Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Lời Giới Thiệu

19 Tháng Tư 201100:00(Xem: 7899)
Lời Giới Thiệu

ÐỨC PHẬT LỊCH SỬ
The Historical Buddha
H.W. Schumann (1982) M. O' C. Walshe dịch sang Anh ngữ (1989)
Nguyên Tâm Trần Phương Lan dịch Việt (1997)
Viện Nghiên Cứu Phật Học Việt Nam Xuất Bản

Lời Giới Thiệu

 

Tác phẩm "Ðức Phật lịch sử" là một công trình nghiên cứu uyên thâm do tiến sĩ H. W. Schumann, một nhà Ấn Ðộ học người Ðức biên soạn và xuất bản đầu thập niên 90, sau 17 năm sống tại Ấn Ðộ để nghiên cứu đạo Phậtdu hành khắp vùng đã in dấu chân hoằng hóa của đức Phật cách đây 2500 năm. Tác phẩm này giới thiệu bậc Ðạo sư như một vĩ nhân trong lịch sử tư tưởng nhân loại đã đem niềm lại niềm tự hào cho đất nước Ấn Ðộ trước lòng ngưỡng mộ của thế giới Ðông Phương cũng như Tây Phương trong bao thế kỷ qua.

Ðó là hình ảnh của bậc Ðạo sư giản dị nhưng trí tuệ siêu việt, đã thuyết giảng giáo lý Trung Ðạo được thiết lập trên nền tảng vững chắc của Bốn Chân Lý Vi DiệuMười Hai Nhân Duyên, đưa ra một nhân sinh quan và vũ trụ quan mới cho xã hội Ấn Ðộ mang cổ đại truyền thống Vệ-đà hàng ngàn năm trước đã gây bao nỗi chán nản thất vọng cho những người mong cầu các kinh nghiệm tâm linh như thật đem lại ánh sáng Giác Ngộ Chân Lý.

Bước đường hành đạo của đức Phật thật sinh động trong khung cảnh Ấn Ðộ cổ đại được minh họa bằng các trích đoạn kinh kệ từ Tam Tạng Pàli nguyên thủy đầy thiền vị hòa lẫn thi vị, cùng một số địa đồ đầy đủ chi tiết các vùng đất xưa từng ghi dấu chân đức Phật Thế Tôn, từ vườn hoa Lumbini, nơi ngài đản sanh cho đến rừng Sàli ở Kusinàrà, nơi ngài viên tịch trong Niết-bàn tối hậu.

Phật giới học xưa nay đã quen thuộc với hình ảnh đức Bổn sư qua bao kinh điển cùng các tác phẩm nghiên cứu bình luận của nhiều học giả khắp thế giới, nhưng phần lớn các hình ảnh ấy đã được ít nhiều thần thoại hóa hay tiểu thuyết hóa theo quan điểm của mỗi soạn giả. Còn đặc điểm của tiến sĩ H. W. Schumann là đã dày công nghiên cứuxây dựng hình ảnh của đấng Giác Ngộ như một người sống thật của Ấn Ðộ, với những nhận xét khách quan của một học giả nghiên cứuhệ thống rõ ràng theo phương pháp khoa học. Cái nhìn của học giả H. W. Schumann về đức Phật có vẻ khác lạ với quan niệm về đức Phật của Phật tử Việt Nam, nhưng đó chính là điều bổ ích làm tăng giá trị của quyển sách trong sự đóng góp vào kiến thức Phật học của tôn giả cùng Phật tử Việt Nam.

Riêng tôi được đọc sách này qua bản dịch tiếng Anh của ông M.O'C. Walshe, người mà tôi đã gặp và làm việc chung tại Luân Ðôn trong Giáo Hội Tăng Già Anh Quốc (English Sangha Trust) nhiều năm qua. Ông Maurice Walshe là người Anh gốc Ðức, một nhà Phật học nổi tiếng, đã dịch quyển "Ðức Phật Lịch Sử" này; vì vậy quyển sách không những có giá trị về phương diện ngôn ngữ do sự hợp tác của soạn giả và dịch giả trong sự hiểu biết thấu đáo về Phật giáo nguyên thủy cùng ngôn ngữ Ðức-Anh.

Nhận thấy tác phẩm này có công dụng thực tiễn phương diện nghiên cứu Phật học rất cần thiết cho Viện Nghiên Cứu Phật Học Việt Nam và giới Phật tử Việt Nam trong giai đoạn hiện tại, tôi giao phó việc phiên dịch tác phẩm sang tiếng Việt cho cư sĩ Nguyên Tâm Trần Phương Lan, giáo sư phụ trách môn Anh Văn Thuật Ngữ Phật học tại Học Viện Phật Giáo Việt Nam, Thành Phố HCM, cũng là một dịch giả của Bộ Jàtaka (Kinh Bổn Sanh hay Chuyện Tiền Thân Ðức Phật) thuộc Tiểu Bộ Kinh, tạng Pàli, một tác phẩm đặc sắc thấm đậm truyền thống phong tục xã hội đời thường ở cổ Ấn Ðộ từ thời đức Phật tại thế cùng Thánh chúng của ngài cho đến vài thế kỷ sau qua những câu chuyện đầy tình người hòa lẫn hương đạo.

Với niềm mong muốn các giới nghiên cứu Phật học Việt Nam đón nhận một quyển sách có giá trị mới ra đời, cùng cống hiến cho Phật tửđộc giả Việt Nam một công trình nghiên cứu thấu đáo.

Chúng tôi xin trân trọng giới thiệu dịch phẩm "Ðức Phật Lịch Sử".

Xuân Ðinh Sửu, 1997
Phó Viện Trưởng Viện Nghiên Cứu Phật Học Việt Nam
Tỳ-kheo Thích Thiện Châu


Lời Tựa Của Tác Giả

Thật hiếm nhân vật trong lịch sử tư tưởng nhân loại từng có ảnh hưởng rộng lớn và lâu dài như đức Phật Siddhattha Gotama, và cũng không ai từng để lại dấu ấn sâu đậm trên toàn Châu Á như ngài. Ðạo giáo do ngài sáng lập không chỉ đem lại nguồn an ủi cho vô số người mà còn cung cấp nền tảng học thuyết nhân bản cao thượng và một di sản văn hóa vô cùng tế nhị. Bài thuyết pháp đầu tiên do đức Phật dạy tại Lộc Uyển (Sàrnàth) gần Benares năm 528 trước CN là một sự kiện lớn đem lại những kết quả đầy lợi lạc liên tục mãi đến thời đại này.

Nhan đề "Ðức Phật Lịch Sử" nói lên cả chủ điểm của quyển sách cùng các giới hạn phạm vi của nó. Sách này không đề cặp các đức Phật phi lịch sử trong quá khứ và tương lai vẫn thường được nhắc đến qua Kinh Ðiển Phật giáo; nó cũng loại bỏ các truyền thuyết hoang đường bao phủ quanh cá nhân của đức Phật lịch sử, ngoại trừ những điểm có thể tìm thấy tính chất lịch sử trong đó. Sách này bàn đến con người với những đặc tính phi thần thoại của một bậc Ðạo Hiền Trí, cùng với thời đại ngài sinh trưởnghoàn cảnh chính trị xã hội đã tạo điều kiện cho ngài thực hiện sứ mạng cao cả đưa đến thành công như vậy.

Vì trước đây đã có nhiều sử sách về cuộc đời đức Phật, nên một quyển lịch sử mới ra đời cần có sự minh chứng rõ ràng. Ðiều này nằm trong sự thật là ngành Ấn Ðộ học ở cương vị một khoa học cuối cùng đã chịu bước ra khỏi tháp ngà từ hai thập niên vừa qua và giờ đây chuyển hướng nhìn theo cách quan sát kỹ các đại tư tưởng gia Ấn Ðộ trong bối cảnh các biến cố của thời đại cùng môi trường xung quanh các ngài. Thời đại đức Phật, khoảng thế kỷ thứ sáu đến thế kỷ thứ năm trước CN, đã được soi rọi trong một làn ánh sáng mới mẻ, kết quả của nhiều cuộc nghiên cứu đầy công phu vừa qua.

Giờ đây đức Phật không còn được nhìn như một thánh nhân đang du hành trên hư không, ta có thể nói như vậy, mà là một nhà sáng lập đầy trí tuệ về mọi vấn đề thế gian, đã hiểu biết cách tận dụng các hòan cảnh chính trị với tài năng lãng đạo có kế hoạch tinh xảo, quả thật, giống như một nhân vật có thể sánh với đệ nhất vĩ nhân trong thời hiện đại là Mahàtma Gandhi (bậc Ðại trí Gandhi), một người đã hoàn thành xứ mạng của mình không chỉ vì đó là một người Ấn Ðộ có đức độ thành tín mà còn là một luật sư xuất chúng và là một tư tưởng gia có một đầu óc thực tiễn.

Không có thời kỳ nào trong lịch sử thực sự là thời đại "cổ sơ hoàn hảo" cả, và thời đức Phật cũng không phải là ngoại lệ như đã được chứng tỏ qua sự quan tâm của dân chúng đến các tân học thuyết về giải thoát mới xuất hiện. Chúng ta muốn công bằng nhận xét thuở đó như một thời đại con người không khác chúng ta về trí thông minh cũng như về tiêu chuẩn đạo đức, nhưng chỉ có một thế giới quan khác ta, và ít có quyền năng kỹ thuật đối với các sức mạnh thiên nhiên mà thôi. Còn con người thời ấy cũng bị các dục vọng chi phối giống hệt như chúng ta ngày nay vậy.

Nhiều người theo đạo Phật đôi khi chủ trương rằng cá nhân đức Phật không quan trọng, vì rằng không phải các sự kiện thoáng qua trong quãng đời ngài, mà chính toàn thể giáo lý vượt thời gian của ngài mới đáng cho chúng ta chú tâm. Cũng có vài điều cần bàn về quan điểm này, và quả thực chúng ta đặt đức Phật ra ngoài hệ thống giáo lý của ngài mà không loại trừ một yếu tố căn bản nào trong đó. Song về phương diện khác, mỗi quan điểm triết lý là một cách giải thích chứng minh hợp lý thái độ tinh thần của tư tưởng gia sáng tạo ra nó. Một người khác hay một người cùng ở trong các hoàn cảnh khác nhau đã có thể phát triển thái độ tâm lý khác và do vậy có thể lý luận cách khác, nghĩa là người ấy có thể suy tư cách khác. Như thế, người sáng lập hệ thống giáo lý xứng đáng được quan tâm như một cá nhân trong bối cảnh thời đại của vị ấy, nhất là đối với con người Phương Tây vẫn thường suy nghĩ theo tương quan lịch sử; đối với họ. Phương pháp đạt một tri kiến toàn diện cũng đáng chú ý như Thực chất của nó vậy.

Hệ thống tôn giáo triết lý hướng đến giải thoátđức Phật thuyết giảng cho người Ấn Ðộ đương thời trong vòng 45 năm hành đạo của ngài được phát họa ở đây trong hình thái cổ sơ nhất từng được biết đến. Còn các độc giả nào muốn tìm hiểu những sự phát triển về sau của giáo lý đức Phật cần tham khảo một sách khác của tôi: "Buddhism, An Outline of Its Teachings and Schools" (Ðạo Phật: Sơ Lược Các Giáo LýTông Phái), NXB Rider, London.

Vì trong sách biên khảo này chúng tôi không quan tâm đến các chi tiết triết lý, mà chỉ chú trọng các mối tương quan hoặc sự kiện lịch sử của cá nhân, nên khả dĩ chấp nhận việc nêu ra các lời dạy của bậc Ðạo Sư trong hình thức giản lược hoặc diễn dịch cho dễ hiểu. Như thế lời dạy có thể sinh động hơn là được trình bày theo lối văn thánh điển thường trùng lập, đó là sản phẩm của nhiều đại hội Tăng chúng duyệt Kinh Tạng Pàli.

Kinh điển bằng ngôn ngữ Pàli nguồn quan trọng nhất đối với người viết lịch sử đức Phật, như vậy các danh từ riêng và thuật ngữ Phật học ở đây đều theo tiếng Pàli. Ví dụ: Nibbàna (Pàli) thay vì Nirvana (Sanskrit). Những danh từ hay thuật ngữ khác đều theo hình thức nào thông dụng nhất: Sanskrit, Prakrit Hindì.

Lẽ ra có thể minh họa sách này với nhiều tranh ảnh hình tượng Phật. Nhưng tôi đã tránh làm điều này vì các ảnh tượng của đức Phật qua nghệ thuật Ấn Ðộ chỉ xuất hiện khoảng bốn thế kỷ rưỡi sau khi bậc Ðạo Sư tịch diệt, không lâu trước CN và chúng tiêu biểu, không phải đức Phật Gotama lịch sử mà là bậc Ðại Siêu Nhân (Mahàpurisa) đã được biến thành huyền thoại thần kỳ. Như vậy việc đưa những tranh ảnh nghệ thuật Phật giáo vào đây có thể tạo nên những yếu tố huyền thoại đã được gạn lọc ra từ đầu. Ðức Phật lịch sửđức Phật không có hình tượng nào cả.

Tôi chân thành cảm tạ tất cả những vị giúp tôi thực hiện quyển sách này. Trước tiên là hiền phụ của tôi trong suốt năm năm liền đã dành mọi buổi chiều tối yên lặng làm việc, trước ở Bonn và về sau ở Colombo, vì vậy phải hy sinh nhiều dự án cộng tác khác.

Tôi cũng hết lòng cảm ơn Thượng Tọa Ðại Trưởng Lão người Ðức, tôn giả Nyànaponika, ở Sơn Lâm Thảo Ðường (the Forest Hermitage), Kandy, Tích Lan, về sự hỗ trợ rất hào hiệpnỗ lực kiên trì ngài dành cho tôi. Mặc dù bận rộn các tác phẩm văn học của ngài cùng các nhu cầu biên tập của Hội Xuất Bản Phật Học, ngài cũng tìm được thời giờ đọc bản thảo của tôi thật cẩn thận. Những ý kiến bình luận của ngài đã đóng góp rất lớn vào việc cải thiện tính cách chính xác trong vài phần của sách này.

Cuối cùng nhưng không kém quan trọng, tôi xin tỏ bày lòng biết ơn đối với ông M. O'C. Walshe, người dịch sách này sang tiếng Anh. Dịch giả nguyên là giảng sư đại học môn Văn Chương Ðức Ngữ, Phó Chủ Tịch Hội Phật học ở Luân Ðôn, đã từng dịch bộ Dìgha Nikàya (Trường Bộ Kinh) sang tiếng Anh, và là tác giả nhiều sách khác nữa, quả thật không có ai đầy đủ khả năng hơn để đảm trách công tác phiên dịch này.

H. W. Schumann

Chú Thích Về Bản Niên Ðại

Ðôi lời giải thích về niên đại của đức Phật lịch sử ghi trong sách này, theo bản niên đại đã được hiệu đính của Tích Lanđa số chấp nhận, đức Phật đã sống trong khoảng từ 563 đến 483 trước CN. Khuyết điểm rõ ràng của bản niên đại này được nhiều nhà Ấn Ðộ học trước kia công nhận đã khiến Giáo sư P.H L. Eggermont đặt lại vấn đề ấy trong bốn bài báo trên tạp chí Persica giữa năm 1965 và 1979, từ đó, ông được Giáo sư Heinz Bechert ủng hộ (trong tạp chí Indoldgia Taurinensia X, 1982). Cả hai học giả đều tin rằng các sử gia viết tiếng Sinhala (Sri-lanka) đều sai và hai vị ghi niên đại của đức Phật vào khoảng 115 năm sau đó. Lý luận của các vị ấy cũng đáng chú ý nhưng cần phải triển khai thêm trước khi chúng được xem là cung cấp chứng cớ cuối cùng và đưa đến một bản mới có thể chấp nhận được được thay vào bản niên đại đã được chấp nhận trước kia. Do đó, tôi chưa chấp nhận chúng, nhưng sẵn sàng để độc giả rút bớt 115 năm từ các niên đại ghi những sự kiện trong cuộc đời đức Phật lịch sử.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14302)
Toàn bộ lý do vì sao phải học tập về Giáo Pháp (Dhamma), những lời dạy của Đức Phật, là để tầm cầu một con đường vượt qua khổ não, đạt đến an bìnhhạnh phúc.
(Xem: 14562)
Trong Phật giáo, chúng ta không tin vào một đấng Tạo hóa nhưng chúng ta tin vào lòng tốtgiữ giới không sát hại sinh linh. Chúng ta tin vào luật nghiệp báo nhân quả...
(Xem: 11841)
Ðạo Phật cốt đào luyện tâm hồn người hoàn toàn trong sạch, nên cực lực sa thải những tính: tham lam, sân hận, oán thù... đang trú ẩn trong tâm giới người.
(Xem: 14356)
Với niềm vui lớn lao, vua Tịnh Phạn chúc mừng hoàng hậu và thái tử vừa mới đản sinh. Dân chúng tổ chức các buổi hội hè tưng bừng và treo cờ kết hoa rực rỡ trên toàn quốc.
(Xem: 13269)
Tập sách này gồm có những bài viết đơn giản về Phật Pháp Tại Thế Gian, Cốt Tủy Của Ðạo Phật, Vô Thượng Thậm Thâm Vi Diệu Pháp, những điều cụ thể, thiết thực...
(Xem: 14634)
Tập sách này là kết tập những bài báo viết trên Bản Tin Hải Ấn và Phật Giáo Việt Nam trong cùng một chủ đề. Đó là Con Đường Phát Triển Tâm Linh.
(Xem: 12641)
Chúng tôi viết những bài này với tư cách hành giả, chỉ muốn đọc giả đọc hiểu để ứng dụng tu, chớ không phải học giả dẫn chứng liệu cụ thể cho người đọc dễ bề nghiên cứu.
(Xem: 25230)
Cư sĩ sống trong lòng dân tộc và luôn luôn mang hai trọng trách, trách nhiệm tinh thần đối với Phật Giáo và bổn phận đối với cộng đồng xã hội, với quốc gia dân tộc.
(Xem: 27865)
Chúng tôi viết quyển sách này cho những người mới bắt đầu học Phật. Bước đầu tuy tầm thường song không kém phần quan trọng, nếu bước đầu đi sai, những bước sau khó mà đúng được.
(Xem: 26339)
Pháp môn Tịnh Độ cao cả không cùng, rộng lớn như trời che đất chở. Đây là Pháp môn tổng trì của chư Phật ba đời, là đạo mầu đặc biệt trong một đời giáo hóa của đức Thích Ca.
(Xem: 17228)
Đôi khi mọi người nghĩ cái chết là sự trừng phạt những việc xấu xa mà họ đã làm, hoặc là sự thất bại, sai lầm, nhưng cái chết không phải như vậy. Cái chết là phần tự nhiên của cuộc sống.
(Xem: 16525)
Sách này nói về sự liên quan chặt chẽ giữa con người và trái đất, cả hai đồng sinh cộng tử. Con người không thể sống riêng lẻ một mình nếu các loài khác bị tiêu diệt.
(Xem: 15914)
Cuốn sách “Tin Tức Từ Biển Tâm” của nhà văn Phật giáo Đài Loan – Lâm Thanh Huyền – quả là một cú “sốc” tuyệt vời đối với các nhà Phật học Việt Nam.
(Xem: 22134)
Người cư sĩ tại gia, ngoài trách nhiệm và bổn phận đối với gia đình, xã hội còn có nhiệm vụ hộ trì Tam Bảo. Cho nên trọng trách của người Phật Tử tại gia rất là quan trọng...
(Xem: 17131)
Mỗi sáng lúc mới thức dậy, trong trạng thái mơ màng chưa tỉnh hẳn, chúng ta phải bắt đầu lôi kéo tâm thức vào một đường hướng rõ ràng: tự đánh thức lên lòng ngưỡng mộ cao rộng đến buổi rạng đông...
(Xem: 24900)
Làm sao tôi có thể hành thiền khi quá bận rộn với công việc và gia đình? Làm sao tôi có thể phối hợp hoạt động với ngồi yên một chỗ? Có các nữ tu sĩ không?
(Xem: 21955)
An Lạc phải bắt đầu từ nơi mỗi chúng ta mà từ, bi, hỉ, xả là nền tảng. Có từ, bi, hỉ, xả, thì đi đâu ta cũng gieo rắc tình thương và sự hòa hợp...
(Xem: 19057)
Tập sách này không phải là một tiểu luận về tâm lý học nên không thể bao quát hết mọi vấn đề nhân sinh, mục đích của nó nói lên sự tương quan của Ý, Tình, Thân và tiến trình phiền não...
(Xem: 16170)
Đức Phật tuy đã nhập diệt trên 25 thế kỷ rồi, nhưng Phật pháp vẫn còn truyền lại thế gian, chân lý sống ấy vẫn còn sáng ngời đến tận ngày hôm nay. Đây là những phương thuốc trị lành tâm bệnh cho chúng sanh...
(Xem: 21720)
Những gì chúng ta học được từ người xưa và cả người nay dĩ nhiên không phải trên những danh xưng, tiếng tăm hay bài giảng thơ văn để lại cho đời, mà chính ngay nơi những bước chân của người...
(Xem: 16779)
Đối với Phật giáo, tính cách quy ước của tâm thức biểu lộ từ một sự sáng ngời trong trẻo. Những khuyết điểm làm ô uế nó không nội tại nơi bản chất của nó mà chỉ là ngoại sanh.
(Xem: 14664)
Đọc “Trung bộ kinh” chúng ta có được một đường lối tu hành cụ thể như một bản đồ chỉ rõ chi tiết, đưa ta đến thành Niết bàn, cứu cánh của phạm hạnh.
(Xem: 16698)
J. Krishnamurti, cuộc sống và những lời giáo huấn của ông trải dài trong phần lớn thế kỷ hai mươi, được nhiều người tôn vinh là một con ngườiảnh hưởng sâu sắc nhất vào ý thức của nhân loại...
(Xem: 25026)
“Cái tiến trình” là một hiện tượng thuộc cơ thể, không nên lầm lẫn với trạng thái tinh thần mà Krishnamurti viết trong quyển này bằng nhiều từ khác biệt như là “phước lành”, “cái khác lạ”...
(Xem: 18770)
Quyển sách này là kết quả của những cuộc nói chuyện và những cuộc thảo luận được tổ chức ở Ấn độ bởi J. Krishnamurti với học sinh và giáo viên của những trường học tại Rishi Valley...
(Xem: 21197)
Gốc rễ của xung đột, không chỉ phía bên ngoài, nhưng còn cả xung đột phía bên trong khủng khiếp này của con người là gì? Gốc rễ của nó là gì?
(Xem: 14775)
Với hầu hết mọi người chúng ta, sự liên hệ với một người khác được đặt nền tảng trên sự lệ thuộc, hoặc là kinh tế hoặc là tâm lý. Lệ thuộc này tạo ra sợ hãi...
(Xem: 14371)
Bàn về Cách kiếm sống đúng đắn tìm hiểu những phương cách cho chúng ta tham gia, nhưng không đắm chìm, công việc của chúng ta. Trong một thế giới điên cuồng để sản xuất...
(Xem: 16611)
Phật Giáo dạy nhân loại đi vào con đường Trung Đạo, con đường của sự điều độ, của sự hiểu biết đứng đắn hơn và làm thế nào để có một cuộc sống dồi dào bình anhạnh phúc.
(Xem: 18012)
Đọc Tu Bụi của tác giả Trần Kiêm Đoàn, tôi có cảm tưởng như nhìn thấy một mảnh bóng dáng của chính mình qua nhân vật chính là Trí Hải. Đời Trí Hải có nhiều biến cố.
(Xem: 12921)
Suy nghĩ không bao giờ mới mẻ, nhưng sự liên hệ luôn luôn mới mẻ; và suy nghĩ tiếp cận sự kiện sinh động, thực sự, mới mẻ này, bằng nền quá khứ của cái cũ kỹ.
(Xem: 14942)
Hầu hết mọi người sẽ vui mừng để có một sự an bình nào đấy của tâm hồn trong đời sống của họ. Họ sẽ hân hoan để quên đi những rắc rối, những vấn đề...
(Xem: 12700)
Sau thời công phu khuya, tôi được phân công quét chùa. Tay cầm chiếc chổi chà, tôi nhẹ bước ra sân và leo lên cầu thang phía Ðông lang chính điện.
(Xem: 13885)
Điều làm cho một người trở thành một Phật tử chân chính là người ấy tìm nơi nương tựaĐức Phật, Giáo pháp, và chư Thánh Tăng - gọi là Quy Y Tam Bảo.
(Xem: 14599)
Sống cùng với xã hộicần phải đi đến việc cùng chung có một tinh thần trách nhiệm cộng đồng. Còn kiến thức thì giúp chúng ta khám phá thiên nhiên đồng thời với nội tâm của chúng ta.
(Xem: 28020)
Đây là một quyển sách căn bản dành cho người muốn tìm hạnh phúc và sự bình an trong cuộc sống qua con đường tâm linh. Con đường Đạo của Đức Phật rất đơn giản, thích hợp với mọi người.
(Xem: 27179)
Trong Đường Xưa Mây Trắng chúng ta khám phá ra Bụt là một con người chứ không phải là một vị thần linh. Đó là chủ tâm của tác giả...
(Xem: 14346)
”Vượt Khỏi Giáo điều” không phải chỉ đề cập đến những vấn nạn đời thường, nó còn tiến xa hơn một bước nữa là vạch ra cho con người một hướng đi, một hành trình tu tập tâm linh hầu có thể đạt đến cứu cánh giác ngộ giải thoát ngay trong kiếp sống này.
(Xem: 20949)
Cuốn sách này là một bản dịch của Ban Dịch Thuật Nalanda về tác phẩm Bản Văn Bảy Điểm Tu Tâm của Chekawa Yeshe Dorje, với một bình giảng căn cứ trên những giảng dạy miệng do Chošgyam Trungpa Rinpoche trình bày.
(Xem: 14671)
Duy tâm của Phật giáo không công nhận có cảnh nào là cảnh thật, hết thảy các cảnh đều do tâm hiện, lá chuối cũng tâm hiện, bóng người cũng tâm hiện, như hoa đốm giữa hư không.
(Xem: 24174)
Để hỗ trợ cho việc phát triển và thực thi tâm hạnh từ bi, việc chủ yếu là phải vượt qua những chướng ngại. Nơi đó, hạnh nhẫn nhục đóng vai trò quan trọng...
(Xem: 28674)
Guru (Đạo Sư) giống như một viên ngọc như ý ban tặng mọi phẩm tính của sự chứng ngộ, một người cha và bà mẹ dâng hiến tình thương của mình cho mọi chúng sinh...
(Xem: 14733)
Cuốn sách nhỏ này không phải đã được viết ra để phô bày kiến thức của tác giảkiến thức ấy không có gì đáng để được phô bày. Nó mong ước được là một người bạn hơn là một cuốn sách.
(Xem: 13283)
“Không có tẩu thoát khỏi sự liên hệ. Trong sự liên hệ đó, mà là cái gương trong đó chúng ta có thể thấy chính chúng ta, chúng ta có thể khám phá chúng ta là gì...
(Xem: 16444)
Quyển sách này đã đem lại cho độc giả một cái nhìn mới của Tây phương đối với Phật giáo trước đây vốn hoàn toàn xa lạ và hiện nay đang rất thịnh hành ở châu Âu và châu Mỹ.
(Xem: 27228)
Milarepa là Thánh St. Francis của Tây Tạng. Chúng ta không thể nhầm lẫn âm điệu của những ca khúc này với âm điệu của những ca khúc Fioretti...
(Xem: 12018)
Trí Phật là trí kim cương. Thân Phật là thân kim sắc, cõi Phật là cõi hoàng kim, thì Đạo Phật tất nhiên là Đạo Vàng. Ánh Đạo Vàngkim quang của đức Từ bi rộng lớn phá màn vô minh, chỉ rõ đường chánh.
(Xem: 16074)
Milarepa là một trong những đạo sư tâm linh nổi tiếng nhất của mọi thời. Ngài không những là một nhà lãnh đạo kiệt xuất của dòng phái Kagyu, mà cũng là một đạo sư rất quan trọng đối với mọi trường phái của Phật giáo Tây Tạng.
(Xem: 21481)
Nếu bạn không suy nghĩ sự đau khổ của chu trình sinh tử, sự tan vỡ ảo tưởng với vòng sinh tử sẽ không sinh khởi.
(Xem: 12376)
Cuốn sách nhỏ này do Hòa Thượng Tiến Sĩ K. Sri Dhammananda là một cuốn sách có giá trị, đáp ứng được những câu hỏi như chết đi về đâu và chết rồi đã hết khổ chưa...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant