Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

3. Ý nghĩa trong sự tu hành

08 Tháng Năm 201100:00(Xem: 6760)
3. Ý nghĩa trong sự tu hành

THIỀN LÀ GÌ?
Thích Thông Huệ
Nhà xuất bản Phương Đông TP. HCM 2002

CHƯƠNG HAI: NHƯ HUYỄN

III. Ý NGHĨA TRONG S TU HÀNH

Một Thiền sinh sau giờ tọa thiền, bạch cùng sư phụ: “Hôm nay con thy rng rang t ti. Vị Thiền sư trả lời: “Ri nó s qua đi!. Ngày kế, trò lại trình Thầy: “Hôm nay con li thy nng n mt mi”. Thầy bảo: “Ri nó s qua đi!. Thiền sư đang khai thị chân lý cho trò: Tất cả các pháp, dù pháp thế gian hay xuất thế gian, cũng đều qua đi, như dòng sông luôn luôn trôi chảy không dừng. Thấy rõ các pháp là huyễn, không có gì vĩnh viễn thường trụ, chúng ta không ước ao thân mình luôn mạnh khỏe, hoàn cảnh luôn thuận lợi đối với mình. Bằng tinh thần lực chế ngự mọi đau khổ bất an, ta sẽ tích cực sống và làm việc vì mình, vì người.

Tánh Không là nền tảng mọi hoạt động của các pháp; nhờ Không, các pháp trở nên linh động. Từ Không biểu hiện Sắc, lúc tan hoại thì Sắc trở về Không. Sắc là do duyên mà có nên lệ thuộc vào duyên, Không là tự tánh nên hoàn toàn độc lập. Sắc là hiện tượngsanh diệt, Không là bản chất thường hằng. Hiện tượng là biểu tướng không thật nên Sc tc Không, còn Không là thể tánh chân thật nên Không tức Sắc. Đây là ý nghĩa của Tánh-tướng bt nh, Lý-s vô ngi.

Quán triệt được điều này, chúng ta mới thấu rõ tinh thần Đương th tc không - ngay có mà nhận ra không, từ không mà biểu hiện có. Không là nguồn cội của vũ trụ, vũ trụ tuy Huyn nhưng nguồn cội Không ấy là Như, nên gọi là Như-Huyn. Kinh Pháp-Hoa dùng một hình ảnh thật đẹp biểu trưng người đã thấu triệt “nhất thiết pháp không”: hình ảnh ngồi tòa Như-Lai. Do bản thể các pháp vốn không, nên chúng dung thông vô ngại. Phàm phu do tâm chấp trước các pháp là thật có, nên thấy chúng ngăn ngại lẫn nhau, đặc biệt đối với các vật thể rắn: thân người không thể đi xuyên qua vách đá, hòn gạch ném vào tường liền bị dội lại... Đức Phật dạy, do tâm chấp trước kiên cố nên các pháp biểu hiện thành chất rắn, do tâm sân hận nên sanh có lửa, do tâm tham ái nên có nước, do tâm dao động nên sanh ra gió. Tâm bên trong như thế nào thì biểu hiện các pháp bên ngoài thế ấy. Đối với các bậc ngộ đạo, lậu hoặc đã dứt, đã đạt lý tánh tuyệt đối, các vị có thể tùy ý thi triển thần thông, vì các pháp không còn ngăn ngại lẫn nhau. Đây là tư tưởng vút cao trong kinh Hoa-Nghiêm: Sự-sự vô ngại hay Pháp giới dung thông. Tư tưởng này làm sáng tỏ thêm lý Như-Huyễn, vì các pháp như huyễn nên thật sự không có ranh giới chướng ngại

Một linh hồn gõ cửa Thượng-Đế xin vào ở chung. Thượng-Đế từ trong hỏi vọng ra:

 - Ai đó?

 Linh hồn trả lời:

 - Tôi.

 - Tôi là ai ?

 - Tôi là tôi.

Vì “tôi là tôi” nên không có đủ chỗ cho linh hồn. Trở về tu luyện một thời gian thật lâu, lần này khi nghe hỏi: “Tôi là ai ?”, linh hồn trả lời:

 - Tôi là Thượng-Đế.

Do linh hồn trở thành mt với Thượng-Đế, nên trên thiên đàng có thể dung được anh ta. Tương tự như thế, khi nào ta niệm Phật mà thấy mình và Ngài là một, thì tâm ta mới tương ứng với tâm của các Ngài. Điều đó có nghĩa là, khi thấu rõ tự tánh các pháp đều không, tất cả đều như huyễn, cái ngã tiêu dung, thì tự nhiên ta thể nhập vào quỹ đạo của chư Phật Bồ-tát. Lúc ấy:

 Năng l s l tánh không tch

 Cm ng đạo giao nan tư nghì.

Cả người lễ (năng) và chư Phật (sở) tánh đều không, khi ấy sự tương cảm tương ứng thật không thể nghĩ bàn!

Trên thực tế, ý thức chấp ngã vừa mãnh liệt vừa thâm sâu. Phân bit ngã chp là dạng thô phù dễ thấy, tuy mạnh mẽ nhưng có thể nhận diệngiải trừ; còn Câu sanh ngã chp là dạng vi tế ẩn tàng tùy miên (ngủ ngầm), mà người có công phu sâu dày miên mật mới khám phá nổi. Như thế mới biết việc tu hành thật gian nan tinh tế, đòi hỏi ý chí, nghị lực và lòng kiên nhẫn vô bờ, chứ không phải một sớm một chiều mà thu được kết quả lớn như nhiều người lầm tưởng. Nhưng một khi sự chấp ngã tiêu dung, ta sẽ có sức mạnh tinh thần rất lớn để sống và làm việc. Ta sẽ vượt qua mọi chướng duyên nơi thân tâm và cảnh, thường độc hành độc bộ mà không điều gì không biết, không việc gì không làm để tròn bản nguyện tự lợi lợi tha.

Sau đây là bài kệ của Thiền sư Vạn Hạnh:

 Thân như đin nh hu hoàn vô

 Vn mc xuân vinh thu hu khô

 Nhm vn thnh suy vô b úy

 Thnh suy như l tho đầu phô.

 Tạm dịch:

 Thân như bóng chp có hoàn không

 C xuân tươi tt thu héo nng

 Mc cuc thnh suy không s hãi

 Thnh suy như c git sương đông.

Thân như ánh chớp lóe lên rồi tắt, sống trên đời vài mươi năm rồi lại ra đi. Nht tc bt hi thiên thu vĩnh bit, mạng sống chỉ trong hơi thở, một hơi thở ra không hít vào là từ giã cuộc đời. Vạn vật bên ngoài cũng vô thường như thế, xuân đến trăm hoa đua nở, mùa thu đã tàn tạ héo úa rồi. Không những vô thường theo năm tháng, mà trong từng sát-na, các pháp luôn thay đổi chuyển dịch. Không những cõi Người bị vô thường chi phối, mà cả sáu cõi ba đường đều sinh sinh diệt diệt không dừng nghỉ. Hiểu rõ vô thườngquy luật tất yếu của cuộc sống, người tu không còn động tâm trước cảnh thăng trầm thịnh suy, vì tất cả chỉ như giọt sương trên lá. Các Thiền sư tự tại trước sinh tử, xem như đắp chăn đông cởi áo hạ, chính vì thẩm thấu đến tột cùng lý Vô thường; và cũng vì các Ngài thấy rõ, trong vô thường biến động có cái chân thường bất biến, tuy các pháp là huyễn mà luôn ở trong Như.

Thật ra, lý Như-Huyễn Phật dạy rất sâu mầu, không thể chỉ vận dụng tư duy mà hiểu thấu. Nhờ công phu Thiền tập, quán chiếu sự duyên sinh, vô thườngtự tánh Không của thân tâm cảnh, dần dần ta mới có thể hội được đôi phần. Một người mắt nhặm, nhìn ra nắng thấy hoa đốm loạn xạ trong hư không. Hoa đốm thật có hay thật không? - Do mắt nhặm nên cho là có sanh ra, thật sự chỉ là huyễn sanh. Vì huyễn sanh nên huyễn diệt. Năm uẩn của con người và mọi pháp trong vũ trụ cũng như vậy. Chính lý trùng trùng duyên khởi của Hoa-Nghiêm cho ta thấy sự sinh khởihoại diệt huyễn mộng của pháp giới. Sự giả huyễn này là vô cùng vô tận, sinh sinh hóa hóa không có ngày cùng.

Lại nữa, nhờ quán sát kỹ mọi pháp hữu vi đều là mộng huyễn, là bóng bọt, là sương mù điện chớp, như lời Phật dạy trong kinh Kim Cang, ta mới lần lần cảm nhận sự hư ảo bất thực của chúng. Khi đọc kinh hay nghe giảng, chúng ta dễ dàng hiểu ý Phật Tổ muốn chỉ dạy điều gì, ngay cả những điều khó tin khó hiểu. Tuy nhiên, từ hiểu biết đến hành trì có kết quả là một chặng đường rất dài và rất đỗi gian nan. Chưa nói đến từng sát-na sinh diệt của tâm mà chỉ Phật trí mới thấu suốt, đối với những niệm vi tế, nếu không có sự tỉnh giác thường trực thì ta cũng đã bị chúng dẫn lôi rồi. Đây là lý do khiến chúng ta phải miên mật công phu, theo dõi từng biến chuyển của thân tâm, nhận diệnvô hiệu hóa chúng bằng chánh niệm.

Tiến thêm một bước, hành giả nên tự hỏi rằng: “Thân tâm cnh đều là pháp huyn, vy các pháp huyn này ly gì làm ch s quy? - Chỗ sở quy ấy là bản tâm chân thật bất sanh bất diệt của chính mình. Bản tâm ấy là tự thể của mọi huyễn thân, huyễn tâm và huyễn cảnh, nên các pháp tuy huyễn mà vẫn ở trong Như tánh. Chỉ khi nào hành giả ở trong trạng thái vô tâm hoặc trong Như-Huyễn tam-muội, mới hoàn toàn quán triệt lý Như-Huyễn. Và chính Như-Huyễn tam-muội là phương tiện thù thắng để hành giả trực nhận bản tâm. Do đó, tu là phải khéo ở trong Huyễn mà nhận ra Như, từ đó phát khởi đại nguyện Như-huyễn, vận dụng thân tâm Như-huyễn, thi thiết mọi phương tiện Như-huyễn, độ tận chúng sanh Như-huyễn. Và cuối cùng, thành Phật Như-huyễn, an trú trong Niết-bàn Như-huyễn. Thế gian đã huyễn mộng thì Niết-bàn thật có được sao ?

Chương Phổ-Hiền trong kinh Viên-Giác, Đức Phật dạy rất kỹ về lý Như-Huyễn, trong đó có hai cách tu tùy trình độ căn cơ của hành giả:

Đối với bậc thượng căn đốn ngộ, bằng trực giác Bát-Nhã, các Ngài nhận ra các pháp đều huyễn, tức thì lìa huyễn mà không kinh qua thứ lớp tu tập. Lìa các pháp huyễn nhưng không sanh tâm trên nó, ngay đó là giác chứ không theo cấp bậc (Tri huyn tc ly bt tác phương tin, Ly huyn tc giác dic vô tim th). Khi biết rõ ràng các pháp mà nội tâm vẫn bất động, đây là cái Biết của tự tánh. Biết huyễn tức lìa huyễn, lìa huyễn liền là Giác.

Đối với chúng sanh căn cơ bậc trung và hạ, Đức Phật từ bi lập bày phương tiện tiệm thứ, phá hết lớp này đến lớp khác cho đến tận cùng gốc rễ chấp trước của chúng sanh: Sáu căn là huyễn, sáu trần là huyễn, thức tâm phân biệt cũng là huyễn nên phải xa lìa: đây là giai đoạn thứ nhất. Đến cái tâm biết về sự xa lìa này vẫn là huyễn, cũng phải xa lìa: đây là giai đoạn thứ hai. Giai đoạn thứ ba, Phật gọi là “lìa cái xa lìa huyn”, tức niệm vi tế về cái tâm xa lìa này, cũng còn là huyễn, do vậy cũng phải buông sạch. Các huyễn diệt hết, hành giả bặt hết vọng niệm, từ thô đến tế, nhưng không rơi vào trạng thái ngoan không, mà cái “liu liu thường tri rõ ràng hiện bày, như mây tan trăng hiện. Lúc này, hành giả an nhiên tự tại trong dòng đời, làm ngược làm xuôi không xa rời tự tánh, dạo chơi các cõi mà vẫn ở trong chánh định. Tế-Điên Hòa-thượng nửa thực nửa hư là hình ảnh sống động của một người đạt đạo, thanh thản vân du đây đó, tùy duyên hóa độ chúng sanh:

 Người bo Ngài điên, Ngài chng điên

 Đói đến thì ăn, mt ng lin

 Hóa độ chúng sanh phin não dt

 Đường trn thanh thn bước thn tiên

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 34411)
Phát Bồ đề tâm, nói đơn giản, là trước hết, lập cái chí nguyện mong cầu tuệ giác Vô thượng Bồ đề, kế đó, phát triển tuệ giác ấy...
(Xem: 16889)
Trong các công hạnh đơn giản mà sâu dày và khó thực hiện cho vẹn toàn nhất là hạnh buông xả. Hành giả Phật giáo lấy tâm buông xả làm công hạnh hàng đầu.
(Xem: 22998)
Một chút ánh sáng nhỏ nhoi, giúp con soi tỏ những giọt mồ hôi không hình nơi mẹ. Nhưng phải tự khi làm mẹ, mới thấu vô vàn cái nhọc mẹ mang.
(Xem: 13072)
Ra khỏi bóng tối - Thích Nữ Diệu Nghiêm dịch
(Xem: 21999)
Hôm nay, mùa Vu Lan báo hiếu lại trở về trên xứ Việt, hòa chung với niềm vui lớn này, xin được san sẻ cùng em đôi điều về đạo hiếu của con người.
(Xem: 22242)
Ngài Mục Liên là một tấm gương sáng chói tượng trưng cho lòng chí hiếubáo ân. Ngài đã thực hành phép sám hối để báo ân mà cứu được mẹ thoát khỏi địa ngục.
(Xem: 14888)
Kinh Phạm Võng dạy rằng “Người Phật tử nếu lấy tâm từ mà làm việc phóng sinh thì thấy tất cả người nam đều là cha mình, tất cả người nữ đều là mẹ mình.
(Xem: 23634)
Tâm Bồ đề là tâm rõ ràng sáng suốt, tâm bỏ mê quay về giác, là tâm bỏ tà quy chánh, là tâm phân biệt rõ việc thị phi, cũng chính là tâm không điên đảo, là chân tâm.
(Xem: 24175)
Cái chết theo Tan-tra thừa là một quá trình tan biến tuần tự của thân xác vật chấttâm thức, các hiện tượng tan biến này được phân loại thành nhiều cấp bậc...
(Xem: 23700)
Quyển "THIỀN QUÁN - Tiếng Chuông Vượt Thời Gian" là một chuyên đề đặc biệt giới thiệu về truyền thống tu tập thiền Tứ Niệm Xứ của đức Phật dưới sự hướng dẫn của thiền sư U Ba Khin.
(Xem: 17176)
Tôi đã lắng nghe Krishnamurti suốt nhiều ngày. Tôi đến những nói chuyện của ông, tham gia những bàn luận, ngẫm nghĩ...
(Xem: 19393)
Chính Ðức Phật đã dạy: “Trong các sự bố thí chỉ có Pháp thícông đức lớn nhất, không có công đức nào sánh bằng” ... Thích Chân Tính
(Xem: 27123)
Phật-pháp là trí tuệ thực nghiệm dạy chúng ta nhận định được bản chất căn bản của chúng tagiải thoát chúng ta khỏi sự sa đọa thành nạn nhân đối với những huyễn tượng...
(Xem: 14440)
Hiện nay câu hỏi này là một quan tâm chính đối với mọi người, bởi vì khoa học và công nghệ hiện đại đã phơi bày rõ ràng những khả năng xảy ra sự hủy diệt to tát.
(Xem: 13868)
Điều gì cần thiết là một cái trí không bị hành hạ, một cái trí rất rõ ràng. Và một cái trí như thế không thể hiện diện được nếu nó có bất kỳ loại thành kiến nào.
(Xem: 22721)
Đức Phật Thích Ca Mâu NiPhật Bảo. Ba tạng kinh luật luận do đức Phật Thích Ca Mâu Ni thuyết ra là Pháp Bảo. Chư tăng đệ tử xuất gia của Phật đàTăng Bảo.
(Xem: 14781)
Điều lạ thường nhất về sống của Krishnamurti là những lời tiên tri được nói về anh trong thời thanh niên đã thành hiện thực, tuy nhiên trong một hướng khác hẳn điều gì được mong đợi.
(Xem: 17391)
Để có thể lắng nghe thực sự, người ta nên buông bỏ hay gạt đi tất cả những thành kiến, những định kiến và những hoạt động hàng ngày.
(Xem: 12702)
Nhìn vào toàn chuyển động của sống này như một sự việc; có vẻ đẹp vô cùng trong nó và năng lượng vô hạn; thế là hành động là trọn vẹn và có sự tự do.
(Xem: 13894)
Lúc này chúng ta hãy quan sát điều gì đang thực sự xảy ra trong thế giới; có bạo lực thuộc mọi loại; không chỉ phía bên ngoài mà còn cả trong sự liên hệ lẫn nhau của chúng ta.
(Xem: 10434)
Một cái trí chuyên biệt hóa không bao giờ là một cái trí sáng tạo. Cái trí mà đã tích lũy, mà đã đắm chìm trong hiểu biết, không thể học hành.
(Xem: 14734)
Khi năng lượng không bị hao tán qua sự tẩu thoát, vậy thì năng lượng đó trở thành ngọn lửa của đam mê. Từ bi có nghĩa đam mê cho tất cả. Từ biđam mê cho tất cả.
(Xem: 17225)
Ngài giáng sinh nơi vườn Lâm Tỳ Ni (Lumbini), thành đạoBồ Đề Đạo Tràng (Bodh Gaya), thuyết bài Pháp đầu tiên tại vườn Lộc Uyển (Sarnath) và nhập Niết Bàn tại Câu Thi Na...
(Xem: 12577)
Chúng tathói quen tạo ra một trừu tượng về sợ hãi, đó là, tạo ra một ý tưởng về sợ hãi. Nhưng chắc chắn, chúng ta không bao giờ lắng nghe tiếng nói của sợ hãi đang kể câu chuyện của nó.
(Xem: 12747)
Có một khác biệt giữa không gian bên ngoài, mà vô giới hạn, và không gian bên trong chúng ta hay không? Hay không có không gian bên trong chúng ta gì cả và chúng ta chỉ biết không gian bên ngoài mà thôi?
(Xem: 10391)
Chúng ta là kết quả của những hành động và những phản ứng của mỗi người; văn minh này là một kết quả tập thể. Không quốc gia hay con người nào tách rời khỏi một người khác...
(Xem: 28739)
Đức Đạt-Lai Lạt-Ma khích lệ chúng ta hãy triển khai lòng tốttình thương yêu mà Ngài luôn luôn quả quyết là những phẩm tính ấy đều đã có sẵn trong lòng mỗi con người chúng ta.
(Xem: 10729)
Sự liên hệ giữa bạn và tôi, giữa tôi và một người khác, là cấu trúc của xã hội. Đó là, liên hệ là cấu trúc và bản chất của xã hội. Tôi đang đặt vấn đề rất, rất đơn giản.
(Xem: 11157)
Lúc này tôi nghĩ có ba vấn đề chúng ta phải thấu triệt nếu chúng ta muốn hiểu rõ toàn chuyển động của sống. Chúng là thời gian, đau khổ và chết.
(Xem: 16908)
Phật pháp cho trẻ em - Tác giả: Jing Yin và Ken Hudson - Minh họa: Yanfeng Liu - Biên soạnchuyển ngữ: Tâm Minh Ngô Tằng Giao
(Xem: 15800)
“Đông du” ngày nay đã trở thành một từ quen thuộc. Không chỉ đối với các nhà thám hiểm, khách du lịch, người khảo sát văn hóa, mà cả những nhà khoa học, nhà triết học.
(Xem: 13360)
Khai sáng không lệ thuộc thời gian. Thời gian, ký ức, hồi tưởng, nguyên nhân – chúng không tồn tại; vậy thì bạn có thấu triệt, thấu triệt tổng thể.
(Xem: 12578)
Sự lèo lái của sinh lý học, mặc dù là một phần của điều mà phương Tây chúng ta gọi là “tự nhiên,” từ quan điểm Phật giáo, chính là một phần cơ cấu của luân hồi sinh tử.
(Xem: 11398)
Có lẽ rất xứng đáng khi dùng một ít thời gian cố gắng tìm ra liệu cuộc sống có bất kỳ ý nghĩa nào hay không. Không phải cuộc sống mà người ta sống, bởi vì sự tồn tại hiện nay chẳng có ý nghĩa bao nhiêu.
(Xem: 13053)
Thiền định là hành động mà đến khi cái trí đã mất đi không gian nhỏ xíu của nó. Không gian bao la này mà cái trí, cái tôi, không thể đến được, là tĩnh lặng.
(Xem: 19339)
Lắng nghe là một nghệ thuật không dễ dàng đạt được, nhưng trong nó có vẻ đẹp và hiểu rõ tuyệt vời. Chúng ta lắng nghe với những chiều sâu khác nhau của thân tâm chúng ta...
(Xem: 12287)
Chắc chắn, giáo dục không có ý nghĩa gì cả nếu nó không giúp bạn hiểu rõ sự rộng lớn vô hạn của cuộc sống với tất cả những tinh tế của nó, với vẻ đẹp lạ thường của nó, những đau khổhân hoan của nó.
(Xem: 28678)
Sách này đặt tên "Kiến Tánh Thành Phật", nghĩa là sao? Bởi muốn cho người ngưỡng mộ tên này, cần nhận được lý thật của nó. Như kinh nói: "Vì muốn cho chúng sanh khai, thị, ngộ, nhập tri kiến Phật".
(Xem: 10078)
Chúng ta dường như không bao giờ nhận ra rằng nếu mỗi người chúng ta không thay đổi triệt để trong căn bản thì sẽ không có hòa bình trên quả đất...
(Xem: 21610)
Các sự gia hộ được nhận qua các luận giảng này về sáu giai đoạn chuyển tiếp giống như một con sông nước dâng cao vào mùa xuân...
(Xem: 12816)
Kêu gọi thế giới là tựa của một quyển sách vừa được phát hành tại Pháp (ngày 12 tháng 5 năm 2011), tường thuật lại cuộc tranh đấu bất-bạo-động của Đức Đạt-Lai Lạt-Ma hơn nửa thế kỷ nay...
(Xem: 17861)
Luật nhân quả không phải là luật riêng có tính cách tôn giáo. Trong vũ trụ, thiên nhiên, mọi sự vật đều chịu luật nhân quả, đó là luật chung của tự nhiên.
(Xem: 26318)
Đức Phật đã dạy chúng ta những cách sửa soạn bản thân cho sự chết bí ẩn và tận dụng những trạng thái của sự chết để tu tập. Nhiều vị Thầy đã viết sách về đề tài này.
(Xem: 11736)
Tốt lành chỉ có thể nở hoa trong tự do. Nó không thể nở hoa trong mảnh đất của thuyết phục dưới bất kỳ hình thức nào, cũng không dưới bất kỳ cưỡng bách nào...
(Xem: 10877)
Mọi hình thức thiền định có ý ‎thức không là một sự việc thực sự: nó không bao giờ có thể là. Cố gắngdụng ý khi thiền định không là thiền định.
(Xem: 22796)
Nếu hay tu trí tuệ thì không khởi phiền não. Trí tuệ vô ngã có thể từ chỗ nghe Phật pháp, thể nghiệm Phật lý, phản quan tự ngã, nhìn thấu nhân sinh mà có được.
(Xem: 12078)
Ngôi chùa nhỏ nằm khiêm tốn trong khoảng đất rộng đầy cây trái. Buổi tối, mùi nhang tỏa ra từ chánh điện hòa với mùi thơm trái chín đâu đó trong vườn.
(Xem: 10628)
Trước khi thành Thiền sư, Trúc Lâm đại sĩ đã từng làm vua nước Đại Việt. Đó là vua Trần Nhân Tông, người đã từng đẩy lui cuộc xâm lăng của quân Mông Cổ.
(Xem: 11428)
Tất cả mọi pháp hiện hữu, bắt đầu là cái Tôi, chẳng là gì cả ngoại trừ là những thứ được định danh. Không có các uẩn, không có thân, tâm, ngoại trừ những gì đã được ta quy gán.
(Xem: 11550)
Tư tưởng vị tha mong đạt được giác ngộ vì tất cả chúng sanh là một quan điểm vô cùng kỳ diệu! Khi bạn phát bồ đề tâm, bạn bao gồm tất cả mọi người, mọi loài trong ý tưởng làm lợi lạc cho họ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant