưởng...
(Xem: 22772)
Chân thật niệm Phật, lạy Phật sám hối, giữ giới sát, ăn chay, cứu chuộc mạng phóng sinh. Đó là bốn điểm quan trọng mà sư phụ thường dạy bảo và khuyến khích chúng ta.
(Xem: 25713)
Con đường thiền tậpchánh niệm tỉnh giác, chứng nghiệm vào thực tại sống động. Khi tâm an định, hành giả có sự trầm tĩnh sáng suốt thích nghi với mọi hoàn cảnh thuận nghịch...
(Xem: 22303)
Với người đã mở mắt đạo thì ngay nơi “sắc” hiện tiền đó mà thấy suốt không chướng ngại, không ngăn che, nên mặc dù Sắc có đó vẫn như không, không một chút dấu vết mê mờ...
(Xem: 13992)
Trên đời này, hạnh phúc và khổ đau; chiến tranh và hòa bình; giàu và nghèo… nếu chúng ta chịu khó tu tập một chút và giữ tâm thật bình thản, chúng ta sẽ khám phá ra nhiều điều hay vô cùng.
(Xem: 13436)
Bước đường hành đạo của đức Phật thật sinh động trong khung cảnh Ấn Ðộ cổ đại được minh họa bằng các trích đoạn kinh kệ từ Tam Tạng Pàli nguyên thủy đầy thiền vị hòa lẫn thi vị...
(Xem: 22479)
Bắt đầu bằng cách bỏ qua một bên tất cả những mối quan tâm ở bên ngoài, và quay vào quán sát nội tâm cho đến khi ta biết tâm trong sáng hay ô nhiễm, yên tĩnh hay tán loạn như thế nào.
(Xem: 26387)
Kinh Nghĩa Túc đã bắt đầu dạy về không, vô tướng, vô nguyệnbất khả đắc. Kinh Nghĩa Túc có những hình ảnh rất đẹp về một vị mâu ni thành đạt.
(Xem: 18484)
Bản thể hiện tiền là Sự Sống Duy Nhất vĩnh hằng, luôn hiện tiền, vượt quá hằng hà sa số dạng hình thức sinh linh vốn lệ thuộc vào sinh và diệt.
(Xem: 18964)
Khi bạn chú tâm đến sự yên lặng, ngay lập tức có một trạng thái cảnh giác nhưng rất im lắng ở nội tâm. Bạn đang hiện diện. Bạn vừa bước ra khỏi thói quen suy tưởng của tâm thức cộng đồng...
(Xem: 34513)
Đây là phần thứ 2 trong 3 phần chính của cuốn Zen no Rekishi (Lịch Sử Thiền) do giáo sư Ibuki Atsushi soạn, xuất bản lần đầu tiên năm 2001 tại Tôkyô.
(Xem: 27387)
Thật ra chân lý nó không nằm ở bên đúng hay bên sai, mà nó vượt lên trên tất cả đối đãi, chấp trước về hiện hữu của Nhị Nguyên. Chân lý là điểm đến, còn hướng đến chân lý có nhiều con đường dẫn đến khác nhau.
(Xem: 28425)
Trong tiếng Phạn (Sanskrit), từ "Thiền" có ngữ nguyên là dhyâna. Người Trung Hoa đã dịch theo âm thành "Thiền na". Ý nghĩa "trầm tư mặc tưởng" của nó từ xưa trong sách vở Phật giáo lại được biểu âm bằng hai chữ yoga (du già).
(Xem: 21384)
Giác ngộ là sự hiểu biết đúng như thật; giải thoát là sự chấm dứt mọi phiền não khổ đau. Chỉ có sự hiểu đúng, biết đúng mới có sự an lạchạnh phúc...
(Xem: 14900)
Càng sống thiền định để thấu suốt cái vô thường, đau khổvô ngã trong đời sống thì ta càng dễ dàng mở rộng trái tim để có thể sống hòa ái và cảm thông cho tha nhân nhiều hơn.
(Xem: 19217)
Bồ Tát Quán Thế Âm là một trong những hình tượng gần gũi nhất với hầu hết tín đồ Phật giáo, dù ở bất cứ nơi đâu, dù thuộc tầng lớp nào. Ngài là biểu tượng của lòng đại bi...
(Xem: 10619)
Giáo dục của chúng ta là sự vun đắp của ký ức, sự củng cố của ký ức. Những thực hành và những nghi lễ của tôn giáo, đọc sách và hiểu biết của bạn, tất cả là sự củng cố của ký ức.
(Xem: 18575)
Đức Phật đã nhìn thấy rất rõ rằng, những trạng thái khác nhau của tâm và những hành động khác nhau của thân sẽ đưa đến những kết quả hoàn toàn khác biệt.
(Xem: 15665)
Phương pháp thiền tập được xuất phát từ phương Đông nhiều ngàn năm trước đây, sau khi được truyền sang phương Tây đã trở thành một phương pháp thực tập được nhiều người yêu thích...
(Xem: 13186)
Chư Bồ Tát, tùy theo hạnh nguyện thù thắng khác biệt mà mỗi vị mang một danh hiệu khác nhau, tựu trung hạnh nguyện của vị nào cũng vĩ đại rộng sâu không thể nghĩ bàn...
(Xem: 13423)
Tuy ra đời khá sớm trong dòng văn học Phật giáo, nhưng cho đến nay, điểm thú vị của độc giả khi đọc lại tập sách này là vẫn có thể nhận ra được những vấn đề quen thuộc với cuộc sống hiện nay của bản thân mình.
(Xem: 14027)
Chân lý chỉ có một, nhưng mỗi người đến với chân lý bằng một con đường khác nhau. Dù bằng con đường nào đi nữa thì đó cũng là hạnh phúc lớn nhất trong cuộc đời...
(Xem: 11793)
Đây là kết quả của 17 năm trường mà Ngài Huyền Trang đã ở tại Ấn Độ. Đi đến đâu Ngài cũng ghi lại từ khí hậu, phong thổ cho đến tập quán và nhất là những câu chuyện liên quan đến cuộc đời đức Phật...
(Xem: 11634)
Chính là nhờ vào con đường tu tập, vào sự bứng nhổ tận gốc rễ cái ảo tưởng rằng ta là một cá thể riêng biệt mà ta tìm lại được hạnh phúc chân thật sẵn có trong ta.
(Xem: 11342)
Đức Phật thuyết Pháp, chư tăng gìn giữ pháp Phật để vĩnh viễn lưu truyền làm đạo lý tế độ quần sanh. Vì thế, Phật, Pháp và Tăng là ba món báu của chúng sanh...
(Xem: 11896)
Sân chùa yên ả không một tiếng lá rơi. Mặt trời áp má lên những vòm cây xum xuê, chỉ để rớt nhiều đốm nắng rất nhỏ xuống đất, không nóng bức, không khó chịu...
(Xem: 19945)
Như những con người, tất cả chúng ta muốn an lạc hạnh phúc và tránh buồn rầu đau khổ. Trong kinh nghiệm hạn hẹp của mình, nếu chúng ta đạt đến điều này, giá trị bao la của nó có thể phát triển...
(Xem: 12398)
Ở xứ Tây Tạng, tạo hóa và dân sự dường như bảo nhau mà giữ không cho kẻ lạ bước vào! Núi cao chập chùng lên tận mây xanh có tuyết phủ...
(Xem: 13942)
Đức Phật Thích-ca Mâu-ni ra đời cách đây đã hơn 25 thế kỷ. Những gì ngài để lại cho cho chúng ta qua giáo pháp được truyền dạy khắp năm châu là vô giá...
(Xem: 13273)
Trong các vị cao tăng Trung Hoa, ngài Huyền Trang là người có công nghiệp rất lớn, đã đi khắp các nơi viếng Phật tích, những cảnh chùa lớn, quan sátnghiên cứu rất nhiều.
(Xem: 31981)
Những phương pháp và lời hướng dẫn mà Đức Phật đã đề ra giúp chúng ta có thể từng bước tiến đến một sự giác ngộ sâu xa và vượt bậc, và đó cũng là kinh nghiệm tự chúng Giác Ngộ của Đức Phật.
(Xem: 13437)
Vào một buổi chiều lười biếng ở Sydney, tôi mở Tivi và thấy chương trình Oprah Winfrey đang tranh luận về kiếp trước kiếp sau, cuộc tranh luận rất sôi nổi.
(Xem: 12758)
Đây là một cuốn nhật ký ghi chép cuộc hành trình đi về Ấn Độ để học đạo. Tác giả nhân khi chùa Văn Thù Sư Lợi tổ chức chuyến đi hành hương các Phật tích tại Ấn đã tháp tùng theo...
(Xem: 13333)
Sách gồm những lời phát biểu của Đức Đạt-Lai Lạt-Ma về Phật giáo và vài vấn đề liên quan đến Phật giáo, chọn lọc từ các bài diễn văn, phỏng vấn, các buổi thuyết giảng và các sách của Đức Đạt-Lai Lạt-ma.
(Xem: 11905)
Trời bên này đã thật sự vào thu rồi đó! Buổi chiều, con đường về nhà hai bên rừng có ngàn lá đổi sang màu trái chín, đẹp kỳ diệu.
(Xem: 21870)
Ni sư Ayya Khema viết quyển tự truyện này không vì mục đích văn chương, mà để chúng ta từ câu chuyện đời của Ni sư tìm được những bài học giá trị về con đường đạo Người đã đi qua.
(Xem: 11097)
“Đạo lý nhà Phật, là một nền đạo lý thâm trầm, siêu việt hơn hết”. Ấy là lời nói của nhiều nhà thông thái xưa nay trên hoàn võ, và cũng là một mối cảm của chúng tôi nữa.
(Xem: 12901)
Các chân sư thực hiện những kỳ công của các ngài mà không chút tự hào, với một thái độ giản dị hồn nhiên hoàn toàn như trẻ con. Các ngài biết rằng, năng lực của tình thương luôn che chở các ngài.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant