Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

30. Thủy Nguyệt Quán Âm

05 Tháng Tư 201100:00(Xem: 7688)
30. Thủy Nguyệt Quán Âm

TRUYỀN THUYẾT VỀ BỒ TÁT QUÁN THẾ ÂM
Diệu Hạnh Giao Trinh dịch, Nguyễn Minh Tiến hiệu đínhgiới thiệu

30. THỦY NGUYỆT QUÁN ÂM

Bồ Tát Quán Âm đến Cô Tô thì gặp ngay lúc thành phố này đang bị nạn đao binh hoành hành. Dân chúng thành Cô Tô bị lính người Kim tàn sát chết cả hơn mười vạn người, oan hồn vất vưởng các nơi đồng hoang mông quạnh thật là khổ sở. Bồ Tát thấy thế khởi lòng lân mẫn, phát tâm từ bi sâu rộng, nên thi thố pháp lực để cứu vớt những oan hồn ấy thoát khỏi mọi khổ ách.

Bồ Tát hóa thành một ni cô ở tuổi trung niên, tay cầm tịnh bình dương liễu, đến nơi có nhiều oan hồn tụ tập mà chồng đá xây một cái đài cao vài trượng, lên đài ngồi kết già phu và tụng những bộ kinh phá địa ngục chướng như “Thiên Thủ Thiên Nhãn Quan Thế Âm Bồ Tát Quảng Đại Viên Mãn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà La Ni Kinh” hoặc là “Đại Bi Chú Kinh”, mỗi lần một ngàn biến. Xong một ngàn biến thì Ngài lấy nhánh dương liễu chấm vài giọt nước cam lồ trong tịnh bình, nhìn lên không trung mà rắc khắp một vòng, sau đó cắm lại nhánh dương liễu vào tịnh bình đâu đó cẩn thận rồi mới tụng kinh tiếp.

Bồ Tát Quán Âm lập đài tụng kinh để siêu độ oan hồn của những người đã bị giết hại trong chiến tranh làm cho những người đương thời rất ngạc nhiên. Họ không hiểu ý nghĩa hành động này, mà chỉ thấy một người thiếu phụ xinh đẹp đến xây một cái đài rồi lên đó ngồi tụng kinh, họ cho là kỳ quái nên ùn ùn kéo nhau đến nhìn rồi nhao nhao bàn tán với nhau, mỗi người một ý, không ai đồng ý với ai. Người thiếu phụ nói để chấm dứt sự nghi ngờ của mọi người:

– Ở đây người vô tội đã bất hạnh chết dưới tay người Kim rất nhiều, số người chết oan như thế lên tới cả chục ngàn sinh linh, thật là thê thảm. Những oan hồn ấy không ở trong ba giới cũng không vào sáu nẻo, mà cứ lưu lạc bơ vơ vất vưởng ở bên ngoài. Hôm nay bần ni có nhân duyên đến chỗ này, vâng theo tôn chỉ từ bi của đức Phật làm sao cho họ được siêu độ, vì thế nên mới xây đài phát nguyện tụng kinh trong 49 ngày, dùng nhành dương liễu rảy nước cam lồ khắp nơi, để họ thoát mọi khổ áchvãng sinh nước Cực Lạc. Mọi người không nên nghi ngờ, bần ni không hóa duyên cũng chẳng khất thực, chỉ muốn hoàn thành bổn nguyện của mình, thế thôi.

Mọi người nghe vậy thì lục tục kéo nhau bỏ về.

Thấm thoát ngày thứ 49 đã đến. Chiều hôm ấy là ngày cuối, hết hạn tụng kinh của người thiếu phụ. Mọi người đúng kỳ hạn lại kéo nhau đến, yên lặng nghe Bồ Tát thuyết pháp. Bồ Tát Quán Âm nói:

– Các vị hãy nghe tôi nói, tôi tụng kinh này tên là “Thiên Thủ Thiên Nhãn Quan Thế Âm Bồ Tát Quảng Đại Viên Mãn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà La Ni Kinh” có thể phá các chướng trong địa ngục, siêu độ tất cả mọi khổ cách trong thế giới u minh, tụng xong một tạng thì tất cả mọi tai họa đều được tiêu trừ hết.

Tiếp theo Bồ Tát đưa tịnh bình lên rồi lại nói:

– Nước trong bình này gọi là cam lồ công đức thủy, rảy khắp mười phương chỉ cần một giọt thôi là đã có thể giúp người vãng sinh Cực Lạc quốc. Coi như bần ni có nhân duyên với chỗ này nên không tính trước mà lại đến. Bần ni đã làm xong trách nhiệm của mình, tức là lập cách siêu độ giải trừ khổ ách cho hàng vạn sinh linh chết oan. Bây giờ công đức đã viên mãn, bần ni cũng phải đi nơi khác.

Mọi người nghe nói vị ni sư này đã làm công đức như thế chỉ vì để siêu độ cho người bị nạn mà không đòi gì để đền bù nên cảm kích vô cùng. Trong đám những người ấy có một vị đột nhiên đại ngộ, nghĩ rằng việc làmlời nói của vị ni sư này không bình phàm chút nào, chắc chắn người thiếu phụ này phải là Quan Thế Âm Bồ Tát hóa thân. Nếu thỉnh được Bồ Tát hiển hiện bảo tướng thì một đời hạnh phúc biết bao nhiêu!

Nghĩ thế rồi, ông chạy lên phía trước nói với người thiếu phụ rằng:

– Nghe nói rằng Bồ Tát Quán Âm vân du trong nhân gian, hiện bảo tướng ở bất kỳ chỗ nào, không biết chúng tôi có thể có may mắn thấy được Bồ Tát một lần không?

Người thiếu phụ đáp:

– Tâm tức là Phật, Phật tức là tâm. Nếu thành tâm muốn gặp Bồ Tát thì trong tâm đã có Bồ Tát, nghĩa là đã là thấy Bồ Tát rồi!

Sau đó, thiếu phụ chỉ về hướng bờ sông nói:

– Không phải Bồ Tát đấy sao?

Mọi người nhìn theo hướng ngón tay của thiếu phụ, quả nhiên nhìn thấy trên mặt nước có bóng mặt trăng sáng cực kỳ, và họ thấy Bồ Tát chầm chậm bước vào trong bóng trăng ấy. Lúc ấy bóng trăng lung linh trên mặt nước gợn sóng, bảo tướng trang nghiêmtừ bi của Bồ Tát ảnh hiện giữa trời và nước, ánh sáng chiếu khắp tứ phía.

Mọi người thấy thế bèn ùn ùn quỳ xuống lễ. Lễ xong đứng dậy, trên đài đá không còn bóng người thiếu phụ nữa. Người đã lên tiếng vừa rồi thấy điều mình nghi là đúng nên rất sung sướng, những người ở tại chỗ cũng chợt hiểu ra rằng người thiếu phụ chính là Bồ Tát Quán Âm hóa thân. Thế là thiện nam tín nữ trong thành Cô Tô ai nấy đều đồng lòng quyên góp tiền bạc để xây một ngôi Quán Âm miếu ngay tại chỗ mà Bồ Tát xây đài tụng kinhtạc tượng Bồ Tát Quán Âm tụng kinh, rảy nước cam lồ.

Bức tượng này được dân gian đặt tên là “Quán Âm rảy nước” (Sái Thủy Quán Âm) hay là “giọt nước Quán Âm” (Trích Thủy Quán Âm).

Trong số những người đã nhìn thấy Bồ Tát hiện thân, có nhà họa sĩ Khưu Tử Thanh, là một họa sĩ có nét vẽ tuyệt vời. Người này tin Phật một cách thuần thành, có đầy đủ huệ nhãn, muốn cho người đời đồng chiêm bái bảo tướng Bồ Tát và đồng thấm nhuần pháp vũ, bèn vẽ lại bảo tướng Bồ Tát thị hiện trong bóng trăng trên nước. Trong bức họa này, ánh trăng lồng trong ánh nước, bảo tướng trang nghiêm của Đại sĩ lấp lánh phóng ánh sáng trong mặt nguyệt lung linh, nét bút tinh xảo và xuất thần, ai thấy cũng phải tấm tắc là tuyệt diệu. Thế nhân gọi bức tranh này là “Thủy Nguyệt Quán Âm”.

Khi bức tranh Bồ Tát này vừa được vẽ ra rồi, dân chúng thành Cô Tô liền nối đuôi nhau trước nhà Khưu Tử Thanh, đều xin ông vẽ cho mình một bức. Khưu Tử Thanh muốn tuyên dương công đức của Bồ Tát nên ai xin cũng đều nhận lời, vì thế nên Phật tử đương thời ở đấy, ngoài bức “Sái Thủy Quán Âm” ra, phần đông cũng đều thờ bức “Thủy Nguyệt Quán Âm”, cứ thế cha truyền con nối cho đến ngày nay. Hiện thời ở Tô Châu, Hàng Châu, rất nhiều nhà riêng hãy còn thờ phụng bức tranh Thủy Nguyệt Quán Âm.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 10192)
Sự sinh ra cao quý, tự dothuận lợi này thật khó có được. Cầu mong con không lãng phísử dụng nó một cách có ý nghĩa.
(Xem: 11250)
Ta cần có những thiện hạnh để chấm dứt những dục vọng vô độ và việc coi mình là quan trọng; cách hành xử tránh điều độc hại như thuốc độc...
(Xem: 13592)
Xuất phát từ một nhận thức có tính thuyết phục về đạo Phật, quyển "Thuần Hóa Tâm Hồn" được viết với một văn phong hiện đại, trong sángtinh tế; nghiêm trang nhưng vẫn đan xen đôi nét hóm hỉnh.
(Xem: 13744)
Một cách khái quát, Thiền có thể hiểu là trạng thái tâm linh vút cao của một hành giả đã chứng ngộ. Với nghĩa này, Thiền cũng là Đạo, là Phật, là Tâm...
(Xem: 22219)
Các khoa học gia ngày nay trên thế giới đang có khuynh hướng chú trọng vào chế độ dinh dưỡng lành mạnh lấy chất bổ dưỡng từ nguồn thức ăn do thực vật đem lại...
(Xem: 21877)
Chúng tôi đi với hai mục đích chính: Thay mặt toàn thể Phật tử Việt Nam chiêm bái các Phật tích và viết một quyển ký sự để giới thiệu các Phật tích cho Phật Tử Việt Nam được biết.
(Xem: 27390)
Tâm tánh của chúng sinh dung thông không ngăn ngại, rộng lớn như hư không, lặng trong như biển cả. Vì như hư không nên thể của nó bình đẳng...
(Xem: 17784)
Tây phương Cực lạccảnh giới thanh tịnh giải thoát. Thanh tịnhvô nhiễm là thuần thiện, giải thoát là vượt ngoài ba cõi, vượt ngoài ba cõi là xả ly thế gian.
(Xem: 11741)
Tinh thần Đại thừa Phật giáo nhằm mục đích chuyển hóa cõi Ta-bà uế trược này trở thành Cực-lạc thanh lương. Sự phổ biến Phật giáo khắp mọi tầng lớp quần chúng là điều Phật tử phải thực hiện.
(Xem: 12331)
Là một tu sĩ Phật giáo Việt Namtrách nhiệm và nhiều nhiệt tình thì thấy điều gì hay trong Phật giáo tôi tán thán, biết việc gì dở tôi chê trách, đều nhằm mục đích xây dựng Phật giáo Việt Nam mà thôi.
(Xem: 25250)
Chúng ta tu Thiền là cốt cho tâm được thanh tịnh trong lặng. Từ tâm thanh tịnh trong lặng đó hiện ra trí vô sư. Trí vô sư hiện ra rồi thì chúng ta thấy biết những gì trước kia ta chưa hề thấy biết...
(Xem: 23293)
Đối tượng nghiên cứu của xã hội học là con người, trong khi đó, xã hội học Phật giáo có những bước nghiên cứu xa hơn không chỉ nói về con người mà còn đề cập đến các loài hữu tình khác...
(Xem: 28585)
Một chủ đề chính của cuốn sách này là qua thực hành chúng ta có thể trau dồi tỉnh giác lớn lao hơn suốt mỗi khoảnh khắc của đời sống. Nếu chúng ta làm thế, tự dolinh hoạt mềm dẻo liên tục tăng trưởng...
(Xem: 22773)
Chân thật niệm Phật, lạy Phật sám hối, giữ giới sát, ăn chay, cứu chuộc mạng phóng sinh. Đó là bốn điểm quan trọng mà sư phụ thường dạy bảo và khuyến khích chúng ta.
(Xem: 25719)
Con đường thiền tậpchánh niệm tỉnh giác, chứng nghiệm vào thực tại sống động. Khi tâm an định, hành giả có sự trầm tĩnh sáng suốt thích nghi với mọi hoàn cảnh thuận nghịch...
(Xem: 22308)
Với người đã mở mắt đạo thì ngay nơi “sắc” hiện tiền đó mà thấy suốt không chướng ngại, không ngăn che, nên mặc dù Sắc có đó vẫn như không, không một chút dấu vết mê mờ...
(Xem: 13994)
Trên đời này, hạnh phúc và khổ đau; chiến tranh và hòa bình; giàu và nghèo… nếu chúng ta chịu khó tu tập một chút và giữ tâm thật bình thản, chúng ta sẽ khám phá ra nhiều điều hay vô cùng.
(Xem: 13438)
Bước đường hành đạo của đức Phật thật sinh động trong khung cảnh Ấn Ðộ cổ đại được minh họa bằng các trích đoạn kinh kệ từ Tam Tạng Pàli nguyên thủy đầy thiền vị hòa lẫn thi vị...
(Xem: 22482)
Bắt đầu bằng cách bỏ qua một bên tất cả những mối quan tâm ở bên ngoài, và quay vào quán sát nội tâm cho đến khi ta biết tâm trong sáng hay ô nhiễm, yên tĩnh hay tán loạn như thế nào.
(Xem: 26395)
Kinh Nghĩa Túc đã bắt đầu dạy về không, vô tướng, vô nguyệnbất khả đắc. Kinh Nghĩa Túc có những hình ảnh rất đẹp về một vị mâu ni thành đạt.
(Xem: 18488)
Bản thể hiện tiền là Sự Sống Duy Nhất vĩnh hằng, luôn hiện tiền, vượt quá hằng hà sa số dạng hình thức sinh linh vốn lệ thuộc vào sinh và diệt.
(Xem: 18967)
Khi bạn chú tâm đến sự yên lặng, ngay lập tức có một trạng thái cảnh giác nhưng rất im lắng ở nội tâm. Bạn đang hiện diện. Bạn vừa bước ra khỏi thói quen suy tưởng của tâm thức cộng đồng...
(Xem: 34518)
Đây là phần thứ 2 trong 3 phần chính của cuốn Zen no Rekishi (Lịch Sử Thiền) do giáo sư Ibuki Atsushi soạn, xuất bản lần đầu tiên năm 2001 tại Tôkyô.
(Xem: 27390)
Thật ra chân lý nó không nằm ở bên đúng hay bên sai, mà nó vượt lên trên tất cả đối đãi, chấp trước về hiện hữu của Nhị Nguyên. Chân lý là điểm đến, còn hướng đến chân lý có nhiều con đường dẫn đến khác nhau.
(Xem: 28431)
Trong tiếng Phạn (Sanskrit), từ "Thiền" có ngữ nguyên là dhyâna. Người Trung Hoa đã dịch theo âm thành "Thiền na". Ý nghĩa "trầm tư mặc tưởng" của nó từ xưa trong sách vở Phật giáo lại được biểu âm bằng hai chữ yoga (du già).
(Xem: 21397)
Giác ngộ là sự hiểu biết đúng như thật; giải thoát là sự chấm dứt mọi phiền não khổ đau. Chỉ có sự hiểu đúng, biết đúng mới có sự an lạchạnh phúc...
(Xem: 14910)
Càng sống thiền định để thấu suốt cái vô thường, đau khổvô ngã trong đời sống thì ta càng dễ dàng mở rộng trái tim để có thể sống hòa ái và cảm thông cho tha nhân nhiều hơn.
(Xem: 19220)
Bồ Tát Quán Thế Âm là một trong những hình tượng gần gũi nhất với hầu hết tín đồ Phật giáo, dù ở bất cứ nơi đâu, dù thuộc tầng lớp nào. Ngài là biểu tượng của lòng đại bi...
(Xem: 10622)
Giáo dục của chúng ta là sự vun đắp của ký ức, sự củng cố của ký ức. Những thực hành và những nghi lễ của tôn giáo, đọc sách và hiểu biết của bạn, tất cả là sự củng cố của ký ức.
(Xem: 18578)
Đức Phật đã nhìn thấy rất rõ rằng, những trạng thái khác nhau của tâm và những hành động khác nhau của thân sẽ đưa đến những kết quả hoàn toàn khác biệt.
(Xem: 15666)
Phương pháp thiền tập được xuất phát từ phương Đông nhiều ngàn năm trước đây, sau khi được truyền sang phương Tây đã trở thành một phương pháp thực tập được nhiều người yêu thích...
(Xem: 13196)
Chư Bồ Tát, tùy theo hạnh nguyện thù thắng khác biệt mà mỗi vị mang một danh hiệu khác nhau, tựu trung hạnh nguyện của vị nào cũng vĩ đại rộng sâu không thể nghĩ bàn...
(Xem: 13423)
Tuy ra đời khá sớm trong dòng văn học Phật giáo, nhưng cho đến nay, điểm thú vị của độc giả khi đọc lại tập sách này là vẫn có thể nhận ra được những vấn đề quen thuộc với cuộc sống hiện nay của bản thân mình.
(Xem: 14028)
Chân lý chỉ có một, nhưng mỗi người đến với chân lý bằng một con đường khác nhau. Dù bằng con đường nào đi nữa thì đó cũng là hạnh phúc lớn nhất trong cuộc đời...
(Xem: 11794)
Đây là kết quả của 17 năm trường mà Ngài Huyền Trang đã ở tại Ấn Độ. Đi đến đâu Ngài cũng ghi lại từ khí hậu, phong thổ cho đến tập quán và nhất là những câu chuyện liên quan đến cuộc đời đức Phật...
(Xem: 11634)
Chính là nhờ vào con đường tu tập, vào sự bứng nhổ tận gốc rễ cái ảo tưởng rằng ta là một cá thể riêng biệt mà ta tìm lại được hạnh phúc chân thật sẵn có trong ta.
(Xem: 11345)
Đức Phật thuyết Pháp, chư tăng gìn giữ pháp Phật để vĩnh viễn lưu truyền làm đạo lý tế độ quần sanh. Vì thế, Phật, Pháp và Tăng là ba món báu của chúng sanh...
(Xem: 11898)
Sân chùa yên ả không một tiếng lá rơi. Mặt trời áp má lên những vòm cây xum xuê, chỉ để rớt nhiều đốm nắng rất nhỏ xuống đất, không nóng bức, không khó chịu...
(Xem: 19947)
Như những con người, tất cả chúng ta muốn an lạc hạnh phúc và tránh buồn rầu đau khổ. Trong kinh nghiệm hạn hẹp của mình, nếu chúng ta đạt đến điều này, giá trị bao la của nó có thể phát triển...
(Xem: 12400)
Ở xứ Tây Tạng, tạo hóa và dân sự dường như bảo nhau mà giữ không cho kẻ lạ bước vào! Núi cao chập chùng lên tận mây xanh có tuyết phủ...
(Xem: 13943)
Đức Phật Thích-ca Mâu-ni ra đời cách đây đã hơn 25 thế kỷ. Những gì ngài để lại cho cho chúng ta qua giáo pháp được truyền dạy khắp năm châu là vô giá...
(Xem: 13275)
Trong các vị cao tăng Trung Hoa, ngài Huyền Trang là người có công nghiệp rất lớn, đã đi khắp các nơi viếng Phật tích, những cảnh chùa lớn, quan sátnghiên cứu rất nhiều.
(Xem: 31988)
Những phương pháp và lời hướng dẫn mà Đức Phật đã đề ra giúp chúng ta có thể từng bước tiến đến một sự giác ngộ sâu xa và vượt bậc, và đó cũng là kinh nghiệm tự chúng Giác Ngộ của Đức Phật.
(Xem: 13444)
Vào một buổi chiều lười biếng ở Sydney, tôi mở Tivi và thấy chương trình Oprah Winfrey đang tranh luận về kiếp trước kiếp sau, cuộc tranh luận rất sôi nổi.
(Xem: 12759)
Đây là một cuốn nhật ký ghi chép cuộc hành trình đi về Ấn Độ để học đạo. Tác giả nhân khi chùa Văn Thù Sư Lợi tổ chức chuyến đi hành hương các Phật tích tại Ấn đã tháp tùng theo...
(Xem: 13335)
Sách gồm những lời phát biểu của Đức Đạt-Lai Lạt-Ma về Phật giáo và vài vấn đề liên quan đến Phật giáo, chọn lọc từ các bài diễn văn, phỏng vấn, các buổi thuyết giảng và các sách của Đức Đạt-Lai Lạt-ma.
(Xem: 11905)
Trời bên này đã thật sự vào thu rồi đó! Buổi chiều, con đường về nhà hai bên rừng có ngàn lá đổi sang màu trái chín, đẹp kỳ diệu.
(Xem: 21872)
Ni sư Ayya Khema viết quyển tự truyện này không vì mục đích văn chương, mà để chúng ta từ câu chuyện đời của Ni sư tìm được những bài học giá trị về con đường đạo Người đã đi qua.
(Xem: 11098)
“Đạo lý nhà Phật, là một nền đạo lý thâm trầm, siêu việt hơn hết”. Ấy là lời nói của nhiều nhà thông thái xưa nay trên hoàn võ, và cũng là một mối cảm của chúng tôi nữa.
(Xem: 12904)
Các chân sư thực hiện những kỳ công của các ngài mà không chút tự hào, với một thái độ giản dị hồn nhiên hoàn toàn như trẻ con. Các ngài biết rằng, năng lực của tình thương luôn che chở các ngài.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant