Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương VI: Luận Về Vãng Sanh Khó Hay Dễ

30 Tháng Tư 201100:00(Xem: 11054)
Chương VI: Luận Về Vãng Sanh Khó Hay Dễ

DU TÂM AN LẠC ĐẠO
Tác Giả: Sư Nguyên Hiểu nước Tân-La -Tỳ Kheo Thích Giác Chính dịch Việt
Nhà xuất bản Fahasa 2007

Chương VI
Luận Về Vãng Sanh Khó Hay Dễ

Gồm hai phần:

- Nói về nơi chốn hơn và kém
- Luận về vãng sinh khó hay dễ

1. Nói về hơn và kém: Nói chung về Thật đức thì làm gì có thua kém, bởi vì đều là Pháp vương thì đều gọi là Thiện Thệ. Báo thân có đủ vạn năng lực, Báo độ có đầy cảnh tốt đẹp, nhưng vì để hóa độ chúng sinh, nên đôi khi ở cõi uế nhiễm có nhiều núi đồi, hầm hố; ở cõi thanh tịnh toàn châu báu. Nhưng nếu luận về nơi chốn thì có hơn kém. Cung trời Đâu-suất thì nương vào hư không, còn cõi Cực Lạc thì đứng yên ổn trên đất. Như thế thì giữa trời và người có sự khác biệt. Nếu căn cứ vào cõi này mà so sánh với cõi kia thì cõi trời ưu việt hơn cõi người. Nếu luận bàn về tịnh và uế thì Đâu-suất là cõi uế, Cực Lạccõi tịnh; nếu phân biệt thô thì hai cõi có 14 điểm khác nhau. Đó là cõi trời Đâu-suất đất đai hạn hẹp, nam nữ sống lẫn lộn nhau, dục nhiễm hiện hành, có lui sụt, thọ 4000 tuổi, nhưng trong đó cũng có hạng người chết yểu. Về thân hình cũng như thế. Lại nữa, tâm luôn phát khởi ba tánh thiện, ác, vô kí. Do đó, nếu tâm duyên theo tánh ác thì sẽ bị đọa địa ngục, có ba thọ khổ, lạc, xả cùng hiện khởi, sáu trần cảnh khiến cho người buông lung. Con trai thì sinh ra từ nơi đầu gối của cha, con gái sinh ra từ đầu gối của mẹ, chỉ cho Bồ-tát là chủ thuyết pháp, có người được chứng Thánh quả, có người không chứng đắc. Còn cõi Tây Phương thì hoàn toàn ngược lại với cõi này. Nếu luận bàn theo nghĩa này thì cõi Tây Phương hơn hẳn.

2. Luận về vãng sinh khó hay dễ: Có thuyết cho rằng Tây Phương dễ sinh về, còn Đâu-suất khó sinh về. Có bảy nghĩa:

1. Cực Lạccõi người nên dễ sinh về. Đâu-suất là cõi trời nên khó sinh về.

2. Cực Lạc chỉ giữ năm giới thì được sinh về. Còn Đâu-suất phải tu đủ mười nghiệp thiện mới được sinh về.

3. Cực Lạc chỉ mười niệm được vãng sinh. Còn Đâu-suất phải tu đầy đủ bố thí, trì giới mới được sinh về.

4. Cực Lạc hoàn toàn nương vào bốn mươi tám đại nguyện của Đức Phật A-di-đà để được vãng sinh. Còn Đâu-suất thì chỉ dựa vào tự lực của mình để sinh về.

5. Cực Lạc có Bồ-tát Quán Thế Âm v.v… đang đến cõi này để khuyến tấn vãng sinh. Còn Đâu-suất thì không có việc này.

6. Cực Lạc được tất cả kinh luận khen ngợi, khuyến khích vãng sinh. Còn Đâu-suất chỉ có một kinh ca ngợi.

7. Xưa nay các bậc Đại đức phần nhiều đều hướng về Cực Lạc, ít ai hướng về Đâu-suất

Từ nghĩa này nên cho rằng Cực Lạc dễ vãng sinh, Đâu-suất khó sinh về.

Có thuyết lại cho rằng Đâu-suất dễ sinh về, còn Cực Lạc khó vãng sinh. Sở dĩ như thế là vì cung trời Tri Túc cùng ở tại cõi này, hàng Đại, Tiểu thừa đều tin nhận, đã là hóa thân, thì nhất định được vãng sinh.

Theo kinh Thượng Sinh, bốn chúng thực hành pháp Lục độ, hàng Bát bộ nghe tên đều hoan hỷ, sám hối nghiệp ác, tu mười điều thiện, hồi hướng nguyện sinh, thì tất cả đều được sinh về cõi Cực Lạc.

Theo Đối Pháp Luận, thì Biệt thời ý thú[1] nghĩa là có người nguyện sinh về cõi Cực Lạc thì được sinh về nhưng ở vào thời điểm khác, giống như mua bán, từ một đồng mà được ngàn đồng, cho nên, kinh nói: “Chẳng phải do nhân duyên thiện căn nhỏ mà được vãng sinh”.

Thiên Thân Luận[2] nói: “Người nữ, người thiếu căn, hàng Nhị thừa không được vãng sinh”. Lại tướng bạch hào của Đức Phật A-di-đà như năm Tu-di, há hàng phàm phu có thể thấy được tướng đó ư? Các nghĩa như thế được minh chứng chẳng phải là ít, cho nên vạn người nguyện sinh về cõi Cực Lạc đều được vãng sinh. Hoặc có thuyết cho rằng lý của hai thuyết trên hoàn toàn không cùng tận. Phàm vãng sinh khó hay dễ, tất cả đều tùy theo nhân duyên. Duyên nghĩa là Đồng thể Đại bi của chư Phật, Bồ-tát. Nhân là khởi nguyện tu hành của chín hạng người trong bốn chúng. Đồng thể Đại bi tuy không hạn cuộc ở nơi người, nhưng vì nghiệp của chúng sinh nên có sự sai khác. Nếu người nghiệp nhân thuần thục thì tùy theo nguyện liền được vãng sinh, chẳng phải vì lẽ trời người mà khó vãng sinh, mà do tịnh uếâ nên có ngăn ngại. Nếu người thiếu nhân nguyện hạnh, ở ngay trước mặt cũng không cảm được, há có thể cùng cõi mà dễ được vãng sinh ư? Lại nhờ hóa thân mà liền được diện kiến Như Lai. Do đó, trong thành Vương Xá hơn ba ức gia đình cùng ở chung mà không nghe đến danh hiệu của Như Lai. Còn trong thành Na-lặc-già, 90 ức người sống xa xôi cách trở như thế mà còn đến chiêm bái tướng sắc vàng của Như Lai, thế thìø biết khởi hạnh của chúng sinh vậy, do lệ thuộc vào thắng duyên mà còn hoặc mất. Hoặc có người tự tánh hệ thuộc A-di-đà, hoặc có người xưa nay hệ thuộc Di-lặc, tùy theo sở thuộc đó mà mỗi mỗi nhanh chóng đạt được đạo. Giả sử không có sự hệ thuộc, thì tốn công nhọc sức mà lợi ích chẳng bao nhiêu. Cho nên, Tỳ-mẫu của Trưởng giả, được La-hầu-la giáo hóa; Thiên tử cõi Phi tưởng, ngộ đạo nhờ Xá-lợi-phất. Thế thì, chuyên tâm vào nơi tôn kính, gắng sức mong cầu Tịnh nghiệp thì việc vãng sinh dễ như trong khoảng khảy móng tay, sao chỉ tranh nhau luận bàn về việc khó dễ? Nếu phát tâm, nhất định không ngại thì sáu việc[3] dễ thực hành, chín phẩm chẳng khó tu, tội nghiệp tuy nhiều, nhưng tiêu tan như ánh mặt trời chiếu soi cõi tối; đường đến tuy tối tăm cách trở, nhưng cũng được thông suốt như ấn vua khai lối tắc. Chỉ vì người học như kẻ “khắc thuyền tìm gươm”[4], như hành giả “ôm cây đợi thỏ”[5], nghi ngờ lời chân thật của tướng lưỡi rộng dài bao trùm ngàn cõi, mà tin nhận tiếng kêu rỗng suông của con ếch nằm đáy giếng mê mờ nhất tâm. Há chẳng phải là hạng người cất giữ sỏi đá, mà ném bỏ trân báu ư? Than ôi! Thật đáng thương thay!

Giải thích pháp số:

[1] Biệt thời ý thú (biệt thời ý, thời tiết ý thú): Như Lai dùng ý thú biệt thời để thuyết pháp, một trong bốn ý thú, nghĩa là lợi íchthời gian khác. Người nào tụng trì danh hiệu Phật Đa Bảo thì quyết định đối với Vô Thượng Bồ-đề không còn lui sụt hoặc người chỉ cần phát nguyện thì liền được vãng sinh cõi Phật An Lạc. Đây là Như Lai vì khuyên nhắc kẻ giải đãi không thích tu hành, nên nói lợi ích lúc khác mà chẳng nói lợi ích ngay lúc này. 

Nhiếp Đại Thừa Luận Thích, q. 6 (Đại 31, 194 trung) ghi: “Người thiện căn giải đãi nhờ tụng trì danh hiệu Phật Đa Bảo mà được tiến lên công đức thượng phẩm”.

Phật nói công đức thượng phẩm là nhằm vào người có hạnh cạn cợt, muốn cho họ bỏ giải đãi, siêng tu hành, chứ chẳng phải do tụng danh hiệu Phật mà được không lui sụt, quyết định đắc Vô Thượng Bồ-đề. Thí dụ từ một đồng tiền vàng do kinh doanh lâu ngày nên sinh ra nghìn đồng tiền vàng, chẳng phải trong một ngày được số tiền vàng đó. Một đồng tiền vàng là nhân sinh ra hàng nghìn đồng tiền vàng.

Ý Như Lai cũng vậy, tụng trì danh hiệu Phật là nhân để chẳng lui sụt Bồ-đề (TĐPH Huệ Quang, t. I, tr. 546).

[2] Thiên Thân (Thế Thân): một đại luận sư Ấn Độ, sống vào khoảng thế kỷ IV, V, người thành Phú-lâu-sa-phú-la, nước Kiện-đà-la thuộc Bắc Ấn Độ, là con thứ hai của Quốc sư Bà-la-môn Kiều-thi-ca. Lúc đầu, Sư cùng với anh là Vô Trước học Tát-bà-đa bộ (Hữu bộ). Ngài Vô Trước học thẳng vào Đại thừa, ngài Thiên Thân lại đi vào Kinh Lượng bộ, lập chí cải thiện giáo nghĩa Hữu bộ… Lúc đầu, Sư công kích Phật giáo Đại thừa, cho rằng Đại thừa chẳng phải là pháp do Phật nói. Sau nhờ ngài Vô Trước dùng phương tiện khai thị, Sư mới ngộ được lý Đại thừa, chuyển sang tin tưởng, tôn thờ và hoằng dương yếu nghĩa Đại thừa. Sư soạn nhiều luận và sách chú thích, đặt nền tảng cho phái Du-già thuộc Phật giáo Đại thừa. Các tác phẩm quan trọng, gồm hơn 40 loại: Luận Câu-xá (30 quyển), Nhiếp Đại Thừa Luận Thích (15 quyển), Thập Địa Kinh Luận (12 quyển), Kim Cương Bát-nhã Ba-la-mật Kinh Luận, Quảng Bách Luận, Luận Bồ-đề Tâm, Duy Thức Tam Thập Luận Tụng, luận Đại Thừa Bách Pháp Minh Môn, Vô Lượng Thọ Kinh Ưu-ba-đề-xá… (TĐPH Huệ Quang, t. VI, tr. 5408).

- Thiên Thân Luận (gọi đủ là Thiên Thân Nhiếp Luận, Thế Thân Nhiếp Luận): một trong năm bộ Nhiếp Luận. Đó là bộ luận do ngài Thế Thân biên soạn để giải thích bộ Nhiếp Luận của ngài Vô Trước. Bộ Luận này có ba bản dịch: Bản dịch của ngài Chân Đế đời Trần, gồm 15 quyển, gọi là Nhiếp Đại Thừa Luận Thích; bản dịch của ngài Cấp-đa đời Tùy, gồm 10 quyển, gọi là Nhiếp Đại Thừa Thích Luận; bản dịch của ngài Huyền Trang đời Đường, gồm 10 quyển, gọi là Nhiếp Đại Thừa Luận Thích (TĐĐPB).

[3]Sáu việc (Lục sự pháp): theo Quán Di-lặc Thượng Sinh Đâu-suất Thiên Kinh Tán, q. hạ, tr. 295b ghi:

1. Tinh tấn tu tập, gieo trồng phước nghiệp trong ba ruộng Kính, Ân, Bi.

2. Giữ gìn oai nghi và các giới nghiêm mật, hành trì các quy tắc một cách tự tại.

3. Siêng năng quét dọn chùa tháp, trang nghiêm đạo tràng đúng theo giáo pháp chế định.

4. Cúng dường hương hoa, tùy nghi cung cấp những vật dụng trong bốn việc ẩm thực, y phục, phòng xá, y dược…

5. Phàm phu hành trì nhập định Tam-muội hữu lậu, bậc Thánh nhập định vô lậu tùy theo đó mà đắc thiền.

6. Đọc tụng kinh điển, diễn thuyết tu tập 10 pháp hành v.v…

[4] Khắc chu cầu kiếm (Khắc chu nhân): chuyện khắc chu cầu kiếm trong thiên Sát Kiếm của Lã Thị Xuân Thu. Chuyện ghi: “Có một người qua sông, vô ý đánh rơi kiếm xuống sông. Người ấy vội vã khắc lên thuyền để đánh dấu chỗ kiếm rơi. Thuyền đã đi đến nơi khác rồi mà người kia vẫn theo dấu khắc ấy lặn xuống sông tìm kiếm. Kết quả tìm hoài chẳng được”.

Trong Thiền tông dùng từ ngữ này để chỉ cho người học ngu si chấp trước, thiếu sự linh hoạt đối với cơ pháp của bậc thầy (TĐPH Huệ Quang, t. III, tr. 2276).

[5] Thủ chu đãi thố (ôm cây đợi thỏ): Truyền thuyết kể rằng thời Chiến Quốc, ở nước Tống có một người nông dân thấy một con thỏ đâm đầu phải gốc cây mà chết, anh ta bèn bỏ cả việc cày bừa ngồi ôm gốc cây để chờ con thỏ khác lại đâm đầu vào gốc cây ấy nữa (Từ điển Hán-Việt, VNNH, Phan Văn Các chủ biên, Nxb Tp. HCM, 2001, tr. 1309).
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 34440)
Phát Bồ đề tâm, nói đơn giản, là trước hết, lập cái chí nguyện mong cầu tuệ giác Vô thượng Bồ đề, kế đó, phát triển tuệ giác ấy...
(Xem: 16896)
Trong các công hạnh đơn giản mà sâu dày và khó thực hiện cho vẹn toàn nhất là hạnh buông xả. Hành giả Phật giáo lấy tâm buông xả làm công hạnh hàng đầu.
(Xem: 23017)
Một chút ánh sáng nhỏ nhoi, giúp con soi tỏ những giọt mồ hôi không hình nơi mẹ. Nhưng phải tự khi làm mẹ, mới thấu vô vàn cái nhọc mẹ mang.
(Xem: 13077)
Ra khỏi bóng tối - Thích Nữ Diệu Nghiêm dịch
(Xem: 22021)
Hôm nay, mùa Vu Lan báo hiếu lại trở về trên xứ Việt, hòa chung với niềm vui lớn này, xin được san sẻ cùng em đôi điều về đạo hiếu của con người.
(Xem: 22272)
Ngài Mục Liên là một tấm gương sáng chói tượng trưng cho lòng chí hiếubáo ân. Ngài đã thực hành phép sám hối để báo ân mà cứu được mẹ thoát khỏi địa ngục.
(Xem: 14895)
Kinh Phạm Võng dạy rằng “Người Phật tử nếu lấy tâm từ mà làm việc phóng sinh thì thấy tất cả người nam đều là cha mình, tất cả người nữ đều là mẹ mình.
(Xem: 23647)
Tâm Bồ đề là tâm rõ ràng sáng suốt, tâm bỏ mê quay về giác, là tâm bỏ tà quy chánh, là tâm phân biệt rõ việc thị phi, cũng chính là tâm không điên đảo, là chân tâm.
(Xem: 24194)
Cái chết theo Tan-tra thừa là một quá trình tan biến tuần tự của thân xác vật chấttâm thức, các hiện tượng tan biến này được phân loại thành nhiều cấp bậc...
(Xem: 23744)
Quyển "THIỀN QUÁN - Tiếng Chuông Vượt Thời Gian" là một chuyên đề đặc biệt giới thiệu về truyền thống tu tập thiền Tứ Niệm Xứ của đức Phật dưới sự hướng dẫn của thiền sư U Ba Khin.
(Xem: 17182)
Tôi đã lắng nghe Krishnamurti suốt nhiều ngày. Tôi đến những nói chuyện của ông, tham gia những bàn luận, ngẫm nghĩ...
(Xem: 19401)
Chính Ðức Phật đã dạy: “Trong các sự bố thí chỉ có Pháp thícông đức lớn nhất, không có công đức nào sánh bằng” ... Thích Chân Tính
(Xem: 27138)
Phật-pháp là trí tuệ thực nghiệm dạy chúng ta nhận định được bản chất căn bản của chúng tagiải thoát chúng ta khỏi sự sa đọa thành nạn nhân đối với những huyễn tượng...
(Xem: 14448)
Hiện nay câu hỏi này là một quan tâm chính đối với mọi người, bởi vì khoa học và công nghệ hiện đại đã phơi bày rõ ràng những khả năng xảy ra sự hủy diệt to tát.
(Xem: 13875)
Điều gì cần thiết là một cái trí không bị hành hạ, một cái trí rất rõ ràng. Và một cái trí như thế không thể hiện diện được nếu nó có bất kỳ loại thành kiến nào.
(Xem: 22739)
Đức Phật Thích Ca Mâu NiPhật Bảo. Ba tạng kinh luật luận do đức Phật Thích Ca Mâu Ni thuyết ra là Pháp Bảo. Chư tăng đệ tử xuất gia của Phật đàTăng Bảo.
(Xem: 14800)
Điều lạ thường nhất về sống của Krishnamurti là những lời tiên tri được nói về anh trong thời thanh niên đã thành hiện thực, tuy nhiên trong một hướng khác hẳn điều gì được mong đợi.
(Xem: 17401)
Để có thể lắng nghe thực sự, người ta nên buông bỏ hay gạt đi tất cả những thành kiến, những định kiến và những hoạt động hàng ngày.
(Xem: 12715)
Nhìn vào toàn chuyển động của sống này như một sự việc; có vẻ đẹp vô cùng trong nó và năng lượng vô hạn; thế là hành động là trọn vẹn và có sự tự do.
(Xem: 13907)
Lúc này chúng ta hãy quan sát điều gì đang thực sự xảy ra trong thế giới; có bạo lực thuộc mọi loại; không chỉ phía bên ngoài mà còn cả trong sự liên hệ lẫn nhau của chúng ta.
(Xem: 10446)
Một cái trí chuyên biệt hóa không bao giờ là một cái trí sáng tạo. Cái trí mà đã tích lũy, mà đã đắm chìm trong hiểu biết, không thể học hành.
(Xem: 14748)
Khi năng lượng không bị hao tán qua sự tẩu thoát, vậy thì năng lượng đó trở thành ngọn lửa của đam mê. Từ bi có nghĩa đam mê cho tất cả. Từ biđam mê cho tất cả.
(Xem: 17231)
Ngài giáng sinh nơi vườn Lâm Tỳ Ni (Lumbini), thành đạoBồ Đề Đạo Tràng (Bodh Gaya), thuyết bài Pháp đầu tiên tại vườn Lộc Uyển (Sarnath) và nhập Niết Bàn tại Câu Thi Na...
(Xem: 12584)
Chúng tathói quen tạo ra một trừu tượng về sợ hãi, đó là, tạo ra một ý tưởng về sợ hãi. Nhưng chắc chắn, chúng ta không bao giờ lắng nghe tiếng nói của sợ hãi đang kể câu chuyện của nó.
(Xem: 12755)
Có một khác biệt giữa không gian bên ngoài, mà vô giới hạn, và không gian bên trong chúng ta hay không? Hay không có không gian bên trong chúng ta gì cả và chúng ta chỉ biết không gian bên ngoài mà thôi?
(Xem: 10397)
Chúng ta là kết quả của những hành động và những phản ứng của mỗi người; văn minh này là một kết quả tập thể. Không quốc gia hay con người nào tách rời khỏi một người khác...
(Xem: 28751)
Đức Đạt-Lai Lạt-Ma khích lệ chúng ta hãy triển khai lòng tốttình thương yêu mà Ngài luôn luôn quả quyết là những phẩm tính ấy đều đã có sẵn trong lòng mỗi con người chúng ta.
(Xem: 10748)
Sự liên hệ giữa bạn và tôi, giữa tôi và một người khác, là cấu trúc của xã hội. Đó là, liên hệ là cấu trúc và bản chất của xã hội. Tôi đang đặt vấn đề rất, rất đơn giản.
(Xem: 11164)
Lúc này tôi nghĩ có ba vấn đề chúng ta phải thấu triệt nếu chúng ta muốn hiểu rõ toàn chuyển động của sống. Chúng là thời gian, đau khổ và chết.
(Xem: 16914)
Phật pháp cho trẻ em - Tác giả: Jing Yin và Ken Hudson - Minh họa: Yanfeng Liu - Biên soạnchuyển ngữ: Tâm Minh Ngô Tằng Giao
(Xem: 15802)
“Đông du” ngày nay đã trở thành một từ quen thuộc. Không chỉ đối với các nhà thám hiểm, khách du lịch, người khảo sát văn hóa, mà cả những nhà khoa học, nhà triết học.
(Xem: 13368)
Khai sáng không lệ thuộc thời gian. Thời gian, ký ức, hồi tưởng, nguyên nhân – chúng không tồn tại; vậy thì bạn có thấu triệt, thấu triệt tổng thể.
(Xem: 12595)
Sự lèo lái của sinh lý học, mặc dù là một phần của điều mà phương Tây chúng ta gọi là “tự nhiên,” từ quan điểm Phật giáo, chính là một phần cơ cấu của luân hồi sinh tử.
(Xem: 11410)
Có lẽ rất xứng đáng khi dùng một ít thời gian cố gắng tìm ra liệu cuộc sống có bất kỳ ý nghĩa nào hay không. Không phải cuộc sống mà người ta sống, bởi vì sự tồn tại hiện nay chẳng có ý nghĩa bao nhiêu.
(Xem: 13061)
Thiền định là hành động mà đến khi cái trí đã mất đi không gian nhỏ xíu của nó. Không gian bao la này mà cái trí, cái tôi, không thể đến được, là tĩnh lặng.
(Xem: 19356)
Lắng nghe là một nghệ thuật không dễ dàng đạt được, nhưng trong nó có vẻ đẹp và hiểu rõ tuyệt vời. Chúng ta lắng nghe với những chiều sâu khác nhau của thân tâm chúng ta...
(Xem: 12298)
Chắc chắn, giáo dục không có ý nghĩa gì cả nếu nó không giúp bạn hiểu rõ sự rộng lớn vô hạn của cuộc sống với tất cả những tinh tế của nó, với vẻ đẹp lạ thường của nó, những đau khổhân hoan của nó.
(Xem: 28699)
Sách này đặt tên "Kiến Tánh Thành Phật", nghĩa là sao? Bởi muốn cho người ngưỡng mộ tên này, cần nhận được lý thật của nó. Như kinh nói: "Vì muốn cho chúng sanh khai, thị, ngộ, nhập tri kiến Phật".
(Xem: 10086)
Chúng ta dường như không bao giờ nhận ra rằng nếu mỗi người chúng ta không thay đổi triệt để trong căn bản thì sẽ không có hòa bình trên quả đất...
(Xem: 21632)
Các sự gia hộ được nhận qua các luận giảng này về sáu giai đoạn chuyển tiếp giống như một con sông nước dâng cao vào mùa xuân...
(Xem: 12823)
Kêu gọi thế giới là tựa của một quyển sách vừa được phát hành tại Pháp (ngày 12 tháng 5 năm 2011), tường thuật lại cuộc tranh đấu bất-bạo-động của Đức Đạt-Lai Lạt-Ma hơn nửa thế kỷ nay...
(Xem: 17864)
Luật nhân quả không phải là luật riêng có tính cách tôn giáo. Trong vũ trụ, thiên nhiên, mọi sự vật đều chịu luật nhân quả, đó là luật chung của tự nhiên.
(Xem: 26342)
Đức Phật đã dạy chúng ta những cách sửa soạn bản thân cho sự chết bí ẩn và tận dụng những trạng thái của sự chết để tu tập. Nhiều vị Thầy đã viết sách về đề tài này.
(Xem: 11747)
Tốt lành chỉ có thể nở hoa trong tự do. Nó không thể nở hoa trong mảnh đất của thuyết phục dưới bất kỳ hình thức nào, cũng không dưới bất kỳ cưỡng bách nào...
(Xem: 10884)
Mọi hình thức thiền định có ý ‎thức không là một sự việc thực sự: nó không bao giờ có thể là. Cố gắngdụng ý khi thiền định không là thiền định.
(Xem: 22821)
Nếu hay tu trí tuệ thì không khởi phiền não. Trí tuệ vô ngã có thể từ chỗ nghe Phật pháp, thể nghiệm Phật lý, phản quan tự ngã, nhìn thấu nhân sinh mà có được.
(Xem: 12086)
Ngôi chùa nhỏ nằm khiêm tốn trong khoảng đất rộng đầy cây trái. Buổi tối, mùi nhang tỏa ra từ chánh điện hòa với mùi thơm trái chín đâu đó trong vườn.
(Xem: 10633)
Trước khi thành Thiền sư, Trúc Lâm đại sĩ đã từng làm vua nước Đại Việt. Đó là vua Trần Nhân Tông, người đã từng đẩy lui cuộc xâm lăng của quân Mông Cổ.
(Xem: 11433)
Tất cả mọi pháp hiện hữu, bắt đầu là cái Tôi, chẳng là gì cả ngoại trừ là những thứ được định danh. Không có các uẩn, không có thân, tâm, ngoại trừ những gì đã được ta quy gán.
(Xem: 11551)
Tư tưởng vị tha mong đạt được giác ngộ vì tất cả chúng sanh là một quan điểm vô cùng kỳ diệu! Khi bạn phát bồ đề tâm, bạn bao gồm tất cả mọi người, mọi loài trong ý tưởng làm lợi lạc cho họ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant