Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

5. Ông nhẫn, ông không nhẫn

23 Tháng Ba 201100:00(Xem: 5638)
5. Ông nhẫn, ông không nhẫn

TAM BẢO VĂN CHƯƠNG
Đoàn Trung Còn biên soạn, Nguyễn Minh Tiến hiệu đính

I. CÁC THỂ CA (kệ, hát nói, lục bát, song thất lục bát)

ÔNG NHẪN, ÔNG KHÔNG NHẪN

Tú Xương

Bài này tuy là dịch từ chữ Hán dịch ra, song xem cho kỹ độc giả sẽ thấy có cái phong vị của những truyện truyền kỳ Thiên Trúc. Như vậy rất có thể trước đây gốc là chữ Phạn, do các nhà truyền giáo đưa sang Trung Quốc, rồi sau mới được dịch sang chữ Hán.

Đức nhẫn là một đức lớn trong đạo Phật, có thể giúp người đạt đến chỗ giải thoát.

Trời thu hiu hắt gió vàng,
Rặng lau hoa nở, đôi hàng lá thưa.
Thơ đường nhân lúc hứng thừa,
Vui lòng mượn bút lọc lừa ngâm nga...

Thấy trong lục cũ truyền ra,
Thiệt, hư chưa tỏ, gần xa chưa tường.
Tiếc là tựa lối theo đường,
Cứ trong tích trước rõ ràng chép chơi:

Tích xưa nghe có một người,
Gia tư điền sản phỏng vời thích trung.
Một ông đức hạnh lạ lùng,
Chẳng hay làm sự ngoài vòng phi vi.

Tánh hằng nhẫn nhục từ bi,
Thiệt hơn chẳng chút tranh thi cùng người.
Dù ai cả tiếng dữ lời,
Làm thinh, gãi tóc, đắp tai ra về.

Một ông thì lại hay nề,
Nết thì cả giận, nào hề nhịn ai.
Cùng lòng chánh trực trời trai,
Đã lòng hỷ xả, hiệp tài nở nang.

Cùng nhau kết bạn đá vàng,
Cùng đi làm phúc Thập phương Ta-bà,
Chẳng nề chùa quán gần xa,
Thấy đâu dột nát cửa nhà, hưng công.

Hai người đi đến ba đông,
Bãi đâu xảy thấy non thung lạ dường.
Đỉnh cao nghi ngút nghìn hàng,
Dợn xanh ấy đá, chói vàng nọ hoa.
Huệ lan đôi khóm rườm rà,
Hóa long trúc đã thiệt da điểm mồi.
Suối đàn cuộn nước cùng vui,
Chim rừng làm tổ tranh mồi líu lo.

Rồng nam phun nước thập thò,
Thông thì thổi gió ỳ ù cheo leo.
Một chùa bỗng thấy bên đèo,
Bốn bề đá chổm rồng leo ngất tường.

Trong chùa chói lói chữ vàng,
San hô, hổ phách cột giường khảm quanh.
Bốn bề cảnh vật khoe thanh,
Muôn gian ngàn nóc thênh thênh rộng dài.

Nhìn xem chẳng khác Bồng Lai,
Đã nên một cảnh trần ai tếch chừng.
Hai người đến đấy lòng mừng,
Vào chùa lễ Phật, đều chưng tu hành,

Tháng ngày náu tiếng ẩn danh,
Gió xuân đỡ quạt, trăng thanh thay đèn.
Khát thì uống nước cam tuyền,
Đói thì lại nếm đào tiên qua thì.

Niệm kinh, lắng kệ đòi khi,
Vui niềm Phật pháp sớm khuya chẳng nài.
Biết rằng xuân tới hoa khai;
Thu sang lá rụng, chẳng sai tơ hào.

Tháng ngày luống những ước ao,
Vui bề đạo đức, biết nào Kỷ, Canh
Hai ông tu đấy đã đành,
Cùng khuyên nhau ở lòng lành mới nên.

Ở lâu cầm thú liền quen,
Con vào hái quả, con lên dâng trà.
Chúng cầm đã ở chiền già,
Lòng ông Năng Nhẫn hiền hòa yêu đang.

Cho ăn, cho uống, giữ giàng,
Rác thì quét tước, sửa sang một mình.
Ra vào mặc chúng tung hoành,
Chẳng hề nặng đến chúng sanh một lời.
Dù lòng chúng vật chơi bời,
Đã trong Thượng điện lại ngoài Tam quan.

Một ông thấy chúng lăng loàn,
Khôn chừa nết cũ, tức gan thay là.
Ngày ngày đánh đánh khua ra,
Mắng rằng rác ráy chiền già vì bay.
Cũng nhiều phải cái quá tay,
Lòng ông Năng Nhẫn thương thay muôn phần!

Khuyên ông Bất Nhẫn đòi danh:
Kẻ đà làm phúc xả thân tu hành,
Còn làm những sự chẳng lành,
Hư công vả lại uổng danh thay là.

Chẳng bằng nhẫn nhục hiền hòa,
Từ bi hỷ xả, vốn ta ghi lòng.
Để cho dày thửa âm công
Thân sau lại sửa hóa rồng chút chăng.

Ấy là lời thiệt trình rằng,
Xin đừng làm sự lăng nhăng nữa là.
Cùng nhau đều trở lại nhà,
Sớm kinh, tối kệ xướng hòa chẳng khuây.

Bạn cùng non nước, cỏ cây,
Hay đâu trời đất vần xây mấy đời.
Đạo cao, đức rộng tót vời,
Đã mười lần hóa lại mười lần sinh.

Đều cùng được phép tiến linh,
Lốt phàm lột khỏi nhẹ mình lưng lưng.
Ăn chăng không, ý cũng đừng,
Chẳng hề đói khát, rửng rưng tháng ngày.

Ông kia nết cũ chưa khuây,
Thấy loài cầm thú còn hay giận cùng.
Một hôm Chư Phật hội đồng,
Phán rằng hai ấy tu công đã chầy.

Đạo nhân đức trọng cao dày,
Song còn người nọ chưa hay nhẫn lòng.
Âu là người ấy hãy không,
Hẳn cho Năng Nhẫn lên thông tòa vàng.

Bàn xong, biện bạch tỏ tường,
Long xa, phụng liễn nghênh ngang tống hoàn.
Lũ thì bảo cái tràng phan,
Ngất trời rợp bóng dù tàn bể sen.

Kiệu vào đến trước cửa chiền,
Rước ông Năng Nhẫn vào đền lưu ly.
Phong làm Bồ Tát ngự vì,
Ông kia thấy vậy lòng thì buồn thay!

Song le tu Đạo đã chầy,
Đằng vân giá võ cũng hay phép thần.
Tức thì nương gió dời chân,
Xăm xăm thẳng bước tới sân Phật đài.

Bước vào quỳ dưới ngọc giai,
Khấu đầu bèn kể mọi lời khúc nôi.
Rằng tôi từ thuở ra đời,
Cùng ông Năng Nhẫn hai người kết thân.

Đi làm phúc khắp xa gần,
Ba đông bèn mới mai chân cửa Chiền.
Hằng từ đạo đức tăng thiền,
Vui bề Phật pháp những quên cửa nhà.

Lẽ thì ơn Phật lòng xa,
Anh em cùng được một tòa vinh phong.
Cớ sao kẻ được, người không?
Dám xin xem xét cho cùng kẻo oan.

Phật rằng: Sự đã luận bàn
Hai người tu đạo đã ngoan, đã chầy.
Song ngươi nhẫn nhục chưa hay,
Cho nên chưa được sánh bầy tòa sen.

Bạch rằng: Tội ấy đã nên,
Bây giờ Phật phán ở đền làm sao?
Hay là tu lại thế nào.
Mà cho được dự bước vào lưu ly?

Phán rằng: Nào có khó gì,
Non kia tụ điểu gần thì chẳng xa.
Gìn lòng nhẫn nhục thì là,
Chẳng là nhẫn nhục, thì ta trở về.

Lên non đứng đấy một bề,
Ba năm ba tháng chớ hề giận ai,
Thì cho vào chốn Phật đài.
Vâng lời Phật phán bèn dời chân ra.

Cách non phỏng hãy còn xa,
Tiếng chim eo óc nghe đà ỏi tai.
Xăm xăm bước đến nửa vời,
Trèo lên đỉnh núi đứng nơi thạch bàn.

Dãi dầu nắng sém mưa chan,
Ước mong thấu đến Tam quan Phật đài.
Tân toan khổ ải chẳng nài,
Cứ lời Phật phán dám sai chút nào.

Chim đều đậu khắp vai, đầu,
Tổ làm rừng rực trước sau trọn ngày.
Chim con theo mẹ tập bay,
Vẫy vùng nhảy nhót thâu ngày gọi nhau.

Dậy đường chuyển động trên đầu,
Cứ lời Phật phán dễ hầu dám xao.
Đêm ngày luống những ước ao,
Đốt tay tính sắp lý đào khai hoa.

Đến tuần trăng mãn, trăng tà,
Đành hay tháng trọn, biết là niên chung.
Ra ngoài hai tháng ba đông,
Mười lăm ngày nữa thì công hoàn thành.

Ở lành gặp sự chẳng lành,
Đôi chim chinh chích trên cành bảo nhau.
Ta đừng tha rác chi lâu,
Kìa kìa đã sẵn trên đầu người kia.

Cùng nhau ríu rít bay về,
Liền làm tổ bé ở kề bên tai.
Nhỏ nhen chẳng dám gần ai,
Vợ chồng đẻ ấp hôm mai một mình.
Bốn con tốt tốt sơ sinh,
Chồng liền dặn vợ tâm tình khúc nôi:
Giữ con chẳng khá khi nguôi,
Để anh sẽ liệu kiếm mồi cho ăn.

Bay xuôi, bay ngược xa gần,
Chẳng hề có được nghỉ chân ở nhà.
Hết gần lại dạo miền xa,
Kiếm cho con trẻ, đàn bà đủ no.

Một mình hầu mượn ai lo,
Tối về thì lại dặn dò, hỏi han.
Sớm thì chắp cánh băng ngàn,
Thương con, xót vợ, tân toan chẳng nài!

Đến tuần con đã ra ngoài,
Nể chồng, chim cái ngỏ lời vân vi.
Rằng: Anh tối lại, sớm đi,
Nhọc nhằn mưa nắng, thiếp thì ở không.

Rày con cũng đã đủ lông,
Nghỉ chân, thiếp sẽ cất công đỡ chàng.
Chim đực rằng: Chớ nói quàng,
Em còn non nớt, nắng sương phong hàn.
Nào anh có quản lầm than,
Vợ lành, con lớn thì an dạ này.
Phỏng đà qua được ba ngày,
Tối về, chim cái lại nài xin đi.

Thấy lòng vợ đã nằn nì,
Nhủ rằng: Mặc ý, anh thì giữ con.
Nói rồi, chim cái liền bon,
Lạ lùng phong thổ, nước non biết gì.

Tìm mồi bay lại, bay đi,
Vẩn vơ chẳng biết rằng thì ở đâu.
Bay quanh đã một ngày thâu,
Chẳng hề có một cái sâu, cái ruồi.

Non đoài hầu lặn mặt trời,
Chồng mong, con đói, dỗ thôi lại mòng.
Dường như lửa chất bên lòng,
Thương con vả lại sợ chồng giận chăng.

Khi trời tối đến liên băng,
Thấy hoa sen nở, nhện giăng tổ ngoài.
Lòng mừng bay thẳng đến nơi,
Nhện kinh thoắt đã chạy dời vào trong.

Đuổi theo vào giữa liên phòng,
Mãi ham bắt nhện mơ mòng biết chi.
Hay đâu sen cũng như quỳ,
Âm thì hợp lại, dương thì nở ra.

Yếu thơ, con trẻ đàn bà,
Phải chờ bạch đán khai hoa mới về.
Đến nhà con khóc như ri,
Chồng thì chẳng có ủ ê một điều.

Tấc lòng lo sợ trăm chiều,
Dỗ con thôi mới đánh liều tới nơi.
Chồng rằng: Đã thỏa sự đời,
Lênh đênh thuyền bách sóng khơi mặc dù.

Hẹn hò đã phỉ sở cầu,
Một mình ai dễ biết đâu là chừng!
Chạnh lòng chim cái ngập ngừng,
Than thân, rằng: Khế lộn gừng chua cay!

Bây giờ sự đã dường này,
Lạy chồng thôi lại bày ngay mọi lời:
Thấy chàng chen chúc ngược xuôi.
Xót chàng thiếp phải bước dời chân ra.
Song le thơ yếu đàn bà,
Vả thêm non nước gần xa lạ lùng.
Trọn ngày mồi hãy còn không,
Tối về thấy nhện liên phòng giăng tơ.

Mãi tham bắt nhện nào ngờ,
Khí âm hòa hợp thì vừa khôn ra.
Trước sau sự đã thật thà,
Há rằng thiếp dám sai ngoa điều nào.

Chim đực rằng: Sự lạ sao?
Hoa đâu lại có hợp vào nở ra.
Thôi thôi hãy trở về nhà,
Sự đà có đấy ắt là khỏi dôi.

Hôm nay đã được nhiều mồi,
Con thì no dạ đều ngồi, khỏi lo.
Thấy chồng mai mỉa nhỏ to,
Dẫu ngay ai kẻ hỏi cho được tường.

Tấc lòng thảm thiết tư lương,
Mặt hoa thêm đượm hai hàng mưa sa.
Nói thôi bèn trở về nhà,
Đỗ cành, chim đực thiết tha một mình.

Giận sao vợ ở bạc tình,
Bèn đem hát thử hoa tình câu chơi.
Hát rằng: Gần bén, xa rời,
Một chăn đắp được mấy người tri âm?

Trong nhà đã sẵn hoàng cầm,
Song le lại muốn nhân sâm nước người.
Đành hay kho Tạo chẳng vơi,
Pha phôi ai dễ biết nơi cõi bờ.

Thương vì chút phận con thơ,
Cho nên trải chiếu đắp dơ trăm chiều.
Ưa là chơi đã đến điều,
Bạn sen đà phỉ hết điều nói năng.

Nghe thôi chim cái nghĩ rằng:
Đã nên một sự vô bằng mất đôi.
Sự oan biết thuở nào nguôi,
Âu là phải trả khúc nôi mấy lời.

Hát rằng: Vào sóng ra khơi,
Một mình ai kẻ biết vời sâu nông.
Tử sanh ngỡ vẹn chữ đồng,
Nào hay nhìn đến mênh mông trăm chiều.
Thôi thôi sương tuyết đã nhiều,
Càng cao tuổi tác, càng nhiều mỉa mai.
Bây giờ tía lạc hồng phai,
Cho nhau những tiếng đơn sai vào mình.

Lọ là phải nói tận tình,
Nghe lời thì biết, xem hình thì hay.
Hát thôi chim đực giận thay,
Nhủ rằng: Trong ấy, gian ngay đã liều.
Đất kia mà ném ao bèo,
Dao kia rạch nước hết điều đôi co.
Ngỡ là phải lưới, mắc dò,
Ai ngờ hoa hợp, kể cho làm kỳ.
Thôi đừng hát khảy làm chi,
Vào nhà nghỉ khỏe mai đi kiếm mồi.
Thấy chồng ngờ vực chưa thôi,
Tức gan, chim cái khôn ngồi, chạy ra.
Đến gần lạy đã trình qua:
Vợ chồng là nghĩa ruột rà ngàn năm.
Đã nguyền kinh bố, thạch châm,

Dám đâu bả lả âm thầm riêng ai.
Niềm gian phó quỷ thần hay,
Nâng mâm, cầm chổi xưa nay một bề.
Đắng cay, chua chát chẳng nề,
Ước cầu cho vẹn, lời thề cho xong.

Thiếp dù ở chẳng hết lòng.
Lại nguyền như đá đợi chồng đứng đây.
Thầy nghe nó nói giận thay,
Mắng rằng: Chim chóc chúng bay nói càn.

Vốn tao nết dữ đã quen,
Cứ lời Phật phán về ngàn từ bi.
Dù bay xảy có việc gì,
Cớ sao mà lại nói chì đến tao.

Tao mong lên cõi đài cao,
Cho nên tao mới ra vào đứng đây.
Tổ làm, con đẻ mặc bây,
Từ bi, nhẫn nhục xưa nay ghi lòng.

Làm sao lại có đợi chồng,
Mà cho mầy lại vợ chồng ví von?
Xưa lên cây được bốn con,
Cùng hai trai gái kiểu tròn như vo.

Vật vào hòn đá dương cô,
Thương ôi! chim chích nên tro còn gì
Trên đầu mấy tổ dứt đi.
Cỡi mây nương gió, tốc về Tây Phương.

Bước vào tới trước tòa vàng,
Phật liền phán hỏi mọi đường xưa sau.
Dư ngày dự đã về chầu,
Liền quỳ, bèn mới ngỏ tâu mọi lời:

Con vâng Phật phán tới nơi,
Đã trong ba tháng, lại ngoài ba năm.
Trên đầu chim đẻ dư trăm,
Cứ lời Phật phán dám lầm một phân?


Hằng trông cho được toàn thân,
Đôi chim chinh chích tổ gần bên tai.
Ghen tương lắm sự gái trai,
Chẳng như lại ví thân ai đợi chồng.

Giận, con đã sốt cả lòng,
Bốn con cho lẫn vợ chồng xua tay.
Ấy là lời thiệt bày ngay,
Dám xin truyền phán lẽ này làm sao?

Công con khó nhọc tiêu hao,
Tòa vàng may được chút nào cùng chăng.
Phật rằng: Làm sự chẳng hằng,
Sát sanh thôi lại nói năng ấy gì?

Có đường, có nẻo thì đi,
Già lam yết đấy tức thì đuổi ra.
Giận thay liền trở về nhà,
Quyết rằng tìm cảnh yên hà thong dong.
Non Bồng nước Nhược dù lòng,
Vui bề sơn thủy, lánh vòng trần gian.

Truyện này chẳng lọ luận bàn,
Ai xem thì khá tu hành nết na.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 34380)
Phát Bồ đề tâm, nói đơn giản, là trước hết, lập cái chí nguyện mong cầu tuệ giác Vô thượng Bồ đề, kế đó, phát triển tuệ giác ấy...
(Xem: 16880)
Trong các công hạnh đơn giản mà sâu dày và khó thực hiện cho vẹn toàn nhất là hạnh buông xả. Hành giả Phật giáo lấy tâm buông xả làm công hạnh hàng đầu.
(Xem: 22982)
Một chút ánh sáng nhỏ nhoi, giúp con soi tỏ những giọt mồ hôi không hình nơi mẹ. Nhưng phải tự khi làm mẹ, mới thấu vô vàn cái nhọc mẹ mang.
(Xem: 13065)
Ra khỏi bóng tối - Thích Nữ Diệu Nghiêm dịch
(Xem: 21975)
Hôm nay, mùa Vu Lan báo hiếu lại trở về trên xứ Việt, hòa chung với niềm vui lớn này, xin được san sẻ cùng em đôi điều về đạo hiếu của con người.
(Xem: 22200)
Ngài Mục Liên là một tấm gương sáng chói tượng trưng cho lòng chí hiếubáo ân. Ngài đã thực hành phép sám hối để báo ân mà cứu được mẹ thoát khỏi địa ngục.
(Xem: 14874)
Kinh Phạm Võng dạy rằng “Người Phật tử nếu lấy tâm từ mà làm việc phóng sinh thì thấy tất cả người nam đều là cha mình, tất cả người nữ đều là mẹ mình.
(Xem: 23596)
Tâm Bồ đề là tâm rõ ràng sáng suốt, tâm bỏ mê quay về giác, là tâm bỏ tà quy chánh, là tâm phân biệt rõ việc thị phi, cũng chính là tâm không điên đảo, là chân tâm.
(Xem: 24130)
Cái chết theo Tan-tra thừa là một quá trình tan biến tuần tự của thân xác vật chấttâm thức, các hiện tượng tan biến này được phân loại thành nhiều cấp bậc...
(Xem: 23655)
Quyển "THIỀN QUÁN - Tiếng Chuông Vượt Thời Gian" là một chuyên đề đặc biệt giới thiệu về truyền thống tu tập thiền Tứ Niệm Xứ của đức Phật dưới sự hướng dẫn của thiền sư U Ba Khin.
(Xem: 17154)
Tôi đã lắng nghe Krishnamurti suốt nhiều ngày. Tôi đến những nói chuyện của ông, tham gia những bàn luận, ngẫm nghĩ...
(Xem: 19368)
Chính Ðức Phật đã dạy: “Trong các sự bố thí chỉ có Pháp thícông đức lớn nhất, không có công đức nào sánh bằng” ... Thích Chân Tính
(Xem: 27083)
Phật-pháp là trí tuệ thực nghiệm dạy chúng ta nhận định được bản chất căn bản của chúng tagiải thoát chúng ta khỏi sự sa đọa thành nạn nhân đối với những huyễn tượng...
(Xem: 14432)
Hiện nay câu hỏi này là một quan tâm chính đối với mọi người, bởi vì khoa học và công nghệ hiện đại đã phơi bày rõ ràng những khả năng xảy ra sự hủy diệt to tát.
(Xem: 13853)
Điều gì cần thiết là một cái trí không bị hành hạ, một cái trí rất rõ ràng. Và một cái trí như thế không thể hiện diện được nếu nó có bất kỳ loại thành kiến nào.
(Xem: 22699)
Đức Phật Thích Ca Mâu NiPhật Bảo. Ba tạng kinh luật luận do đức Phật Thích Ca Mâu Ni thuyết ra là Pháp Bảo. Chư tăng đệ tử xuất gia của Phật đàTăng Bảo.
(Xem: 14764)
Điều lạ thường nhất về sống của Krishnamurti là những lời tiên tri được nói về anh trong thời thanh niên đã thành hiện thực, tuy nhiên trong một hướng khác hẳn điều gì được mong đợi.
(Xem: 17373)
Để có thể lắng nghe thực sự, người ta nên buông bỏ hay gạt đi tất cả những thành kiến, những định kiến và những hoạt động hàng ngày.
(Xem: 12689)
Nhìn vào toàn chuyển động của sống này như một sự việc; có vẻ đẹp vô cùng trong nó và năng lượng vô hạn; thế là hành động là trọn vẹn và có sự tự do.
(Xem: 13877)
Lúc này chúng ta hãy quan sát điều gì đang thực sự xảy ra trong thế giới; có bạo lực thuộc mọi loại; không chỉ phía bên ngoài mà còn cả trong sự liên hệ lẫn nhau của chúng ta.
(Xem: 10424)
Một cái trí chuyên biệt hóa không bao giờ là một cái trí sáng tạo. Cái trí mà đã tích lũy, mà đã đắm chìm trong hiểu biết, không thể học hành.
(Xem: 14718)
Khi năng lượng không bị hao tán qua sự tẩu thoát, vậy thì năng lượng đó trở thành ngọn lửa của đam mê. Từ bi có nghĩa đam mê cho tất cả. Từ biđam mê cho tất cả.
(Xem: 17208)
Ngài giáng sinh nơi vườn Lâm Tỳ Ni (Lumbini), thành đạoBồ Đề Đạo Tràng (Bodh Gaya), thuyết bài Pháp đầu tiên tại vườn Lộc Uyển (Sarnath) và nhập Niết Bàn tại Câu Thi Na...
(Xem: 12554)
Chúng tathói quen tạo ra một trừu tượng về sợ hãi, đó là, tạo ra một ý tưởng về sợ hãi. Nhưng chắc chắn, chúng ta không bao giờ lắng nghe tiếng nói của sợ hãi đang kể câu chuyện của nó.
(Xem: 12724)
Có một khác biệt giữa không gian bên ngoài, mà vô giới hạn, và không gian bên trong chúng ta hay không? Hay không có không gian bên trong chúng ta gì cả và chúng ta chỉ biết không gian bên ngoài mà thôi?
(Xem: 10380)
Chúng ta là kết quả của những hành động và những phản ứng của mỗi người; văn minh này là một kết quả tập thể. Không quốc gia hay con người nào tách rời khỏi một người khác...
(Xem: 28725)
Đức Đạt-Lai Lạt-Ma khích lệ chúng ta hãy triển khai lòng tốttình thương yêu mà Ngài luôn luôn quả quyết là những phẩm tính ấy đều đã có sẵn trong lòng mỗi con người chúng ta.
(Xem: 10716)
Sự liên hệ giữa bạn và tôi, giữa tôi và một người khác, là cấu trúc của xã hội. Đó là, liên hệ là cấu trúc và bản chất của xã hội. Tôi đang đặt vấn đề rất, rất đơn giản.
(Xem: 11140)
Lúc này tôi nghĩ có ba vấn đề chúng ta phải thấu triệt nếu chúng ta muốn hiểu rõ toàn chuyển động của sống. Chúng là thời gian, đau khổ và chết.
(Xem: 16885)
Phật pháp cho trẻ em - Tác giả: Jing Yin và Ken Hudson - Minh họa: Yanfeng Liu - Biên soạnchuyển ngữ: Tâm Minh Ngô Tằng Giao
(Xem: 15787)
“Đông du” ngày nay đã trở thành một từ quen thuộc. Không chỉ đối với các nhà thám hiểm, khách du lịch, người khảo sát văn hóa, mà cả những nhà khoa học, nhà triết học.
(Xem: 13349)
Khai sáng không lệ thuộc thời gian. Thời gian, ký ức, hồi tưởng, nguyên nhân – chúng không tồn tại; vậy thì bạn có thấu triệt, thấu triệt tổng thể.
(Xem: 12565)
Sự lèo lái của sinh lý học, mặc dù là một phần của điều mà phương Tây chúng ta gọi là “tự nhiên,” từ quan điểm Phật giáo, chính là một phần cơ cấu của luân hồi sinh tử.
(Xem: 11376)
Có lẽ rất xứng đáng khi dùng một ít thời gian cố gắng tìm ra liệu cuộc sống có bất kỳ ý nghĩa nào hay không. Không phải cuộc sống mà người ta sống, bởi vì sự tồn tại hiện nay chẳng có ý nghĩa bao nhiêu.
(Xem: 13036)
Thiền định là hành động mà đến khi cái trí đã mất đi không gian nhỏ xíu của nó. Không gian bao la này mà cái trí, cái tôi, không thể đến được, là tĩnh lặng.
(Xem: 19317)
Lắng nghe là một nghệ thuật không dễ dàng đạt được, nhưng trong nó có vẻ đẹp và hiểu rõ tuyệt vời. Chúng ta lắng nghe với những chiều sâu khác nhau của thân tâm chúng ta...
(Xem: 12260)
Chắc chắn, giáo dục không có ý nghĩa gì cả nếu nó không giúp bạn hiểu rõ sự rộng lớn vô hạn của cuộc sống với tất cả những tinh tế của nó, với vẻ đẹp lạ thường của nó, những đau khổhân hoan của nó.
(Xem: 28632)
Sách này đặt tên "Kiến Tánh Thành Phật", nghĩa là sao? Bởi muốn cho người ngưỡng mộ tên này, cần nhận được lý thật của nó. Như kinh nói: "Vì muốn cho chúng sanh khai, thị, ngộ, nhập tri kiến Phật".
(Xem: 10059)
Chúng ta dường như không bao giờ nhận ra rằng nếu mỗi người chúng ta không thay đổi triệt để trong căn bản thì sẽ không có hòa bình trên quả đất...
(Xem: 21541)
Các sự gia hộ được nhận qua các luận giảng này về sáu giai đoạn chuyển tiếp giống như một con sông nước dâng cao vào mùa xuân...
(Xem: 12802)
Kêu gọi thế giới là tựa của một quyển sách vừa được phát hành tại Pháp (ngày 12 tháng 5 năm 2011), tường thuật lại cuộc tranh đấu bất-bạo-động của Đức Đạt-Lai Lạt-Ma hơn nửa thế kỷ nay...
(Xem: 17834)
Luật nhân quả không phải là luật riêng có tính cách tôn giáo. Trong vũ trụ, thiên nhiên, mọi sự vật đều chịu luật nhân quả, đó là luật chung của tự nhiên.
(Xem: 26261)
Đức Phật đã dạy chúng ta những cách sửa soạn bản thân cho sự chết bí ẩn và tận dụng những trạng thái của sự chết để tu tập. Nhiều vị Thầy đã viết sách về đề tài này.
(Xem: 11717)
Tốt lành chỉ có thể nở hoa trong tự do. Nó không thể nở hoa trong mảnh đất của thuyết phục dưới bất kỳ hình thức nào, cũng không dưới bất kỳ cưỡng bách nào...
(Xem: 10866)
Mọi hình thức thiền định có ý ‎thức không là một sự việc thực sự: nó không bao giờ có thể là. Cố gắngdụng ý khi thiền định không là thiền định.
(Xem: 22767)
Nếu hay tu trí tuệ thì không khởi phiền não. Trí tuệ vô ngã có thể từ chỗ nghe Phật pháp, thể nghiệm Phật lý, phản quan tự ngã, nhìn thấu nhân sinh mà có được.
(Xem: 12052)
Ngôi chùa nhỏ nằm khiêm tốn trong khoảng đất rộng đầy cây trái. Buổi tối, mùi nhang tỏa ra từ chánh điện hòa với mùi thơm trái chín đâu đó trong vườn.
(Xem: 10618)
Trước khi thành Thiền sư, Trúc Lâm đại sĩ đã từng làm vua nước Đại Việt. Đó là vua Trần Nhân Tông, người đã từng đẩy lui cuộc xâm lăng của quân Mông Cổ.
(Xem: 11422)
Tất cả mọi pháp hiện hữu, bắt đầu là cái Tôi, chẳng là gì cả ngoại trừ là những thứ được định danh. Không có các uẩn, không có thân, tâm, ngoại trừ những gì đã được ta quy gán.
(Xem: 11542)
Tư tưởng vị tha mong đạt được giác ngộ vì tất cả chúng sanh là một quan điểm vô cùng kỳ diệu! Khi bạn phát bồ đề tâm, bạn bao gồm tất cả mọi người, mọi loài trong ý tưởng làm lợi lạc cho họ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant