Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

42. Lầu Quán Âm

05 Tháng Tư 201100:00(Xem: 7533)
42. Lầu Quán Âm

TRUYỀN THUYẾT VỀ BỒ TÁT QUÁN THẾ ÂM
Diệu Hạnh Giao Trinh dịch, Nguyễn Minh Tiến hiệu đínhgiới thiệu

42. LẦU QUÁN ÂM

Vào thời Đông chinh, vua Đường Thái Tông mỗi lần đi hay về cũng đều ngừng chân lại ở Kế Châu. Về tới Trường An rồi, để chứng tỏ sự lưu tâm của mình đối với dân chúng ở Kế Châu, vua đặc biệt phái Uất Trì Kính Đức đến đấy trông coi việc xây cất một ngôi chùa.

Lệnh của vua là phải xây một ngôi chùa to nhất nước, và khắc một pho tượng Phật cũng lớn nhất nước, toàn quốc không có ngôi chùa nào hay pho tượng Phật nào lớn bằng. Uất Trì Kính Đức phụng mệnh vua, bèn triệu tập hơn mười người thợ nổi tiếng, bảo họ phác thảo mô hình một cái lầu Quán Âm cho chùa Đại Phật. Ông đòi hỏi rằng:

Tượng Phật cao nên lầu cũng phải cao. Không được dùng đinh, không được dùng ốc. Bây giờ các ông cũng như Bát Tiên sang sông vậy, mỗi người hãy về thi thố tài năng của mình đi!

Một tháng sau, những người thợ trình lên cho ông một vài mô hình, nhưng ông xem một lúc, lắc đầu không ngừng, không có cái nào được ông chấm cả. Cái thì bắt chước những kiến trúc bằng gỗ đã từng xây ở chỗ khác rồi nên không có cá tính gì cả; cái thì quá cứng ngắc, không đủ đẹp mắttrang nhã; cái thì tạm có thể gọi là tinh xảo nhưng lại không thể chứa được một pho tượng Phật cao năm, sáu trượng.

Một tháng lại trôi qua, đám thợ lại trình lên một vài mô hình khác. Uất Trì Kính Đức mới thoạt nhìn đã giận quá, râu xõa ra hết, vì mấy cái mô hình ấy, cái nào cũng như cái nấy, chỉ là những đồ bỏ đi không hơn không kém! Ông lớn tiếng quát lên:

– Đồ ngu! Đồ ngu!

Không có mô hình nào của lầu Quán Âm làm cho Uất Trì Kính Đức vừa ý, khiến ông lo lắng sủi cả bọt mép, ăn thì nuốt không xuống, ngủ thì không chợp mắt được.

Buổi chiều hôm ấy, ông ngồi nốc một mình hai lượng rượu giải sầu, mê mê tỉnh tỉnh dựa vào chồng mền được xếp ngay ngắn đằng sau lưng, đột nhiên thấy một ông lão râu đen đẩy cửa bước vào phòng, tay cầm một cái lồng dế. Uất Trì Kính Đức nhìn cái lồng, nó không giống một cái lồng dế bình thường mà lại tinh xảo đặc thù, hình dáng như một cái lầu các, từ ngoài nhìn thì thấy có hai gian, từ trong nhìn thì thấy có ba tầng, ở giữa trống không thông lên tới đỉnh. Mắt ông chợt sáng lên, đây đúng là một mô hình của lầu Quán Âm mà ông thấy trúng ý mình nhất. Ông vội hỏi:

Sư phụ à, cái lồng dế này bao nhiêu tiền?

Ông lão râu đen đáp:

– Bao nhiêu cũng không bán.

Uất Trì Kính Đức lo quá:

– Tôi đặc biệt cần một cái lồng dế như thế này.

– Tôi đặc biệt đem cái lồng này đến tặng ngài đó chứ!

Nói xong ông lão râu đen đặt lồng dế lên bàn, quay người bỏ đi ra ngoài.

– Ông ơi khoan đi đã, để tôi trả tiền cho ông!

Uất Trì Kính Đức đưa chân lên toan chạy đuổi theo thì “huỵch” một tiếng, ông từ giường lăn xuống đất, thì ra đó chỉ là một giấc mộng!

Ông đứng dậy, lượt qua một lần trong óc những gì đã mộng thấy, mừng rỡ quá chạy ra khỏi phòng và ngay đêm ấy, cho gọi bọn thợ đến, tả lại cho họ nghe tỉ mỉ hình dáng cái lồng dế mà ông đã thấy trong mộng.

Bọn thợ nghe xong thì hiểu ý ông một cách rõ ràng. Họ làm việc ngày đêm không ngừng, chẳng lâu sau đã tạo được một cái mô hình của lầu Quán Âm. Uất Trì Kính Đức nhìn qua là vừa lòng ngay, thế là chỉ mấy ngày sau họ khởi công xây cất.

Ba tháng nữa trôi qua, sườn cốt của lầu Quán Âm đã được dựng lên, họ bắt đầu đóng cái rui. Một buổi trưa nọ, bọn thợ đang ngồi dưới đất vừa ăn cơm vừa cười nói vui vẻ, thì có một ông lão râu đen bước đến vái chào và nói:

– Tôi là thợ mộc, đi cùng với gia đình ngang qua đây nhưng hết tiền lộ phí, xin quý ông vui lòng cho tôi xin một chút cơm.

Bọn thợ nói:

– Mời ông ngồi xuống đây ăn chung với chúng tôi.

Ông lão đưa chén lên, và mấy và cơm rồi gắp một gắp rau bỏ vào miệng, vừa nhồm nhoàm nhai vừa nói:

– Thiếu muối!

– Ông ăn mặn quá nhỉ, chúng tôi đã bỏ muối vào rau nhiều rồi đấy!

Một người thợ vừa nói vừa đưa cho ông một nhúm muối.

Ông lão lại gắp rau rồi nói một lần nữa:

– Thiếu muối!

Một người thợ khác lại bốc muối đưa cho ông. Sau một lúc ông lại gắp rau ăn, dùng tay lau mồm, ngẩng cổ lên nhìn lầu Quán Âm, lắc đầu bước ra ngoài bỏ đi, vừa đi vừa lầu bầu:

– Thiếu muối! Thiếu muối!

Sau đó bọn thợ kể lại chuyện này cho Uất Trì Kính Đức nghe, ông này giật mình và nhận ra ngay: vóc người cùng mặt mũi của ông lão râu đen này giống y hệt với ông lão đã đem lồng dế lại cho mình trong mộng, không phải là thầy Lỗ Ban hiển thánh đó sao?

Ông đứng trước lầu Quán Âm, một mặt nhìn cái rui đã đóng xong, một mặt suy nghĩ đến hai chữ “thiếu muối”. Thật lâu sau, ông chợt tìm ra đáp số cho bài toán đố trên: thì ra cái rui đỡ mái hiên ngắn quá! Chữ diêm (鹽) là muối đồng âm với chữ diêm (檐) là cái mái hiên, cũng đọc là thiềm; chữ đoản (短) là thiếu, cũng có nghĩa là ngắn. Ông lão luôn miệng chê “thiếu muối” là ý muốn nói mái hiên quá ngắn.

Ông bảo thợ leo lên giàn, nối cái rui dài ra một xích.

Ôi! Tuyệt vời! Chống cái đấu xong thì mái hiên lầu dường như muốn cất cánh bay lên vậy! Thế là Uất Trì Kính Đức ra lệnh chỗ nào của rui mái hiên có dáng hất lên như nét “khiêu” thì đều nối dài ra một xích.

Một năm sau, lầu Quán Âm xây xong, Uất Trì Kính Đức muốn mời người đến viết cho một tấm biển, nhưng những nhà thư pháp nổi danh không phải dễ tìm.

Đêm hôm ấy ông vừa chợp mắt ngủ thì Lỗ Ban lại đến trong mộng bảo rằng:

– Chuyện viết biển đó, ông khoan hãy gấp. Hiện nay có một ngôi sao Thái Bạch vừa mới giáng trần, sinh ra sẽ là một nhà thơ rất lừng danh, hãy đợi ông ta viết biển cho!

Thế là Uất Trì Kính Đức không làm biển, và quả nhiên về sau khi nhà thơ Lý Bạch nổi tiếng rồi thì có người mời viết cho bốn chữ “Quán Âm chi Các” trên một tấm biển vuông.

Uất Trì Kính Đức cung kính lễ lạy Lỗ Ban, vị thợ tài ba ấy. Xây xong lầu Quán Âm rồi, ông bèn dặn thợ lập một cái miếu cho Lỗ Ban ở phía đông cách đó không xa. Vì Lỗ Ban tên thật là Công Thâu Ban, là người nước Lỗ nên dân chúng quen gọi là Lỗ Ban, do đó miếu có tên là “Công Thâu tử miếu”.

Hiện nay cái miếu tinh xảo, đặc thù ấy hãy còn tồn tại.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 10199)
Sự sinh ra cao quý, tự dothuận lợi này thật khó có được. Cầu mong con không lãng phísử dụng nó một cách có ý nghĩa.
(Xem: 11256)
Ta cần có những thiện hạnh để chấm dứt những dục vọng vô độ và việc coi mình là quan trọng; cách hành xử tránh điều độc hại như thuốc độc...
(Xem: 13594)
Xuất phát từ một nhận thức có tính thuyết phục về đạo Phật, quyển "Thuần Hóa Tâm Hồn" được viết với một văn phong hiện đại, trong sángtinh tế; nghiêm trang nhưng vẫn đan xen đôi nét hóm hỉnh.
(Xem: 13746)
Một cách khái quát, Thiền có thể hiểu là trạng thái tâm linh vút cao của một hành giả đã chứng ngộ. Với nghĩa này, Thiền cũng là Đạo, là Phật, là Tâm...
(Xem: 22224)
Các khoa học gia ngày nay trên thế giới đang có khuynh hướng chú trọng vào chế độ dinh dưỡng lành mạnh lấy chất bổ dưỡng từ nguồn thức ăn do thực vật đem lại...
(Xem: 21877)
Chúng tôi đi với hai mục đích chính: Thay mặt toàn thể Phật tử Việt Nam chiêm bái các Phật tích và viết một quyển ký sự để giới thiệu các Phật tích cho Phật Tử Việt Nam được biết.
(Xem: 27391)
Tâm tánh của chúng sinh dung thông không ngăn ngại, rộng lớn như hư không, lặng trong như biển cả. Vì như hư không nên thể của nó bình đẳng...
(Xem: 17791)
Tây phương Cực lạccảnh giới thanh tịnh giải thoát. Thanh tịnhvô nhiễm là thuần thiện, giải thoát là vượt ngoài ba cõi, vượt ngoài ba cõi là xả ly thế gian.
(Xem: 11742)
Tinh thần Đại thừa Phật giáo nhằm mục đích chuyển hóa cõi Ta-bà uế trược này trở thành Cực-lạc thanh lương. Sự phổ biến Phật giáo khắp mọi tầng lớp quần chúng là điều Phật tử phải thực hiện.
(Xem: 12331)
Là một tu sĩ Phật giáo Việt Namtrách nhiệm và nhiều nhiệt tình thì thấy điều gì hay trong Phật giáo tôi tán thán, biết việc gì dở tôi chê trách, đều nhằm mục đích xây dựng Phật giáo Việt Nam mà thôi.
(Xem: 25254)
Chúng ta tu Thiền là cốt cho tâm được thanh tịnh trong lặng. Từ tâm thanh tịnh trong lặng đó hiện ra trí vô sư. Trí vô sư hiện ra rồi thì chúng ta thấy biết những gì trước kia ta chưa hề thấy biết...
(Xem: 23296)
Đối tượng nghiên cứu của xã hội học là con người, trong khi đó, xã hội học Phật giáo có những bước nghiên cứu xa hơn không chỉ nói về con người mà còn đề cập đến các loài hữu tình khác...
(Xem: 28599)
Một chủ đề chính của cuốn sách này là qua thực hành chúng ta có thể trau dồi tỉnh giác lớn lao hơn suốt mỗi khoảnh khắc của đời sống. Nếu chúng ta làm thế, tự dolinh hoạt mềm dẻo liên tục tăng trưởng...
(Xem: 22780)
Chân thật niệm Phật, lạy Phật sám hối, giữ giới sát, ăn chay, cứu chuộc mạng phóng sinh. Đó là bốn điểm quan trọng mà sư phụ thường dạy bảo và khuyến khích chúng ta.
(Xem: 25725)
Con đường thiền tậpchánh niệm tỉnh giác, chứng nghiệm vào thực tại sống động. Khi tâm an định, hành giả có sự trầm tĩnh sáng suốt thích nghi với mọi hoàn cảnh thuận nghịch...
(Xem: 22315)
Với người đã mở mắt đạo thì ngay nơi “sắc” hiện tiền đó mà thấy suốt không chướng ngại, không ngăn che, nên mặc dù Sắc có đó vẫn như không, không một chút dấu vết mê mờ...
(Xem: 14004)
Trên đời này, hạnh phúc và khổ đau; chiến tranh và hòa bình; giàu và nghèo… nếu chúng ta chịu khó tu tập một chút và giữ tâm thật bình thản, chúng ta sẽ khám phá ra nhiều điều hay vô cùng.
(Xem: 13443)
Bước đường hành đạo của đức Phật thật sinh động trong khung cảnh Ấn Ðộ cổ đại được minh họa bằng các trích đoạn kinh kệ từ Tam Tạng Pàli nguyên thủy đầy thiền vị hòa lẫn thi vị...
(Xem: 22491)
Bắt đầu bằng cách bỏ qua một bên tất cả những mối quan tâm ở bên ngoài, và quay vào quán sát nội tâm cho đến khi ta biết tâm trong sáng hay ô nhiễm, yên tĩnh hay tán loạn như thế nào.
(Xem: 26401)
Kinh Nghĩa Túc đã bắt đầu dạy về không, vô tướng, vô nguyệnbất khả đắc. Kinh Nghĩa Túc có những hình ảnh rất đẹp về một vị mâu ni thành đạt.
(Xem: 18493)
Bản thể hiện tiền là Sự Sống Duy Nhất vĩnh hằng, luôn hiện tiền, vượt quá hằng hà sa số dạng hình thức sinh linh vốn lệ thuộc vào sinh và diệt.
(Xem: 18970)
Khi bạn chú tâm đến sự yên lặng, ngay lập tức có một trạng thái cảnh giác nhưng rất im lắng ở nội tâm. Bạn đang hiện diện. Bạn vừa bước ra khỏi thói quen suy tưởng của tâm thức cộng đồng...
(Xem: 34527)
Đây là phần thứ 2 trong 3 phần chính của cuốn Zen no Rekishi (Lịch Sử Thiền) do giáo sư Ibuki Atsushi soạn, xuất bản lần đầu tiên năm 2001 tại Tôkyô.
(Xem: 27395)
Thật ra chân lý nó không nằm ở bên đúng hay bên sai, mà nó vượt lên trên tất cả đối đãi, chấp trước về hiện hữu của Nhị Nguyên. Chân lý là điểm đến, còn hướng đến chân lý có nhiều con đường dẫn đến khác nhau.
(Xem: 28434)
Trong tiếng Phạn (Sanskrit), từ "Thiền" có ngữ nguyên là dhyâna. Người Trung Hoa đã dịch theo âm thành "Thiền na". Ý nghĩa "trầm tư mặc tưởng" của nó từ xưa trong sách vở Phật giáo lại được biểu âm bằng hai chữ yoga (du già).
(Xem: 21400)
Giác ngộ là sự hiểu biết đúng như thật; giải thoát là sự chấm dứt mọi phiền não khổ đau. Chỉ có sự hiểu đúng, biết đúng mới có sự an lạchạnh phúc...
(Xem: 14910)
Càng sống thiền định để thấu suốt cái vô thường, đau khổvô ngã trong đời sống thì ta càng dễ dàng mở rộng trái tim để có thể sống hòa ái và cảm thông cho tha nhân nhiều hơn.
(Xem: 19223)
Bồ Tát Quán Thế Âm là một trong những hình tượng gần gũi nhất với hầu hết tín đồ Phật giáo, dù ở bất cứ nơi đâu, dù thuộc tầng lớp nào. Ngài là biểu tượng của lòng đại bi...
(Xem: 10623)
Giáo dục của chúng ta là sự vun đắp của ký ức, sự củng cố của ký ức. Những thực hành và những nghi lễ của tôn giáo, đọc sách và hiểu biết của bạn, tất cả là sự củng cố của ký ức.
(Xem: 18582)
Đức Phật đã nhìn thấy rất rõ rằng, những trạng thái khác nhau của tâm và những hành động khác nhau của thân sẽ đưa đến những kết quả hoàn toàn khác biệt.
(Xem: 15668)
Phương pháp thiền tập được xuất phát từ phương Đông nhiều ngàn năm trước đây, sau khi được truyền sang phương Tây đã trở thành một phương pháp thực tập được nhiều người yêu thích...
(Xem: 13197)
Chư Bồ Tát, tùy theo hạnh nguyện thù thắng khác biệt mà mỗi vị mang một danh hiệu khác nhau, tựu trung hạnh nguyện của vị nào cũng vĩ đại rộng sâu không thể nghĩ bàn...
(Xem: 13423)
Tuy ra đời khá sớm trong dòng văn học Phật giáo, nhưng cho đến nay, điểm thú vị của độc giả khi đọc lại tập sách này là vẫn có thể nhận ra được những vấn đề quen thuộc với cuộc sống hiện nay của bản thân mình.
(Xem: 14031)
Chân lý chỉ có một, nhưng mỗi người đến với chân lý bằng một con đường khác nhau. Dù bằng con đường nào đi nữa thì đó cũng là hạnh phúc lớn nhất trong cuộc đời...
(Xem: 11796)
Đây là kết quả của 17 năm trường mà Ngài Huyền Trang đã ở tại Ấn Độ. Đi đến đâu Ngài cũng ghi lại từ khí hậu, phong thổ cho đến tập quán và nhất là những câu chuyện liên quan đến cuộc đời đức Phật...
(Xem: 11635)
Chính là nhờ vào con đường tu tập, vào sự bứng nhổ tận gốc rễ cái ảo tưởng rằng ta là một cá thể riêng biệt mà ta tìm lại được hạnh phúc chân thật sẵn có trong ta.
(Xem: 11347)
Đức Phật thuyết Pháp, chư tăng gìn giữ pháp Phật để vĩnh viễn lưu truyền làm đạo lý tế độ quần sanh. Vì thế, Phật, Pháp và Tăng là ba món báu của chúng sanh...
(Xem: 11905)
Sân chùa yên ả không một tiếng lá rơi. Mặt trời áp má lên những vòm cây xum xuê, chỉ để rớt nhiều đốm nắng rất nhỏ xuống đất, không nóng bức, không khó chịu...
(Xem: 19951)
Như những con người, tất cả chúng ta muốn an lạc hạnh phúc và tránh buồn rầu đau khổ. Trong kinh nghiệm hạn hẹp của mình, nếu chúng ta đạt đến điều này, giá trị bao la của nó có thể phát triển...
(Xem: 12401)
Ở xứ Tây Tạng, tạo hóa và dân sự dường như bảo nhau mà giữ không cho kẻ lạ bước vào! Núi cao chập chùng lên tận mây xanh có tuyết phủ...
(Xem: 13946)
Đức Phật Thích-ca Mâu-ni ra đời cách đây đã hơn 25 thế kỷ. Những gì ngài để lại cho cho chúng ta qua giáo pháp được truyền dạy khắp năm châu là vô giá...
(Xem: 13277)
Trong các vị cao tăng Trung Hoa, ngài Huyền Trang là người có công nghiệp rất lớn, đã đi khắp các nơi viếng Phật tích, những cảnh chùa lớn, quan sátnghiên cứu rất nhiều.
(Xem: 31997)
Những phương pháp và lời hướng dẫn mà Đức Phật đã đề ra giúp chúng ta có thể từng bước tiến đến một sự giác ngộ sâu xa và vượt bậc, và đó cũng là kinh nghiệm tự chúng Giác Ngộ của Đức Phật.
(Xem: 13445)
Vào một buổi chiều lười biếng ở Sydney, tôi mở Tivi và thấy chương trình Oprah Winfrey đang tranh luận về kiếp trước kiếp sau, cuộc tranh luận rất sôi nổi.
(Xem: 12759)
Đây là một cuốn nhật ký ghi chép cuộc hành trình đi về Ấn Độ để học đạo. Tác giả nhân khi chùa Văn Thù Sư Lợi tổ chức chuyến đi hành hương các Phật tích tại Ấn đã tháp tùng theo...
(Xem: 13339)
Sách gồm những lời phát biểu của Đức Đạt-Lai Lạt-Ma về Phật giáo và vài vấn đề liên quan đến Phật giáo, chọn lọc từ các bài diễn văn, phỏng vấn, các buổi thuyết giảng và các sách của Đức Đạt-Lai Lạt-ma.
(Xem: 11907)
Trời bên này đã thật sự vào thu rồi đó! Buổi chiều, con đường về nhà hai bên rừng có ngàn lá đổi sang màu trái chín, đẹp kỳ diệu.
(Xem: 21876)
Ni sư Ayya Khema viết quyển tự truyện này không vì mục đích văn chương, mà để chúng ta từ câu chuyện đời của Ni sư tìm được những bài học giá trị về con đường đạo Người đã đi qua.
(Xem: 11099)
“Đạo lý nhà Phật, là một nền đạo lý thâm trầm, siêu việt hơn hết”. Ấy là lời nói của nhiều nhà thông thái xưa nay trên hoàn võ, và cũng là một mối cảm của chúng tôi nữa.
(Xem: 12910)
Các chân sư thực hiện những kỳ công của các ngài mà không chút tự hào, với một thái độ giản dị hồn nhiên hoàn toàn như trẻ con. Các ngài biết rằng, năng lực của tình thương luôn che chở các ngài.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant