Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương 7: Phật giáoTây Tạng

20 Tháng Ba 201100:00(Xem: 6259)
Chương 7: Phật giáo ở Tây Tạng

DU LỊCH XỨ PHẬT
Tác giả: Montgomery Mc. Govern, Đoàn Trung Còn dịch, Nguyễn Minh Tiến hiệu đính

Chương 7: Phật giáoTây Tạng

Một hôm, dự định sẽ đi sớm, nhưng mặt trời đã lên mà chúng tôi vẫn còn ngủ. Khi tôi mở mắt thì thấy một người đứng nhìn tôi. Tôi nghĩ rằng bọn người tôi thuê hẳn đã đi báo quan rồi. Tôi giả vờ ngủ lại. Ban đêm tôi ngủ không mang kính, chỉ khi ban ngày tôi mang kính đen vì không muốn ai thấy rõ mặt tôi. Nhưng tôi đã sợ lầm. Người lạ mặt ấy là một kẻ qua đường, đi với con trai để đến thành Shigatsé. Đêm hôm qua hai cha con nghỉ tại Kuma. Họ ra đi rất sớm, và hừng sáng thì theo kịp chúng tôi. Thấy chúng tôi ngủ ngoài trời, nên đến gần để hỏi thăm. La-ten nói rằng bọn chúng tôi đi lạc đã lâu mà không kiếm được đường, trễ và mệt quá, không thế vào làng gần mà nghỉ, đành phải ngủ ngoài trời. Hai người liền bỏ đi. Họ nói đi ít dặm nữa thì sẽ dừng, chúng tôi có thế theo kịp họ.

Tôi đã trót hứa với những người tôi thuê rằng sẽ ngừng nghỉ trong các làng. Điều này thật là khổ sở, vì tôi sợ rằng không tới được Lhassa. Lòng nghĩ thầm rằng trải qua bao nhiêu sự nhọc nhằn gian khổ là vô ích, nhưng vẫn nuôi chút hy vọng là vào được trong kinh thành rồi hãy bị bắt cũng được.

Thình lình chúng tôi thấy một tốp người phi ngựa đến, có cầm gươm mang súng, lại dắt theo một bầy bò. Ban đầu, tôi ngỡ là quan chức. Té ra là bọn thương gia. Việc tuần phòng của chính phủ Tây Tạng còn thiếu sót lắm, cho nên người muốn đi xa thì phải hợp lại cho đông mới dám đi, có đủ cả súng ống, gươm đao. Nhiều khi những người dân trôi dạt dám đón người mà cướp của, cho nên các thương khách phải có đủ cách phòng ngừa. Họ dùng súng hiện đại, vì hồi năm 1904, chính phủ có mở ra một lò đúc súng tại Lhassa. Qua đến năm 1912, lò đúc ấy phát triển mạnh lắm, súng làm ra khéo léo như bên Nga.

Một đoạn nữa, chúng tôi gặp lại hai người khi nãy. Theo phép lịch sự, mình phải ngừng lại vài phút đặng hỏi thăm. Khi biết chúng tôi muốn qua Shigatsé viếng chùa, họ liền muốn tháp tùng cho vui. Shigatsé là quê quán của họ, họ đi thăm bà con bên Kampa-Dzong về. Họ đề nghị đi chung cũng không phải là việc lạ, vì trong xứ thường có nạn cướp giật lắm, cùng nhau đi đông mới vững lòng. Vả lại đi với họ thì mình khỏi sợ lạc đường. Bây giờ tôi chắc rằng sự giả dạng của tôi là hoàn hảo rồi. Tôi còn đang bỡ ngỡ thì Sa-tăn đã vui lòng mời họ đi chung. Vì anh ta là chủ trước mặt mọi người, tôi đành để cho anh chàng thị oai!

Đến đúng giữa trưa, mà con đường chúng tôi đi cứ lên cao mãi. Đó là một sự ít thấy ở Tây Tạng. Sau rốt, chúng tôi lên tới đỉnh đèo. Nơi đây cũng như ở nhiều đỉnh đèo khác, có một đền thờ, phía trên có treo phướn và những bài cầu nguyện viết trên giấy. Chúng tôi đem đá sỏi mà cúng dường thay cho hoa, cầu nguyện đức Phật. Rồi chúng tôi ra đi, đường xuống thấp dần dần.

Đi tới chiều đến một khu làng, cả bọn vào một cái nhà nghỉ. Và đây là lần đầu tiên mà chúng tôi nghỉ trong một nhà quán ở Tây Tạng. Cùng nhau ngồi lại ăn uống, tôi phải ngồi sau chót, ăn rồi mà ai nấy cũng còn uống rượu. Nhà trọ không chiếu, không gối, không mền, mình phải đem theo mà dùng. Sa-tăn cũng dành lấy mền tốt và yên ngựa êm để kê đầu.

Hai giờ khuya, hai người đi chung với bọn tôi đã thức dậy. Họ sữa soạn ra đi, vì người Tây Tạng quen đi sớm đặng đi cho nhiều và nghỉ tránh gió buổi chiều. Tôi cũng thức dậy, không ăn uống, không rửa mặt, theo họ mà đi. Người ta ở đây không hay tắm rửa, họ để mặt mày mình mẩy đóng dày một lớp đất và mở. Vì vậy, đến lúc tới Lhassa, tôi không tắm rửa lần nào. Người Tây Tạng nói rằng không tắm rửa thì khỏi lạnh lẽo và được phúc hậu! Có chỗ, mấy anh chàng đi cưới vợ, muốn cho cô vợ mang mặt dơ mà về nhà mình, lại còn bôi thêm bơ hoặc mỡ trừu. Trong xứ, có một câu ca dao rằng: Người Tây Tạng đen đúa ở ngoài, trong sạch bên trong, còn người ngoại quốc trắng trẻo ngoài da mà dơ nhớp trong lòng. Trăng soi rõ khắp nơi, nhưng mà trời lạnh cho đến nổi mấy ngón tay của chúng tôi buộc đồ hành lý cứ run run buộc chẳng được.

Đi tới một làng kia, chỗ này có một ngôi chùa lớn, xây dài theo triền núi. Đó là chùa Ragyimpa.

Tây Tạng, dường như người ta chọn rất kỹ những chỗ cất đền đài, làng xóm hoặc chùa chiền. Thường thì làng ở giữa, chung quanh là đồng trống, hoặc ở núp dưới chân núi. Còn chùa thì cất theo triền núi, không cất trên đỉnh mà cũng không nằm dưới chân núi. Đền đài thì ở trên chót vót, phía dưới là đồng mênh mông, có thể đứng ở trên mà trông ra tận bốn góc trời.

Khu làng mà chúng tôi sắp vào khá đông dân. Họ kéo nhau đi cúng chùa, có lẽ đang nhằm ngày lễ ở chùa.

Chùa là mấy chục tòa nhà, có khi còn đến mấy trăm, mấy ngàn. Chùa có chỗ để thờ phụng, có chỗ dạy học, có chỗ cúng lễ, có chỗ tu tập, có chỗ giảng kinh. Mỗi buổi sáng, các tu sĩ đều tập trung làm lễ trong đền thờ. Thỉnh thoảng, các vị hội lại mà nghe thuyết pháp, giảng kinh.

Chùa nằm theo triền núi, có khi vách phía ngoài thì giáp với đồng bằng, mà các dãy nhà, đền thì kéo dài với nhau theo triền núi mà lên cho chí đỉnh. Những tòa nhà trên hết là kho chứa đồ ăn. Thật là đồ sộ, trang nghiêm.

Chùa chiếm một khoảng đất rộng lớn, có vách thành bao chung quanh, có bốn cửa chính quay ra bốn hướng.

Bên trong là phòng của chư tăng, trường học. Tòa nhà lớn hơn hết là một phòng có chạm trỗ rất thanh lịch với nhiều bàn thờ, mỗi bàn đều có tượng Phật với đèn thắp bằng bơ. Cũng có chỗ để thờ các vị sư trưởng đã tịch, có kho kinh sách, có phòng làm việc, lại cũng có nhà trừng trịnghiêm phạt các sư phạm giới.

Chùa là một cảnh tấp nập, người đông đảo, có nhiều đường sá. Giữa trời là một cái sân rộng để tế lễ và cúng Phật.

Dài theo triền núi, có nhiều nhà khác cất rãi rác, xa nhau để cho các tu sĩ đến tham thiền, và phía dưới là nhà rộng để cho các thầy ở xa đến viếng có chỗ nghỉ ngơi.

Mỗi chùa đền thuộc quyền một vị đại đức Lạt-ma. Ở những ngôi chùa lớn, Lạt-ma là một vị Phật đầu thai, có quyền thế rất lớn, và có nhiều vị phó Lạt-ma theo phụng sự.

Ở đây nhà chùa cũng là một đảng phái chính trị rất mạnh. Họ binh vực sự an ninh, bảo vệ những lý lẽ của họ, dầu có cần đến sức mạnh bạo lực, họ cũng tùy tiện mà dùng. Trong chùa rất đông đảo, có hai nhà chùa lớn hơn hết gần kinh đô: chùa Sera có sáu ngàn tăng sĩ, chùa Drepung có đến mười ngàn.

Đa số các chùa đều giàu có lắm, có nhiều của cải và ruộng đất. Chùa cất toàn bằng đá to, không mấy nơi xây bằng gạch phơi dưới nắng mặt trời. Tuy vậy, cũng có một số chùa nhỏ, có vẻ nghèo nàn, đáng thương, chỉ giống một ngôi nhà nhỏ trong ấy có lèo tèo mấy vị tu sĩ.

Qua khỏi làng ấy, phải đi lên một cái đèo rất gay go, mệt nhọc. Sau đến một lữ quán đã đông khách, lại có một viên quan bên thành Kampa-Dzong. Tôi không dám vào trong, e lộ chuyện, nên phải ở ngoài tàu ngựa mà chịu cho đến sáng đặng đi tiếp.

Kế đến vùng chùa chiền đồ sộ và có danh ở xứ Nartang. Chỗ này vốn có tiếng về nghề in sách vở. Phần đông các thứ kinh sách ở Tây Tạng in tại đây chỉ để dùng trong các chùa, vì dân không biết đọc. Kinh đô cũng có nhà in, vả lại một phần kinh sách cũng in tại chùa Lạt-ma bên Bắc Kinh (Trung Quốc). Nhưng không có nhà in nào tiếng tăm bằng nhà in ở Nartang.

Xứ Tây Tạng có một nền văn chương rất phong phú. Phần đại thể là văn chương Phật học. Và người ta cũng có dịch nhiều kinh sách Ấn Độ chữ Phạn (Sanskrit) ra chữ Tây Tạng. Nhưng phần nhiều kinh sách Ấn Độ đã lạc mất, cho nên muốn hiểu rõ Phật giáo thì cần phải đọc kinh sách chữ Tây Tạng. Có nhiều quyển in riêng. Nhưng có tiếng tăm hơn hết là hai bộ kinh Kanguyr và Tengyur gồm đủ Tây Tạng Kinh.

Kinh Kanguyr gồm tất cả những bài thuyết pháp của đức Phật, được một trăm bản, có khi là 108 bản, mỗi bản là một ngàn trương, và riêng ra là 1083 quyển.

Kinh dịch chữ Phạn có khi dịch chữ Trung Quốc, toàn là lặp lại những lời thuyết pháp của Phật.

Trong các bản của bộ Kanguyr, có mười bản dạy về luật, tức là sự trật tựcách ăn ở của tu sĩ. Còn bao nhiêu là những lần thuyết pháp về đạo đứcluân lý của đức Phật.

Kinh Tengyur dịch các lời truyền dạy, là 225 bản. Kinh này nói về tinh thần và triết lý, luân lý đạo Phật, và dạy âm nhạc, văn phạm, mẹo luật hành văn, văn chương, y khoa, cũng dạy về máy móc với các khoa học bí truyền về đời Phật giáo thạnh hành thuở trước, thời Trung cổ.

Phần nhiều các bản kinh của hai bộ ấy đều viết và dịch từ thế kỷ thứ chín đến thế kỷ thứ mười bốn, nhằm thời kỳ văn họcTây Tạng được thạnh phát cực điểm. Văn chương hiện nay lại thấp kém lắm, chỉ biết bàn luận và chép tiểu sử của mấy ông Lạt-ma đã qua đời mà thôi.

Nghỉ lại xứ Nartang một giờ, chúng tôi lại ra đi. Chiều lại, nghỉ trong một nhà trọ. Sáng ra đi không lâu thì thấy dạng thành Shigatsé. Tôi bị kiết đã mệt lắm, nhưng thấy thành Shigatsé từ xa thì dường như khỏe mạnh lại ngay mà đi lại vững vàng.

Hai người đồng hành với chúng tôi ở tại một làng nhỏ dưới nhà chùa Trashi-Lumpo. Họ thành ra thân thích với mình và mời mọc mình, cho nên cả bọn đều lại nghỉ tại nhà họ trọn ngày 6 tháng 2, khỏi phải vào nhà trọ trong thành. Tôi có dịp viếng chợ búa và chùa chiền. Chính ngôi chùa Trashi-Lumpo này là nơi thường có cả ngàn khách hành hương đến chiêm bái. Lúc trước, thành Shigatsé là kinh đô của xứ Tsang (Hậu Tạng) tự trị, cũng như Lhassa là kinh đô của xứ Dbugs (Tiền Tạng) tự trị. Ở Hậu tạng, có ông Lạt-ma chùa Trashi-Lumpo cai trị như một vị vua. Bấy giờ chính phủ trung ương đã sáp nhập hai xứ tự trị ấy làm một với toàn nước Tây Tạng. Trên hết có đức Đạt-lai Lạt-ma trị vì, ngài ngự ở Lhassa. Về phần chính trị, vua ở Lhassa mạnh hơn. Còn về phần tôn giáo thì Đạt-lai Lạt-ma với vị sư trưởng Trashi ở Shigatsé đều có quyền bằng nhau. Và bởi vị sư trưởng Trashi Lama chuyên về tinh thần đạo đức, cho nên nhiều người nói rằng đức Đạt-lai Lạt-ma là chúa tể về chính trị, còn vị Trashi Lạt-ma là chúa về đạo đức. Ở Tây Tạng, người ta xem hai vị chúa tể ấy là hai đức Phật hóa sanh, đức Dalai Lama (Đạt-lai Lạt-ma) là hóa thân của đức Quán Thế Âm, còn đức Trashi-Lama, gọi theo Trung Quốc là Ban thiền Lạt-ma, là hóa thân của đức A-di-đà. Tôi được biết rằng đến xế chiều, vị sư trưởng Trashi-Lama sẽ cầm đầu tăng chúng mà đi qua các nẻo đường. Tôi lấy làm vui mừng. Tôi lẫn theo các tín đồ và được thấy tận mặt ngài. Hình dáng ngài thì hiền hậu, gương mặt có vẻ cao sang. Xem ngài êm ái dịu dàng lắm. Ngài có vẻ ôn hòa thanh tĩnh theo chức nghiệpđịa vị mình. Ở Tây Tạng, chùa của ngài là trật tự hơn hết. Đạo lý dạy rành rẽ các tiếng và mỗi năm đều có học tăng ở các nơi trong nước đến thi được cấp bằng. Trong chùa có chừng bốn, năm ngàn tăng sĩ.

Chiều hôm ấy chủ nhà đãi chúng tôi một bữa tiệc, rượu thịt ê hề, lại có cả đàn ca hát xướng. Sa-tăn và La-ten uống đã quá chén. Chúng tôi chỉ uống arak là thứ rượu mạnh, và chê-chang là thứ rượu giải khát. Hai người say, suýt nữa làm cho cả bọn phải mang họa. Ban đầu còn cãi cọ, rồi đến muốn ấu đả nhau. Ai nấy xúm lại can. Cả hai đều quên mất vai đang diễn của mình, nên quay sang hỏi tôi coi ai phải ai quấy. Tôi điếng cả người, vì sợ lộ chuyện. Nhưng vì mọi người ở đó chỉ là dân quê mùa nên không ai để lòng nghi kỵ gì hết. Cũng may là giải hòa được cả hai. Thế là xong chuyện.

Một giờ rưởi khuya, nhưng tôi chưa ngủ, cứ đinh ninh cho là những người ở đây đã hiểu hết sự tình rồi, chỉ chờ sáng là đi báo quan thôi. Cả đêm tôi không ngủ được. Đến rạng đông, tôi gọi La-ten dậy đi. Đồ đạc sắp đặt đâu đó đã xong, mới gọi Sa-tăn dậy sau chót. Anh chàng vẫn chưa tỉnh hẳn, mọi người xúm đẩy anh lên yên và phải đi một quãng xa anh chàng mới thật sự tỉnh táo.

Chúng tôi đi ngang phía dưới nhà chùa. Trời còn khuya. Nhưng cả chùa đã thức dậy công phu. Các sư tụng từ ba bốn giờ khuya. Còn mấy nhà sư lữ hành và những người đi hành hương thì vừa đi chung quanh chùa vừa quay những bánh xe cầu nguyện hoặc vừa lần chuỗi Bồ-đề. Mỗi xâu chuỗi thường là 108 hột và các tín đồ Phật giáo đều có dùng. Có người đi vòng quanh chùa, cũng có người vừa đi vừa lạy.

Bên phải là một gò lớn, nghĩa địa của cả ngàn người Trung Quốc. Ấy là dấu tích thời Trung Quốc cai trị Tây Tạng. Chỉ có vài ngôi mộ trước năm 1912. Bấy giờ ở Shigatsé còn binh lính và thương khách Trung Quốc. Còn phần đông là mồ bạc mệnh của cả ngàn người lúc Tây Tạng nổi lên hồi năm 1912 mà đòi quyền độc lập. Người Trung Quốc bị giết sạch, chỉ một số ít trốn được mà thoát về quê hương.

Ở xứ Tây Tạng, không có nghĩa địa chôn người, vì phong tục họ không chôn người chết. Một ít vị sư trưởng Lạt-ma danh tiếng được giữ xác trong hòm bằng vàng và để trong đền thờ, tín đồ thường đến chiêm ngưỡng. Hầu hết các vị sư trưởng, khi qua đời thì người ta thiêu xác. Nhưng ở Tây Tạng ít có củi, cho nên người thường ít được thiêu. Họ có cách khác để đưa người chết về cõi thọ vậy. Nghĩa địa là chỗ để thí thịt cho chim ó. Người ta đem xác ra tới đó, để lên trên một tấm đá bằng thẳng. Xác nằm sấp, người ta mới chặt ra từng khúc mà cho thú và chim ăn. Muốn cho kẻ khác chết được đầu thai vào nơi phúc hậu, người ta thích đem xác cho ó ăn. Gần nghĩa địa, có một bầy ó. Xác vừa đưa lại, mùi bay ra, giây phút ó bay lại rất nhiều. Có một nhà sư coi về cuộc tống táng này. Miếng đầu phát cho con ó lớn tuổi hơn hết trong bầy. Người ta kêu tên nó, nó mới đi ra mà lãnh phần. Chim ó đã quen rồi, nhà sư cứ kêu tên thì chúng nó đi ra từng con.

Đi đến trưa, mệt mỏi lắm, chúng tôi vào tới làng Pengma. Dự định nghỉ đêm tại đó, nhưng quán xá đã đầy khách cả, không ai cho mình nghỉ. May kiếm được một cái nhà trọ của cô kia. Cô mập mạp, chừng hơn bốn mươi, nhưng xem bộ vườn nhà còn bén mùi hoa. Cô đương có sẵn năm đức ông chồng. Nhưng không hiểu sao, cô thấy tôi coi bộ cô thích tình với tôi lắm...Ở Tây Tạng, nhiều vợ, nhiều chồng là việc thường, ít người nào một vợ một chồng. Cái tục một vợ nhiều chồng của dân gian giữ được là vì họ bảo tồn của cải chung của họ hàng. Hàng phụ nữ rất trọng cái tục ấy. Nhờ được nhiều chồng nên họ mới rộng quyền hành trong gia đình. Bên Tây Tạng, việc bỏ vợ bỏ chồng lại cũng không khó, miễn chịu tốn tiền là xong. Tốn nhiều hay ít là tùy theo người và hoàn cảnh, và cũng chiếu theo luật định trong nước.

Từ nay tôi đã đi vào một xứ mà không mấy nhà thám hiểm được bước chân vào, cho đến người bản xứ mà chính phủ trả rất đắt tiền cũng không đến tận miền nầy. Tôi rất chú ý và ghi lại tỉ mỉ những hình tích địa dư vào trong quyển sổ của tôi. Sự trá hình của tôi không cho phép tôi đo ngắm bằng khí cụ được. Tôi chờ những hôm có trăng, tôi thức khuya hơn mấy người khác mà vẻ bản đồ những xứ đã trải qua. Chỉ có cách đó mà thôi, vì ban ngày thì mình ở trước mắt đông người, còn ban đêm thì không có đèn.

Hôm nay, chúng tôi đi rất ít. Chỉ ước chừng 25 cây số thôi. Chúng tôi định rút tới, nên hôm kế, trời còn khuya vào lối hai giờ rưởi thì đã thức dậylên đường.

Chúng tôi lạc mất một khoảng xa. Sau mới kiếm được đường, thì cả bọn đều lấy làm mệt mỏi. Đi gần tới một ngôi chùa xưa. Lần nầy là lần đầu mà tôi thấy một cảnh chùa cất theo triền núi. Mình muốn vào viếng cảnh và tìm kinh sách xưa, nhưng sợ mất thì giờ, bèn đi luôn. Đến xóm Rugu, cả bọn vào nghỉ trong một nhà trọ.

Nhà không có khách lạ. Tôi để La-ten nấu đồ ăn, tôi đi thẳng lên tầng trên nằm nghỉ vì đau nhức và mệt mỏi lắm. Một lát, cô chủ nhà lên tìm chúng tôi mà kể chuyện lôi thôi trong làng.

Có than về thân phận rủi ro của vị tăng trụ trì chùa ở làng. Ông cũng nhận ông là Phật hóa sanh, nên được chọn làm chủ trong chùa, nhưng chờ đến lớn sẽ giao quyền cho ông. Lúc ông còn nhỏ, một lão tăng cai trị thế cho ông. Bấy giờ đức Phật sống đã đúng tuổi trưởng thành và đòi quyền lại, nhưng lão tăng không chịu nhường. Hai bên tranh nhau kịch liệt. Lão kia mạnh thế hơn, nhà sư Phật hóa đành trả chức và ra khỏi chùa. Tôi lấy làm ngạc nhiên, vì một nhà sư xưng là Phật tái thế mà lại phải trả chức, nên tôi hỏi kỹ cô ta về công việc lôi thôi ấy.

Cô đáp rằng nhà sư ấy nhận qua cai quản một cảnh chùa khác. Ông có nhất định rằng chừng qua đời ông sẽ đầu thai lại làm chủ chùa ấy, chớ không trở về chùa đã xảy ra việc lôi thôi kia (!)

Nghỉ được chừng một giờ, chúng tôi lại ra đi. Lối một giờ trưa, trời nắng lắm, nóng hơn cả nước sôi, rờ một vật gì ngoài trời thì liền phỏng tay ngay. Thế mà trong bóng mát, lạnh hơn nước đá, lạnh như ban đêm. Ở Tây Tạng thật lạ hơn các nơi. Có nhiều khi trời lạnh đến ba chục độ âm về đêm và nóng hơn độ sôi của nước mười hoặc hai mươi độ về trưa. Giữa trưa, trong nhà nấu trà rồi để một chút, trà thành ra nước đá. Mình thử để một chân trong mát, một chân ngoài nắng, thì một chân bị lạnh như trong nước đá, còn chân kia bị nóng như vào nước sôi.

Bấy giờ tôi yếu lắm, đi không nổi, vì bệnh kiết càng ngày càng nặng thêm làm cho mệt mỏiyếu đuối vô cùng. Những người theo tôi rót thứ rượu mạnh arak đưa tôi uống. Giữa đường không có thuốc gì khác, đành uống rượu cầu may. Rượu uống vô khỏi cổ thì nó lộn nhào trong ruột tôi, dường như bị lửa đốt bên trong nên được thêm sức mạnh chạy theo kịp mọi người.

Sa-tăn đi tới trước, thuê một nhà trọ tốt đẹp, có gối nệm chỉnh tề. Trong nhà có hai bộ ván nhỏ để cho khách sang. Đã có một ông sư nghỉ rồi, ông này đi từ Lhassa đến Shigatsé. Sa-tăn qua choán bộ ván bên kia. Còn mình chút phận nhỏ nhen không mong hưởng được.

Ông sư thức dậy, bèn đọc kinh. Có một bát trà để trước mặt, hễ ông đọc kinh năm phút thì uống một hớp trà. Xong rồi thì ông đọc kinh cầu phước cho chúng tôi. Chúng tôi cúng dường bằng tiền. Bên Tây Tạng đọc kinh là được phước nhiều lắm. Bởi bình dân không biết chữ cho nên nhờ các nhà tu đọc kinh hộ cho. Tụng kinh cũng là một nguồn lợi chính của người tu.

Thầy tu ở Tây Tạng được nhiều mối lợi. Những nhà sang trọng có việc tang tế thì thường thỉnh quý thầy đến mà tụng kinh. Dầu ở chùa, dầu ở ngoài, của tiền châu cấp không có hạn định, tùy theo hoàn cảnh. Có thầy con nhà giàu có thì được cha mẹ trông nom và cho ăn học. Lớn lên đã có của cải gia truyền, lại được người ta cúng dường những khi thầy cầu nguyện cho người ta. Mấy nhà sư trưởng lên đến bậc cùng tột là trưởng lão Ge-long, được bá tánh tôn trọng lắm. Trong các việc gả cưới tế lễ, họ đều nhờ vào nhà sư để cầu nguyệnxem xét giùm. Có đau đớn, họ cũng nhờ nhà sư tụng niệm mà trị cho lành mạnh. Có sanh đẻ, họ cũng thỉnh nhà sư đến để xem vận mạng của đứa trẻ mới lọt lòng.

Người ta cũng nhờ các nhà sư bói quẻ và đoán việc tương lai. Có chùa cũng cho vay mà lấy tiền lời. Lại đến khi người ta làm mùa màng xong thì nhà sư đi từng nhà tụng kinh cầu phước, thì họ chia bớt cho một phần, nhiều ít là tùy theo phẩm bậc của nhà sư.

Chùa chiền phần đông là giàu có lắm, nhất là huê lợi đất đai chung quanh chùa. Mấy người mướn ruộng được truyền tử lưu tôn, khỏi đóng thuế cho nhà nước, mùa màng thì chia lại cho chùa mỗi năm một phần ba. Nhà chùa lãnh lấy huê lợi, để dùng vào ba việc: sửa sang chùa chiền, mua sắm các đồ cần thiết trong việc lễ cúng, mua đồ vật dụng cho chùa như đồ ăn uống và dầu đèn để thắp ngày thường và những hôm lễ cúng tại chùa. Nhà sư bên Tây Tạng khỏi nạp sưu thuế chi cả, và đi đâu cũng được bá tánh nâng đỡ, ủng hộ cho mọi bề.

Ông sư đọc kinh cầu nguyện cho chúng tôi trót hai chục phút đồng hồ. Chúng tôi cúng cho ông hai đồng trang kas. Khi ông đi ra, trời đã khuya. Trong nhà nghỉ chỉ còn có bọn tôi thôi. Tôi lấy làm vui vì không còn ai lạ. Nhưng Sa-tăn coi bộ khoái hơn, vì hắn thừa dịp này mà hăm dọa tôi. Hắn thấy tôi quyết tình muốn đến Lhassa, nên nghĩ rằng muốn đòi bao nhiêu tôi cũng phải theo ý hắn. Quả thật, thà là tôi ép bụng chịu thiệt, còn hơn là để cho công việc bất thành. Hắn đòi tôi một ngàn ru bi, và đe rằng nếu tôi không nghe theo thì hắn sẽ tố cáo với nhà chức trách. Tôi giận muốn đánh hắn cho chết. Nhưng nghĩ lại vô ích, bèn hứa rằng nếu đi tới Lhassa thì tôi sẽ thưởng cho hai ngàn ru bi chứ không chỉ một ngàn. Thật buồn cười là con số này thật ra còn ít hơn số tiền mà tôi đã định cho hắn. Tôi lại bảo hắn viết cho tôi mấy chữ, nhưng hắn cũng khờ khạo mà nghe theo. Liền đó, tôi cho hắn hay rằng, nếu giữa đường tôi bị bắt, hoặc là đến Lhassa hắn làm cho tôi bị trục xuất, thì tới Ấn Độ tôi sẽ làm cho hắn phải đi tù về tội hăm dọa người.

Sáng hôm sau lại ra đi. Mười một giờ trưa đến làng Namu. Giữa làng có một nhà chùa lớn. Vài vị tăng đang đi dạo trên đường, có nhiều vị đứng nhìn chúng tôi. Về sau, tôi được biết rằng chùa này nổi tiếng là phản động. Có mấy ông sư đi ngay lại mà hỏi chúng tôi. Vì thấy chúng tôi mặc đồ xứ Sikkim khác hơn đồ xứ Tây Tạng miền trung, cho nên họ có lòng nghi.

Vì mới khi hôm bị Sa-tăn hăm dọa, nên bây giờ tôi sợ hắn khai ra lắm. Nhưng hắn đã vì tiền mà định đưa tôi tới Lhassa thì chắc không dại gì mà khai ra đâu. Hắn trả lời sơ qua ít tiếng thì họ cho chúng tôi đi. Coi bộ họ chưa an lòng nên thấy Diogène đi sau chót, họ kéo anh này lại rồi hỏi chung về cả bọn chúng tôi. Anh cũng giữ được kín nhẹm, trả lời khờ khạo không ăn nhập gì. Họ bèn buông cho đi. Ông sư gọi chúng tôi lại có lẽ giữ chức Tcho-Trimpa trong chùa, một chức vụ lo gìn giữ trật tự trong chùa và cả khu vực chung quanh.

Chùa lớn có một số tăng chúngchức phận, mỗi nơi lại khác nhau. Nhưng về các ngôi chùa Gelupa là phái tu chính thức của chính phủ Tây Tạng (các sư thuộc phái này đội mũ màu vàng) thì trật tự tổ chức theo như sau đây:

Trên hết, có sư trưởng trụ trì trong chùa là một vị Phật đầu thai, chức danh ngài là Trũ-ku, được tôn lên chức này từ hồi còn nhỏ, hoặc là giáo hội Shigatsé hay Lhassa phái ngài qua cai trị. Phần tài chính thì có chức Tchandzo nắm giữ với chức Tchinyer làm trị sự. Chức Lob-pon là đốc học, dạy tăng và dạy những lớp cao. Chức Tcho-Trimpa tiếp sức với vị đốc học, và lo giữ gìn trật tự trị an. Hai ông này có nhiều thầy tăng khác phụ giúp.

Điều hành sinh hoạt thường ngày và ngày lễ thì có chức vị Umdzé là người cao niên hơn hết trong chùa, với một vị Kunyer lo về quần áo và vị Tchama lo về trà nước. Lại cũng có nhiều tăng sĩ khác làm những phận sự đặc biệt, như mấy các sư lương y trị bệnh bằng dược thảo, các sư trị bệnh bằng bùa chú, các sư họa sĩ vẽ hình tượng trong các đền, các sư tính tiền chép sổ, các sư đi thu gom hoa lợi, và cũng có các sư lo nấu ăn.

Tuy muốn dừng trong làng để dùng bữa và nghỉ trưa. Nhưng mấy vị sư đó làm cho tôi sợ quá, nên cùng nhau đi luôn. Một giờ sau, đến một nhà trọ nhằm chỗ vắng, cả bọn bèn vào nghỉ ngơi, khỏi lo sợ chi cả.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14851)
Ngài Nam Tuyền nói: “Tâm bình thường là đạo.” Chư vị Tổ sư dùng đến vô số phương tiện cũng không ngoài việc dẫn dắt người học đạt đến tâm bình thường này.
(Xem: 17777)
Các phần lý thuyếtthực hành chứa đựng trong sách này có tác dụng dẫn dắt tâm chúng ta đến chỗ thấu hiểu sâu xa hơn về sự sống và chết, về vô thường và khổ đau.
(Xem: 18207)
Với người chịu dày công tìm hiểu, đạo lý không có gì là bí ẩn; với người biết suy xét, hiểu được đạo lý không phải là khó khăn.
(Xem: 14976)
Khi chúng tôi mới gặp nhau, tôi là một thành viên tích cực của Câu lạc bộ Lotos, nhưng từ khi bắt tay vào việc soạn sách “Vén màn Isis” tôi đã chấm dứt hẳn mọi liên hệ với các hội hè đình đám...
(Xem: 13171)
Quyển hồi ký này của tu sĩ Yogananda có một giá trị độc đáo vì nó là một trong những tác phẩm nói về các bậc thánh nhân, hiền triết Ấn Độ.
(Xem: 21132)
Trong lúc thiền quán, tôi tập trung suy nghĩ rất nhiều những lời thầy dạy. Tôi bừng tỉnh nhận ra quả thật điều mà tôi khổ công tìm kiếm không phải là việc say mê dành trọn thời gian cho việc tu tập thiền định.
(Xem: 32553)
Cho đến nay Phật giáo đã tồn tại hơn 2.500 năm, và trong suốt thời kỳ này, Phật giáo đã trải qua những thay đổi sâu xa và cơ bản. Để thuận tiện trong việc xem xét, lịch sử Phật giáo có thể được tạm chia thành bốn thời kỳ.
(Xem: 15296)
Những ảnh hưởng tích cực của thiền đối với cuộc sống con người không hề bị giới hạn bởi bất cứ yếu tố khác biệt nào, cho dù đó là chủng tộc, giai cấp, tuổi tác hay giới tính...
(Xem: 12340)
Trong chuyến du hành sang Ai Cập, tác giả đã dày công thâu thập được nhiều kinh nghiệm huyền linh và thần bí. Ngoài ra tác giả còn trình bày những khía cạnh bí ẩn khác của xứ Ai Cập...
(Xem: 12829)
Trải qua dòng lịch sử, nhân loại đã thực hiện được nhiều kỳ công vĩ đại, nhưng con người vẫn phải bóp trán suy nghĩ để tìm hiểu ý nghĩanguyên nhân của sự đau khổ...
(Xem: 27477)
Tám mươi tư vị đại sư trong tác phẩm này là những vị tổ sư của phái Đại thủ ấn truyền thống, sống trong thời kỳ từ thế kỷ thứ 8 đến thế kỷ 12.
(Xem: 12130)
Đã biết nhân quả theo nhau như bóng với hình, nên kể từ đây chúng ta hãy phát tâm dũng mãnh làm mới lại mình, sám hối, ăn năn những sai lầm đã phạm trước kia.
(Xem: 34914)
Khi đức Phật còn trụ thế, ngài từng nói với tôn giả A-nan rằng: “Này A-nan! Sau khi ta tịch rồi, giới luật chính là thầy của các ngươi đó. Giới luật sẽ bảo vệnâng đỡ cho các ngươi.”
(Xem: 17728)
Tập truyện này kể lại nhiều câu chuyện mang tính giáo dục cao, có thể giúp dạy bảo, khuyên răn nhằm bồi dưỡng nhân cách, đưa con người hướng đến Chân, Thiện, Mỹ...
(Xem: 11804)
Mùa xuân đồng nghĩa với mùa hoa có từ khi thiên địa mới mở. Nó có thật mà như mơ, trong trẻo thanh cao, vô tư bên cạnh cõi Ta-bà phiền não đầy những giá trị giả.
(Xem: 12640)
Trước cuộc du hành đầu tiên của tôi, phương Đông đã xâm chiếm tâm hồn tôi với một sự hấp dẫn vô cùng mạnh mẽ. Về sau, tôi quay sang việc khảo cứu các kinh điển của Á châu...
(Xem: 14563)
Trong sách này, tác giả đã diễn tả cả một nền văn minh truyền thống dưới cặp mắt của một người bản xứ nhìn vào mọi khía cạnh sinh hoạt, vật chấttâm linh, của đất nước Tây Tạng...
(Xem: 32450)
"BÀI HỌC NGÀN VÀNG" là câu chuyện đã có từ xưa, một câu chuyện vô cùng thâm thúy và bổ ích cho thế đạo nhân tâm.
(Xem: 19452)
Tu Là Chuyển Nghiệp - Tuyển tập 7 bài viết về "nghiệp" trong Phật giáo - HT Thích Thanh Từ
(Xem: 12966)
Tập sách này là một sự tập hợp các bài biên khảo đã được đăng trong các tạp chí Phật giáo. Các bài: Triết lý quanh đèn, Triết lý chiếc nôi, Cái nhìn...
(Xem: 14081)
Nay nhìn lại, tôi nhận ra nếp sống nhà chùa là nếp sống tình thươngtrí tuệ. Người trong thơ đã mở nguồn cho tôi vào đạo và mở nguồn cảm xúc cho tôi bây giờ.
(Xem: 14264)
Chỉ khi nào làm mọi việc mà không thấy có mình làm, không thấy có chúng sinh được cứu độ, không thấy mình và chúng sinh có sự khác biệt đó mới là vô ngã.
(Xem: 15310)
Anh đã từng xót thương, như tự xót thương anh thuở nào thơ dại, khi bắt gặp trên đường những nét nhăn mà móng vuốt của cuộc đời đã cày trên trán ai như trán em bây giờ...
(Xem: 14135)
...ý nghĩa của đời sống phải được tìm thấy ngay trong những giây phút quý giá mà ta đang còn được sống. Đó là niềm hạnh phúc khi chúng ta được thương yêu...
(Xem: 14119)
Những gì sẽ được trình bày trong tập sách mỏng này thật ra không có gì mới lạ, mà chính là những gì đã từng được đức Phật Thích-ca Mâu-ni giảng dạy cách đây hơn 25 thế kỷ!
(Xem: 11951)
Yêu thương là cội nguồn của hạnh phúc, thậm chí trong một chừng mực nào đó còn có thể nói rằng yêu thương chính là hạnh phúc, như hai mặt của một vấn đề không chia tách.
(Xem: 53142)
Thiền như một dòng suối mát, mà mỗi chúng ta đều là những người đang mang trong mình cơn khát cháy bỏng tự ngàn đời.
(Xem: 11651)
Người viết cũng tin tưởng là tất cả chúng ta đều có thể thực hiện việc phóng sinh mỗi ngày trong cuộc sống. Và điều đó có thể mang lại những kết quả rất kỳ diệu...
(Xem: 13916)
Tập sách vừa là một trang đạo, vừa là một trang đời đẫm đầy mọi thử thách, chông gai mà Thầy đã từng trải, đã đi qua trong suốt cuộc hành trình của tháng năm tuổi trẻ.
(Xem: 13809)
Mỗi người chúng ta thường chỉ nhận biết được một số những khía cạnh nhất định nào đó mà chúng ta cho là khổ đau, và vẫn không ngừng đắm say trong vô số những niềm vui nhỏ nhặt...
(Xem: 20682)
Phật giáo luôn xem vấn đề sống chết là điều quan trọng nhất cần phải được nhận hiểu một cách thấu đáo. Đây là điểm tương đồng giữa tất cả các tông phái khác nhau trong Phật giáo.
(Xem: 14309)
Quyển sách này là sáu nói chuyện Jiddu Krishnamurti trình bày tại những Trường đại học Ấn độ và những Học viện Công Nghệ Ấn độ giữa năm 1969 và năm 1984.
(Xem: 13428)
Thật là một nghịch lý khi hành tinh này ngày càng có đông người sinh sống hơn nhưng mối quan hệ giữa người với người lại ngày càng trở nên xa cách, nhợt nhạt hơn.
(Xem: 13607)
Phật Giáo hiện hữu trên thế gian nầy từ vô lượng kiếp và Phật Giáo đã được hình thành bằng hình thức khế lý khế cơ qua hơn 2.500 năm lịch sử trên quả địa cầu này...
(Xem: 34146)
Chúng ta đang rất cần chú ý đến những mối quan hệ gia đình trong môi trường mới, nhằm có thể duy trì và phát triển được hạnh phúc ngay cả trong những điều kiện khó khăn nhất mà cuộc sống đòi hỏi.
(Xem: 16207)
"Phật Pháp Cho Sinh viên" là kết quả của hai buổi nói chuyện đạo của Ajahn Buddhadàsa vào tháng Giêng năm 1966 với các sinh viên viện Ðại học Thammasat ở Bangkok.
(Xem: 14069)
Quyển sách "Nguồn an lạc" này, được biên tập từ các bài giảng phổ thông của Hòa thượng Viện trưởng tại Thiền viện Trúc Lâm và các Thiền viện trực thuộc, cũng như đạo tràng các nơi.
(Xem: 14196)
Bóng trúc bên thềm là tập hợp những trang tùy bút mà tôi đã trải lòng trong những năm gần đây. Chung quy không ngoài những chuyện thường ngày của cuộc sống...
(Xem: 13549)
Yêu thương và được yêu thươnghai mặt không tách rời nhau của cùng một vấn đề. Khi bạn yêu thương, bạn cũng đồng thời nhận được sự thương yêu.
(Xem: 15892)
Phật pháp quảng đại vô biên, bình đẳng viên dung, có tác dụng thông trên suốt dưới. Phương thuốc ấy là: Người người phải bình tâm tỉnh trí, an lạc không ở bên ngoài...
(Xem: 13500)
Phật học và Y học là một trong những loạt bài nói chuyện cùng các giáo sư và bác sĩ của bác sĩ Quách Huệ Trân tại Học Viện Y Dược Trung Quốc, được cư sĩ Lý Nghi Linh ghi lại thành sách.
(Xem: 22948)
ĐẠO PHẬT VỚI CON NGƯỜI, cống hiến con người một phương châm giải thoát chân thật, đem lại sự ích lợi cho mình, cho người và kiến tạo một nền tảng hòa bình vĩnh viễn...
(Xem: 27723)
Khi đối diện với việc cầu nguyện, chúng ta thường có nhiều nghi vấn. Nghi vấn đầu tiên là cầu nguyện có kết quả không?
(Xem: 13892)
Đối với Phật tử Việt Nam chúng ta nhất là những người theo truyền thống đại thừa, danh từ Phật hay “Bụt” đã trở thành một khái niệm vừa thiêng liêng vừa gần gũi.
(Xem: 24933)
Thuở xưa, khi Đức Phật thuyết giảng cho một vị nào đó, một cư sĩ hay một bậc xuất gia, chỉ với một thời pháp rất ngắn, thậm chí đôi khi chỉ vài câu kệ, mà vị đó, hoặc là đắc pháp nhãn...
(Xem: 13942)
Đức Phật dạy chúng ta phải giải quyết những vấn đề trong cuộc sống qua sự hiểu biết rõ ràng về bốn sự thật trong đời sống: Khổ, nguyên nhân của khổ, làm thế nào diệt khổcách sống an vui hạnh phúc...
(Xem: 31310)
Ít người muốn đối diện với sự thật là các ý nghĩ và cảm nhận của họ đều vô thường. Tuy nhiên, một khi đã biết được như thế rồi thì ít ai có thể phủ nhận sức mạnh của sự thật này...
(Xem: 13858)
Được thân người và gặp được Phật Pháp mà để cho thời gian luống qua vô ích thì quả là uổng cho một kiếp người. Xin hãy lắng nghe và phụng hành theo những lời khuyên dạy của Đức Từ Phụ...
(Xem: 15556)
Hỡi những ai thực tâm muốn giác ngộ để tu trì giải thoát, hãy vững niềm tin: Phật là Phật đã thành, chúng ta là Phật sẽ thành. Tin như vậy sẽ đưa ta đến chỗ có tâm niệm chân chánh...
(Xem: 14956)
Tập sách bao gồm những bài thuyết pháp thật phong phúthiết thực của Giảng sư LOKANATHA gốc người Ý, nguyên là tín đồ Thiên Chúa Giáo La Mã, bỗng giác ngộ quay về quy ngưỡng Phật Ðạo...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant