Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

3. Một Số Thủ Thuật Khai Tâm

08 Tháng Năm 201100:00(Xem: 8415)
3. Một Số Thủ Thuật Khai Tâm

THIỀN LÀ GÌ?
Thích Thông Huệ
Nhà xuất bản Phương Đông TP. HCM 2002

CHƯƠNG BỐN: THUẬT TÁC ÐỘNG THẲNG

III. MỘT SỐ THỦ THUẬT KHAI TÂM

Những chuyện kể ra sau đây, trích từ hành trạng của các Thiền sư, có tính cách gợi ý để chúng ta tự mình khám phá. Do mỗi người có cách nhận định khác nhau, nên sự trình bày trong phần này không nhất thiết giống hoàn toàn với ý người đọc. Một điểm đặc biệt, những vị đã triệt ngộ thì toàn thân đều là Đạo, nên mỗi cử chỉ lời nói của các Ngài đều có thể là thủ thuật khai tâm. Vì thế, các môn đệ phải luôn chú ý từng cách biểu hiện của Thầy để nắm bắt kịp thời những gì Thầy muốn truyền đạt. Khi nhận được lời nói trong vô ngôn thì pháp giới hiển lộ chân tánh, còn giấu giếm điều gì?

Trong kinh diễn tả khi Đức Phật thuyết pháp, đại địa chấn động sáu cách. “Đại địa” là thân tâm người nghe, “chấn động sáu cách” là sự biến chuyển kỳ diệu nơi sáu căn. Đây là trạng thái đột biến của người bắt đầu nhập Đạo. Do sáu căn là nguồn gốc sinh tử nếu mải mê đuổi theo sáu trần, nhưng cũng là nguồn gốc giải thoát nếu biết phản tỉnh nhận ra tự tánh, nên các Thiền sư thường nhắm vào sáu căn để khai tâm. Vì tự tánh vốn rỗng rang không hình tướng, lại biểu hiện sức sống ở sáu căn, nên muốn nhận ra cái không hình tướng, phải khéo nhờ phương tiện sáu căn (Nhà Thiền thường gọi là sáu cửa) này.

Nhắc lại tích Niêm hoa vi tiếu nơi hội Linh Sơn. Vì sao Ngài Ca Diếp mỉm cười khi Đức Phật đưa cành hoa sen lên? Vì sao ngay đó Đức Phật bảo: “Ta có chánh pháp nhãn tạng, Niết-bàn diệu tâm, thật tướng vô tướng, nay trao phó cho Ca Diếp”? Câu chuyện này diễn giải đầy đủ ý nghĩa của cụm từø “Kiến sắc minh tâm”. Ngài Ca Diếp nhìn hoa sen (sắc), nhận ra Tánh thấydiệu dụng của bản tâm. Tâm Thầy và tâm trò không hai không khác, nên Thầy ấn chứng cho trò. Sau này, chư Tổ thường áp dụng nhiều thủ thuật tương tự để đương cơ trực nhận bản tâm: Câu Chi giơ ngón tay, Cảnh Thanh dựng phất tử, Bá Trượng đưa than lửa cho Qui Sơn... Từ nhãn căn nhận ra Tánh thấy gọi là cửa Văn Thù, một trong hai cửa thường được sử dụng (cửa kia là nhĩ căn, cửa Quan Âm), vì đây là hai căn tiếp xúc nhiều nhất với trần cảnh, dễ bị lôi cuốn nhưng cũng dễ xoay lại chính mình.

Đến Ngài A-Nan, lại ngộ bằng Tánh nghe. Một hôm Ngài hỏi Tổ Ca Diếp

- Khi Thế Tôn phó chúctruyền y kim lan cho sư huynh, còn truyền pháp riêng gì nữa chăng?

Tổ Ca Diếp liền gọi:

- A-Nan !

Ngài ứng thinh:

- Dạ.

Tổ bảo:

- Cây phướn trước chùa ngã lật ngược.

Ngài A-Nan nhân đây tỏ ngộ.

Thủ thuật gọi, hay dùng tiếng để đương cơ trực nhận Tánh nghe cũng được nhiều vị Thiền sư áp dụng: Tổ Lâm Tế hét, Ngài Qui Tông gõ đỉnh diễn tả sức diệu trí Quan-Âm. Ngài Linh Mặc tham vấn Thiền sư Thạch Đầu, tự hẹn nếu một câu khế hợp thì ở lại, không khế hợp thì ra đi. Khi hỏi đáp thấy mù mịt không hiểu, Ngài từ giã. Sư chờ lúc Ngài ra cửa, gọi lớn: “Xà-lê!”. Ngài quay nhìn lại, Sư bảo: “Từ sanh đến tử chỉ là cái ấy, xoay đầu chuyển não làm gì?”. Ngài Linh Mặc đại ngộ. Trước khi gọi, ai đang đi? Ai nghe gọi? Ai xoay đầu? Trước sau cũng chỉ là “cái ấy”!

Khai thị qua thân căn, chúng ta nghe chuyện Ngài Văn Môn xin yết kiến Thiền sư Mục Châu. Sư mở cửa, nắm đứng lại và bảo: “Nói! Nói!”. Vân Môn suy nghĩ liền bị xô ra, một chân còn trong ngạch cửa. Mục Châu đóng ập cửa lại, nghiền dập bàn chân Vân Môn. Vân Môn đau quá la to, bỗng nhiên đại ngộ. Biết đau đó là người nào?

Ngài Bá Trượng lúc còn là môn đệ của Mã Tổ, một hôm theo hầu Tổ dạo vườn. Thấy bầy vịt trời bay qua, Tổ hỏi: “Cái gì vậy?”. Ngài trả lời: “Bầy vịt trời”. Lát sau Tổ hỏi: “Đi đâu rồi?”.  Ngài thưa: “Bay qua rồi”. Nếu ngay đây nhận ra Tánh thấy thì Ngài đâu bị Tổ nắm mũi vặn một cái đau thấu trời xanh. Khi Bá Trượng đau quá la lên, Tổ bảo: “Sao không nói bay qua đi?”. Nhân cái đau, Ngài liền tỏ ngộ. Cái gì biết có bầy vịt trời, cái gì biết đau, cái đó đâu từng mất?

Nhờ hương trần nhận ra tự tánh, có câu chuyện nhà nho Hoàng Sơn Cốc, học đạo với Thiền sư Hối-Đường Tổ-Tâm. Sư bảo: “Bên Nho gia nói: Mọi việc rõ ràng, đâu có giấu giếm gì?”. Hoàng mở miệng định nói, Sư ngăn lại. Như vậy nhiều lần. Cuối cùng, Sư dẫn Hoàng lên núi, thấy hoa quế nở rộ, thơm ngát cả một vùng. Sư hỏi: “Ông có nghe mùi hương hoa quế không ?”. Hoàng gật đầu. Sư nói: “Đâu có giấu giếm gì ?”. Hoàng chợt ngộ, đảnh lễ tạ ơn.

Ngài Huệ Hải đến tham vấn Mã Tổ. Tổ hỏi: “Ông đến đây cầu việc gì?”. Ngài thưa: “Con đến cầu Phật pháp”. Tổ nạt: “Kho báu nhà mình chẳng đoái hoài, bỏ nhà chạy tìm cái gì? Ta trong ấy không có một vật, cầu Phật pháp cái gì?”. Ngài đảnh lễ thưa: “Cái gì là kho báu trong nhà của Huệ Hải?. Tổ bảo: “Cái ông hỏi Ta đó!”. Ngay đó, Ngài Huệ Hải chợt nhận ra bản tâm. Nếu không có kho báu trọn quyền sử dụng, làm sao biết thưa hỏi nói năng? Đây há chẳng phải nhờ động lưỡi mà nhớ lại tánh giác hằng hữu đó sao? 

Khai thị nhờ ý căn là những câu chuyện thường truyền tụng trong nhà Thiền. Tổ Bồ-đềø Đạt-Ma bảo Ngài Thần Quang: “Đem tâm ra ta an cho!”. Khi Ngài Thần Quang thưa: “Con tìm tâm không được”. Tổ bảo: “Ta đã an tâm cho ngươi rồi!”. Hoặc lời dạy đơn giản của Lục Tổ lúc Ngài Huệ Minh đuổi theo giành y bát: “Không nghĩ thiện, không nghĩ ác, cái gì là bản lai diện mục của Thượng tọa Minh ?”. Khi không còn suy nghĩ lăng xăng phân biệt, tâm lúc đó lặng yên; lặng yên nhưng hằng rõ biết mọi việc xung quanh. Cái biết đó là gì?

Chúng ta thấy, những lối khai tâm như thế này nhằm khơi nguồn trí tuệ sắc bén phát sinh từ tự thân hành giả. Muốn đương cơ đến được chỗ bản nhiên tĩnh lặng mà thường biết, không có con đường nào ngắn hơn đường truyền từ tâm qua tâm. Đây là lối đi riêng, truyền thừa ngoài giáo điển, đòi hỏi người trò phải có trực giác bén nhạy và căn cơ đặc biệt, người Thầy đã liễu ngộ lý Thiền, biết khế cơ, khế thời để giúp trò khám phá những điều kỳ diệu trong mảnh đất tâm. Khi trò đã vén mở bí mật ngàn đời sẵn có ấy, trò có cách trình lên Thầy chỗ sở đắc của mình, và Thầy cũng có cách riêng công nhận cái thấy của hai Thầy trò không khác. Nhà Thiền gọi là ấn chứng, truyền tâm ấn hoặc tâm ấn tâm. Chúng ta hãy nghe những đoạn đối đáp tiêu biểu:

Một ngày nọ, Ngài Huệ Khả thưa cùng Tổ Đạt-Ma: “Tâm con đã bặt hết các duyên”. Tổ bảo: “Coi chừng rơi vào không”. Ngài đáp: “Rõ ràng thường biết, nói không thể đến”. Tổ ấn chứng bằng câu: “Ôâng như thế, ta như thế, chư Phật cũng như thế!”.

Ngài Huệ Năng, dù vẫn còn là cư sĩ, đã được Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn bí mật gọi vào thất giảng kinh Kim Cang, đến đoạn: “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm”, Ngài hoát nhiên đại ngộ, kêu lên: “Đâu ngờ tự tánh vốn tự thanh tịnh! Đâu ngờ tự tánh vốn không sanh diệt! Đâu ngờ tự tánh vốn tự đầy đủ! Đâu ngờ tự tánh vốn không dao động! Đâu ngờ tự tánh hay sanh muôn pháp!”. Ngũ Tổ biết Ngài đã kiến tánh, bảo rằng: “Chẳng biết bản tâm, học pháp vô ích. Nếu biết được bản tâm mình, thấy bản tánh mình, tức gọi là Trượng phu, là Thầy của Trời người, là Phật”. Cư sĩ Huệ Năng được truyền y bát, trở thành Thiền Tổ Huệ Năng - Tổ thứ sáu Thiền tông Trung-Hoa. 

Trường hợp Ngài Lâm Tế lại càng kỳ đặc. Người khai tâm là Tổ Hoàng Bá, nhưng phải nhờ Thiền sư Đại Ngu điểm nhãn mới đại ngộ, nên trình kiến giải với Thiền sư Đại Ngu bằng một cách không ai dám làm: Sau ba lần hỏi về đại ý Phật pháp đều bị Tổ cho ăn gậy, Ngài Lâm Tế khóc từ giã Tổ ra đi, vì cho là mình không có duyên ở trong pháp hội của Tổ. Tổ chỉ cho Ngài lên nương nhờ Thiền sư Đại Ngu. Được Sư hỏi, Ngài thưa: “Con ba lần thưa hỏi Hòa thượng Hoàng Bá về đại ý Phật pháp, ba lần đều bị đánh. Không biết con có lỗi hay không lỗi?”. Sư bảo ngay: “Hoàng Bá thật là tâm lão bà tha thiết, vì ngươi chỉ chỗ tột cùng. Ngươi còn ở đây nói có lỗi không lỗi!. Ngài Lâm Tế ngay đây đại ngộ, thốt lên: “Vậy thì Phật pháp của Hoàng Bá rất ít!”. Sư nắm lại bảo: “Vừa rồi nói có lỗi - không lỗi, giờ lại nói Phật pháp của Hoàng Bá rất ít. Ngươi thấy đạo lý gì, nói mau !”. Ngài Lâm Tế lặng thinh, thoi vào hông Sư ba cái. Sư xô ra, cười rằng: “Thầy của ngươi là Hoàng Bá, không can dự gì đến ta!”. Thấy được chỗ tột cùng, Ngài Lâm Tế còn có cách gì diễn đạt, ngoài việc thoi vào hông người đã giúp đỡ mình? Và Thiền sư Đại Ngu, bằng cử chỉlời nói tưởng không dính dáng gì đến lý Thiền, đã ngầm chỉ ba điều quan trọng: Thứ nhất, “có lỗi - không lỗi” là hai bên, không kẹt hai bên là thấy Đại ý Phật pháp. Thứ hai, ấn chứng cho Ngài Lâm Tế; và Thứ ba, chứng tỏ đạo đức của một vị Thiền sư - Thầy của ngươi là Hoàng Bá chứ không phải ta; muốn báo đáp ân Thầy, nên trở về Hoàng Bá. Câu chuyện như một vở kịch đầy chất đạo và chất thơ, trong đó có sự gắn bó chặt chẽ giữa các nhân vật: Tổ Hoàng Bá - Ngài Tri sự Trần Tôn Túc - Thiền sư Đại Ngu - Ngài Lâm Tế. Ngài Trần Tôn Túcđạo diễn, thúc đẩy tốc độ vở kịch lên đến cao trào (bắt đầu là xúi Ngài Lâm Tế lên hỏi Tổ ba lần, sau cùng xúi Ngài từ giã Tổ trước khi ra đi). Thiền sư Đại Ngu quả thậttri kỷ của Tổ, nhờ Sư nên thâm ý của Tổ mới được tỏ sáng. Nhưng khi Ngài Lâm Tế bừng ngộ, Sư không lưu lại để giúp mình mà bảo Ngài về trả ơn Tổ.

Chúng ta thấy, những cách khai tâmấn chứng như thế này thật độc đáo. Thầy nhằm khơi nguồn trực giác phát sinh tri kiến như thật cho trò; và trò, đến khi ngộ rồi, không bao giờ quên nữa. Thời nay, chúng ta được nghe lý giải nhiều, nên có kiến thức khá về Thiền. Nhưng càng có kiến thức, càng chấp vào kiến thức thì càng khó khai ngộ; hoặc có giải ngộ cũng chỉ lờ mờ hoặc lóe sáng rồi tắt như ánh chớp trong đêm đen. Tuy nhiên, trong thời đại khoa học, mọi việc đều phải được phân tích, chứng minh cụ thể. Nếu các Thiền sư đời nay dùng những ngôn từ quanh co khó hiểu hoặc những hành động kỳ quặc lạ đời, thì không thuyết phục được ai mà càng làm môn đệ hiểu lầm, sanh chướng ngại trên đường tu. Do đó, trong tinh thần tùy duyênbất biến, bất biến nhưng tùy duyên, các Ngài phải sử dụng nhiều phương tiện thích hợp để nhiếp phục người, giúp người tiến đạo nghiêm thân. Thiền tông nhờ thế, dù trải qua mấy ngàn năm lịch sử vẫn luôn hiện sinh, luôn sống động trong ý nghĩa khế lý, khế cơ và khế thời. 

Một điều rất quan trọng mà chúng ta cần lưu ý: Những gì chúng ta đã tiếp thu được, dù là những vấn đề cốt lõi của Thiền tông, đều chỉ được truyền trao từ người khác chứ chưa phải của báu trong nhà. Muốn hoàn toàn thể nhập tâm Thiền và từ tâm ấy lưu xuất nhiêu ích quần sanh, chúng ta phải tự mình dấn thân, tự mình khai phá vào cõi miền sâu thẳm của tâm thức. Ngay khi chúng ta đã hòa mình trọn vẹn vào hoàn cảnh của các vị được Thiện tri thức chỉ dạy, đã kể trong những câu chuyện trên, và tâm chúng ta đã có cuộc tao phùng kỳ thú với tâm của các Ngài, chúng ta cũng phải nhớ kỹ rằng: Nhận ra tánh nghe, Tánh thấy hay Tánh biết vọng, đó mới chỉ là mặt trăng thứ hai! 

Vậy mặt trăng thật ở đâu?

Chúng ta hãy cùng tĩnh tâm, lắng lòng xem thử. Nếu chưa nhận ra mặt trăng thật, thôi thì nên tiếp tục đọc chương cuối cùng của quyển sách này, chương “Tâm Thiền”.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14307)
Toàn bộ lý do vì sao phải học tập về Giáo Pháp (Dhamma), những lời dạy của Đức Phật, là để tầm cầu một con đường vượt qua khổ não, đạt đến an bìnhhạnh phúc.
(Xem: 14570)
Trong Phật giáo, chúng ta không tin vào một đấng Tạo hóa nhưng chúng ta tin vào lòng tốtgiữ giới không sát hại sinh linh. Chúng ta tin vào luật nghiệp báo nhân quả...
(Xem: 11846)
Ðạo Phật cốt đào luyện tâm hồn người hoàn toàn trong sạch, nên cực lực sa thải những tính: tham lam, sân hận, oán thù... đang trú ẩn trong tâm giới người.
(Xem: 14371)
Với niềm vui lớn lao, vua Tịnh Phạn chúc mừng hoàng hậu và thái tử vừa mới đản sinh. Dân chúng tổ chức các buổi hội hè tưng bừng và treo cờ kết hoa rực rỡ trên toàn quốc.
(Xem: 13283)
Tập sách này gồm có những bài viết đơn giản về Phật Pháp Tại Thế Gian, Cốt Tủy Của Ðạo Phật, Vô Thượng Thậm Thâm Vi Diệu Pháp, những điều cụ thể, thiết thực...
(Xem: 14650)
Tập sách này là kết tập những bài báo viết trên Bản Tin Hải Ấn và Phật Giáo Việt Nam trong cùng một chủ đề. Đó là Con Đường Phát Triển Tâm Linh.
(Xem: 12649)
Chúng tôi viết những bài này với tư cách hành giả, chỉ muốn đọc giả đọc hiểu để ứng dụng tu, chớ không phải học giả dẫn chứng liệu cụ thể cho người đọc dễ bề nghiên cứu.
(Xem: 25266)
Cư sĩ sống trong lòng dân tộc và luôn luôn mang hai trọng trách, trách nhiệm tinh thần đối với Phật Giáo và bổn phận đối với cộng đồng xã hội, với quốc gia dân tộc.
(Xem: 27897)
Chúng tôi viết quyển sách này cho những người mới bắt đầu học Phật. Bước đầu tuy tầm thường song không kém phần quan trọng, nếu bước đầu đi sai, những bước sau khó mà đúng được.
(Xem: 26375)
Pháp môn Tịnh Độ cao cả không cùng, rộng lớn như trời che đất chở. Đây là Pháp môn tổng trì của chư Phật ba đời, là đạo mầu đặc biệt trong một đời giáo hóa của đức Thích Ca.
(Xem: 17238)
Đôi khi mọi người nghĩ cái chết là sự trừng phạt những việc xấu xa mà họ đã làm, hoặc là sự thất bại, sai lầm, nhưng cái chết không phải như vậy. Cái chết là phần tự nhiên của cuộc sống.
(Xem: 16529)
Sách này nói về sự liên quan chặt chẽ giữa con người và trái đất, cả hai đồng sinh cộng tử. Con người không thể sống riêng lẻ một mình nếu các loài khác bị tiêu diệt.
(Xem: 15920)
Cuốn sách “Tin Tức Từ Biển Tâm” của nhà văn Phật giáo Đài Loan – Lâm Thanh Huyền – quả là một cú “sốc” tuyệt vời đối với các nhà Phật học Việt Nam.
(Xem: 22150)
Người cư sĩ tại gia, ngoài trách nhiệm và bổn phận đối với gia đình, xã hội còn có nhiệm vụ hộ trì Tam Bảo. Cho nên trọng trách của người Phật Tử tại gia rất là quan trọng...
(Xem: 17140)
Mỗi sáng lúc mới thức dậy, trong trạng thái mơ màng chưa tỉnh hẳn, chúng ta phải bắt đầu lôi kéo tâm thức vào một đường hướng rõ ràng: tự đánh thức lên lòng ngưỡng mộ cao rộng đến buổi rạng đông...
(Xem: 24931)
Làm sao tôi có thể hành thiền khi quá bận rộn với công việc và gia đình? Làm sao tôi có thể phối hợp hoạt động với ngồi yên một chỗ? Có các nữ tu sĩ không?
(Xem: 21994)
An Lạc phải bắt đầu từ nơi mỗi chúng ta mà từ, bi, hỉ, xả là nền tảng. Có từ, bi, hỉ, xả, thì đi đâu ta cũng gieo rắc tình thương và sự hòa hợp...
(Xem: 19083)
Tập sách này không phải là một tiểu luận về tâm lý học nên không thể bao quát hết mọi vấn đề nhân sinh, mục đích của nó nói lên sự tương quan của Ý, Tình, Thân và tiến trình phiền não...
(Xem: 16176)
Đức Phật tuy đã nhập diệt trên 25 thế kỷ rồi, nhưng Phật pháp vẫn còn truyền lại thế gian, chân lý sống ấy vẫn còn sáng ngời đến tận ngày hôm nay. Đây là những phương thuốc trị lành tâm bệnh cho chúng sanh...
(Xem: 21728)
Những gì chúng ta học được từ người xưa và cả người nay dĩ nhiên không phải trên những danh xưng, tiếng tăm hay bài giảng thơ văn để lại cho đời, mà chính ngay nơi những bước chân của người...
(Xem: 16792)
Đối với Phật giáo, tính cách quy ước của tâm thức biểu lộ từ một sự sáng ngời trong trẻo. Những khuyết điểm làm ô uế nó không nội tại nơi bản chất của nó mà chỉ là ngoại sanh.
(Xem: 14674)
Đọc “Trung bộ kinh” chúng ta có được một đường lối tu hành cụ thể như một bản đồ chỉ rõ chi tiết, đưa ta đến thành Niết bàn, cứu cánh của phạm hạnh.
(Xem: 16714)
J. Krishnamurti, cuộc sống và những lời giáo huấn của ông trải dài trong phần lớn thế kỷ hai mươi, được nhiều người tôn vinh là một con ngườiảnh hưởng sâu sắc nhất vào ý thức của nhân loại...
(Xem: 25030)
“Cái tiến trình” là một hiện tượng thuộc cơ thể, không nên lầm lẫn với trạng thái tinh thần mà Krishnamurti viết trong quyển này bằng nhiều từ khác biệt như là “phước lành”, “cái khác lạ”...
(Xem: 18790)
Quyển sách này là kết quả của những cuộc nói chuyện và những cuộc thảo luận được tổ chức ở Ấn độ bởi J. Krishnamurti với học sinh và giáo viên của những trường học tại Rishi Valley...
(Xem: 21199)
Gốc rễ của xung đột, không chỉ phía bên ngoài, nhưng còn cả xung đột phía bên trong khủng khiếp này của con người là gì? Gốc rễ của nó là gì?
(Xem: 14779)
Với hầu hết mọi người chúng ta, sự liên hệ với một người khác được đặt nền tảng trên sự lệ thuộc, hoặc là kinh tế hoặc là tâm lý. Lệ thuộc này tạo ra sợ hãi...
(Xem: 14378)
Bàn về Cách kiếm sống đúng đắn tìm hiểu những phương cách cho chúng ta tham gia, nhưng không đắm chìm, công việc của chúng ta. Trong một thế giới điên cuồng để sản xuất...
(Xem: 16621)
Phật Giáo dạy nhân loại đi vào con đường Trung Đạo, con đường của sự điều độ, của sự hiểu biết đứng đắn hơn và làm thế nào để có một cuộc sống dồi dào bình anhạnh phúc.
(Xem: 18017)
Đọc Tu Bụi của tác giả Trần Kiêm Đoàn, tôi có cảm tưởng như nhìn thấy một mảnh bóng dáng của chính mình qua nhân vật chính là Trí Hải. Đời Trí Hải có nhiều biến cố.
(Xem: 12935)
Suy nghĩ không bao giờ mới mẻ, nhưng sự liên hệ luôn luôn mới mẻ; và suy nghĩ tiếp cận sự kiện sinh động, thực sự, mới mẻ này, bằng nền quá khứ của cái cũ kỹ.
(Xem: 14950)
Hầu hết mọi người sẽ vui mừng để có một sự an bình nào đấy của tâm hồn trong đời sống của họ. Họ sẽ hân hoan để quên đi những rắc rối, những vấn đề...
(Xem: 12725)
Sau thời công phu khuya, tôi được phân công quét chùa. Tay cầm chiếc chổi chà, tôi nhẹ bước ra sân và leo lên cầu thang phía Ðông lang chính điện.
(Xem: 13894)
Điều làm cho một người trở thành một Phật tử chân chính là người ấy tìm nơi nương tựaĐức Phật, Giáo pháp, và chư Thánh Tăng - gọi là Quy Y Tam Bảo.
(Xem: 14618)
Sống cùng với xã hộicần phải đi đến việc cùng chung có một tinh thần trách nhiệm cộng đồng. Còn kiến thức thì giúp chúng ta khám phá thiên nhiên đồng thời với nội tâm của chúng ta.
(Xem: 28050)
Đây là một quyển sách căn bản dành cho người muốn tìm hạnh phúc và sự bình an trong cuộc sống qua con đường tâm linh. Con đường Đạo của Đức Phật rất đơn giản, thích hợp với mọi người.
(Xem: 27221)
Trong Đường Xưa Mây Trắng chúng ta khám phá ra Bụt là một con người chứ không phải là một vị thần linh. Đó là chủ tâm của tác giả...
(Xem: 14353)
”Vượt Khỏi Giáo điều” không phải chỉ đề cập đến những vấn nạn đời thường, nó còn tiến xa hơn một bước nữa là vạch ra cho con người một hướng đi, một hành trình tu tập tâm linh hầu có thể đạt đến cứu cánh giác ngộ giải thoát ngay trong kiếp sống này.
(Xem: 20986)
Cuốn sách này là một bản dịch của Ban Dịch Thuật Nalanda về tác phẩm Bản Văn Bảy Điểm Tu Tâm của Chekawa Yeshe Dorje, với một bình giảng căn cứ trên những giảng dạy miệng do Chošgyam Trungpa Rinpoche trình bày.
(Xem: 14673)
Duy tâm của Phật giáo không công nhận có cảnh nào là cảnh thật, hết thảy các cảnh đều do tâm hiện, lá chuối cũng tâm hiện, bóng người cũng tâm hiện, như hoa đốm giữa hư không.
(Xem: 24202)
Để hỗ trợ cho việc phát triển và thực thi tâm hạnh từ bi, việc chủ yếu là phải vượt qua những chướng ngại. Nơi đó, hạnh nhẫn nhục đóng vai trò quan trọng...
(Xem: 28708)
Guru (Đạo Sư) giống như một viên ngọc như ý ban tặng mọi phẩm tính của sự chứng ngộ, một người cha và bà mẹ dâng hiến tình thương của mình cho mọi chúng sinh...
(Xem: 14743)
Cuốn sách nhỏ này không phải đã được viết ra để phô bày kiến thức của tác giảkiến thức ấy không có gì đáng để được phô bày. Nó mong ước được là một người bạn hơn là một cuốn sách.
(Xem: 13304)
“Không có tẩu thoát khỏi sự liên hệ. Trong sự liên hệ đó, mà là cái gương trong đó chúng ta có thể thấy chính chúng ta, chúng ta có thể khám phá chúng ta là gì...
(Xem: 16466)
Quyển sách này đã đem lại cho độc giả một cái nhìn mới của Tây phương đối với Phật giáo trước đây vốn hoàn toàn xa lạ và hiện nay đang rất thịnh hành ở châu Âu và châu Mỹ.
(Xem: 27262)
Milarepa là Thánh St. Francis của Tây Tạng. Chúng ta không thể nhầm lẫn âm điệu của những ca khúc này với âm điệu của những ca khúc Fioretti...
(Xem: 12022)
Trí Phật là trí kim cương. Thân Phật là thân kim sắc, cõi Phật là cõi hoàng kim, thì Đạo Phật tất nhiên là Đạo Vàng. Ánh Đạo Vàngkim quang của đức Từ bi rộng lớn phá màn vô minh, chỉ rõ đường chánh.
(Xem: 16081)
Milarepa là một trong những đạo sư tâm linh nổi tiếng nhất của mọi thời. Ngài không những là một nhà lãnh đạo kiệt xuất của dòng phái Kagyu, mà cũng là một đạo sư rất quan trọng đối với mọi trường phái của Phật giáo Tây Tạng.
(Xem: 21507)
Nếu bạn không suy nghĩ sự đau khổ của chu trình sinh tử, sự tan vỡ ảo tưởng với vòng sinh tử sẽ không sinh khởi.
(Xem: 12379)
Cuốn sách nhỏ này do Hòa Thượng Tiến Sĩ K. Sri Dhammananda là một cuốn sách có giá trị, đáp ứng được những câu hỏi như chết đi về đâu và chết rồi đã hết khổ chưa...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant