Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương 4

30 Tháng Năm 201100:00(Xem: 4766)
Chương 4

AM MÂY NGỦ
Truyện Ngoại Sử của Nhất Hạnh
Lá Bối Xuất Bản, Paris 1982

CHƯƠNG IV 

Jaya Simhavarman đệ tam băng mà không trối trăn lại được lời nào. Quần thần tụ họp trong điện quyết định đưa thái tử Harijitputra lên ngôi trước khi báo tin vua băng cho thần dân trong nước biết. Sáng ngày hôm sau, lễ suy tôn được cử hành rất sớm trên điện và ngay sau đó vua Harijitputra thiết triều lấy danh hiệu là Jaya Simhavarman đệ tứ. Hôm ấy tin dữ được truyền ra, cả kinh kỳ Vijaya nhốn nháo. Dân chúng đổ tới hoàng thành, bứt tóc đấm ngực và than khóc. Họ tiếc thương vị vua trẻ anh hùng đã từng chiến thắng giặc Mông Cổ, đã từng là niềm tin và sự tự hào của họ trong suốt hai mươi năm trời. Cả nước để tang Harijit. Tất cả mọi cuộc vui chơi đều bị hủy bỏ. Hàng triệu người cắt tóc để tang vua. Suốt trong bảy ngày đêm, trước hoàng cung không lúc nào không có hàng ngàn người đến ngồi để than khóc. Sáng ngày thứ tám, dân chúng hạng vạn người theo gót vua mới và triều thần lên đường đưa cha ra dàn hỏa thiêu. Xác vua được quàng trên một cái kiệu lớn để trên lưng một con bạch tượng, phía trên có lọng che. Theo sau là một hàng voi sắp hàng đông tới một trăm con, trên lưng đều phủ lụa. Hai bên quân lính đi dàn hầu, mặc áo giáp bằng mây. Kiệu của Huyền Trân và các cung phi đi sát kiệu của Harijit. Các cung phi này đều sẽ bị hỏa tang một lần với vua Chế Mân. Hoàng hậu vì đang mang thai thế tử con vua nên sẽ được trà tỳ sau khi sinh nở.

Đàn hỏa thiêu của vua được dựng trên bờ biển. Đó là tục lệ nước Chàm. Trong trường hợp của dân thường thì người chết được thiêu ngay ngày hôm sau. Nếu là quan chức lớn thì lễ hỏa thiêu được tổ chức ba ngày ba đêm sau khi chết. Trong trường hợp của vua thì phải đợi đúng bảy ngày bảy đêm. Đám rước đi tới xế chiều mới đến được hỏa đàn ở bờ biển Thí lị bì nại. Đàn được dựng toàn bằng gỗ trâm hương. Trong tiếng trống và tiếng tù và não nuột, linh kiệu được hạ xuống và đưa từ từ lên hỏa đàn. Xác vua đã được tẩm liệm rất kỹ lưỡng và tưới đầy dầu thơm. Các đạo sĩ Bà La Môn bắt đầu đọc kinh bằng tiếng Phạn. Tiếng kinh vang dội rất lớn, có thể là hàng trăm người đọc một lần. Giàn hỏa đã bắt đầu bốc cháy. Tiếng tù và, tiếng kèn và tiếng trống lại bắt đầu nổi dậy. Huyền Trân không dám nhìn về phía đàn hỏa. Nàng sợ trông thấy cảnh những người cung phi bị đưa lên để hỏa thiêu.

Tất cả những gì đã và đang xảy ra, Huyền Trân thấy như trong một giấc mộng. Mới ngày nào đây, nàng nấu cháo cảm cho vua ăn, rồi bây giờ thân xác Harijit đang bốc cháy trên giàn hỏa. Nàng gắng khóc nhưng không khóc được. Nếu giờ này nàng không mang một giọt máu của Harijit trong người thì thân hình nàng cũng đang bốc cháy. Thôi thế là tan tành giác mơ. Thôi thế là tan tành cả một cuộc đời. Cuộc đời mà nàng đã quyết tâm hiến dâng cho tình hữu nghị giữa hai nước Chiêm Việt. Huyền Trân đưa cánh tay trái lên nhìn. Nàng nhớ lại buổi chiều nào cùng Phụ hoàng ngồi bên bờ suối trước am Long Động. Bàn tay này đã làm được gì? Trong vòng bốn năm tháng nữa bàn tay này sẽ bốc cháy trên giàn hỏa. Bỗng nhiên nàng nghĩ đến cái bào thai trong bụng mình. Con nàng sẽ là trai hay gái? Đứa con này sẽ mang bàn tay nàng đê đi vào đời hậu lai. Bàn tay của cha mẹ và của giống nòi, nàng đã trao về cho một thế hệ hậu lai. Như vậy là nàng có thể san tâm mà lên giàn hỏa sau khi đưa nó ra đời. Nàng sẽ không tiếc nuối cuộc đời.

Huyền Trân tự hỏi: Mình có còn tiếc nuối cuộc đời hay không? Harijit chết trồi thì mình sống làm gì? Nàng đã yêu người thanh niên anh dũng này. Harijit cũng đã yêu nàng thắm thiết. Nàng đã được sống hạnh phúc trong tình yêu ấy. Một tình yêu ngắn ngủi nhưng chất chứa bao nhiêu mặn nồng, và đứa con trong bụng nàng là chứng tích cụ thể cho tình yêu ấy. Chết đi, nàng không tiếc nuối. Nàng chỉ xót xa cho đứa bé sau này. Nó sẽ được nuôi nấng trong cung điện vua Chàm, sẽ lớn lên và sẽ nghe kể về mẹ của nó ngày xưa, một bà công chúa Đại Việt. Chỉ có thế thôi. Nó không được ấp ủ bằng hơi hướm của nàng, hơi hướm của một bà mẹ Đại Việt. Tội nghiệp cho nó hay tội nghiệp cho chính nàng?

Trong da thịt mình, Huyền Trân cảm thấy hai nỗi đau. Nỗi đau thứ nhất là sự thiếu vắng Harijit. Mất chàng, cuộc đời nàng không còn hứng thú gì nữa. Nỗi đau đó chỉ có lửa mới đốt cháy được, và vì vậy nàng không sợ lên giàn hỏa. Lửa sẽ đốt da thịt nàng cùng một lúc với niềm đau của nàng. Nàng cảm thấy không thể mổ xẻ và lấy nỗi đau ấy ra khỏi da thịt nàng. Nhưng còn một niềm đau thứ hai: Đó là sự xót xa của nàng đối với đứa con không cha và trong bốn tháng nữa, không mẹ. Nỗi đau đó nàng cảm tưởngthân thể nàng có bị đốt ra tro bụi, nó cũng không tan. Nó sẽ đọng thành khối bất diệt.

Lửa vẫn cháy; tiếng tù và, tiếng trống và tiếng kèn vang dội. Thấp thoáng, Huyền Trân thấy bóng những đoàn vũ công nhảy múa quanh giàn hỏa, những điệu múa nghi lễ tống tiễn linh hồn vua về thượng giới. Tiếng đọc kinh văn trầm hùng kéo dài. Quanh giàn hỏa dân chúng quỳ trên mặt đất để cầu nguyện đông đến hàng vạn. Giờ này, trên toàn quốc thổ Chiêm Thành, già trẻ trai gái đều biết là Harijit thân yêu của họ đang nằm trên giàn hỏa. Cả nước sẽ để tang cho Harijit, có người sẽ để tang trọn đời. Huyền Trân nhớ lại những lời Văn Túc Vương dạy nàng về tục hỏa thiêu của người Ấn Độ. Tập tục đó người Đại Việt gọi là trà tỳ. Tiếng Chiêm gọi là sati. Văn Túc Vương kể rằng, tuy tập tục này người Đại Việt đã bỏ từ lâu, nhưng vào đời Lý. Các cung phi có người vẫn còn chết theo vua và chôn theo vua. Tục lệ này đến đời Trần đã gần như được bỏ hẳn, nhưng thỉnh thoảng vẫn còn có những cung phi muốn được chết với vua một lần.

Lửa đã tắt, những tro xương còn lại của Jaya Simhavarman đệ tam được thu nhập và cất chứa vào trong một cái bình bằng vàng gắn kín. Bình vàng này được đưa lên kiệu và rước ra thuyền ngự đậu sẵn ở bờ biển. Đèn đuốc được thắp lên, hàng trăm chiếc thuyền nhẹ phò chiếc thuyền ngư ra khơi. Huyền Trân cũng được rước xuống một chiếc thuyền đi sát bên thuyền ngự. Từ trên những chiếc khác, tiếng đọc kinh lại bắt đầu nổi dậy. Khi đoàn thuyền ra tới ngoài khơi thì người ta làm lễ thả bình vàng đựng tro xương của vua xuống biển. Tiếng kèn và tiếng tù và, lại nổi lên ai oán. Đệm sau hai thứ âm thanh ấy, có tiếng trống từng hồi vang dội. Những tràng hoa được liệng xuống biển. Lễ thủy táng chấm dứt. Đoàn thuyền từ từ quay mũi hướng về đất liền.

Nhìn những tràng hoa nhấp nhô lên xuống trên sóng, lấp lánh dưới ánh đuốc, Huyền Trân kêu thầm: "Vĩnh biệt, Harijit, vĩnh biệt". Thuyền nàng cũng đã quay mũi hướng về đất liền. Nhìn ra chân trời phía đông, Hoàng hậu thấy biển cả bao la bát ngát. Harijit đã trở về với thế giới bất sinh bất diệt. Huyền Trân thầm đọc Tâm Kinh Bát Nhã cho chồng.

Vua Chế Mân băng vào tháng bảy Chiêm Thành, tức là vào giữa tháng năm Đại Việt. Tháng sáu năm ấy Thị Khánh vẫn chưa chịu về nước. Nàng xin ở lại cho đến khi Hoàng hậu sinh hạ thế tử. Huyền Trân gầy ốm hẳn đi. Vua Harijitputra khuyên nàng nên giữ gìn sức khỏe. Vua nói với nàng là tuy tục lệ Chiêm Thành buộc Hoàng hậu phải hỏa thiêu theo Vua, nhưng trong thâm tâm vua không muốn bà hỏa thiêu. Không ai dám đi ngược truyền thống của đất nước. Dân chúng cũng thương mến nàng như thương mến Harijit, và họ muốn Harijit của họ không bị cô đơnthiên đường. Tuy vậy, theo vua, việc hỏa thiêu của Hoàng hậu có thể được trì hoãn cho tới không những sau khi thế tử qua đời mà có thể đên khi có sứ giả của Đại Việt tới. Huyền Trân cám ơn vua và nói rằng ba không sợ hỏa thiêu, xin vua yên tâm. Bà cũng ngỏ ý xin vua tổ chức lễ đăng quang nay cho Hoàng hậu mới, đừng đợi đến sang năm. Vua Chế Chí nghe lời. Mười hôm sau, kinh thành Vijaya lại treo đèn kết hoa. Cả nước lại tổ chức hội hoa đăng và hát xướng. Trong hai năm liền Chiêm Thành đã làm lễ tấn phong cho hai vị Hoàng hậu. Hoàng hậu của vua mới là con của một vị đại thần trong triều, Huyền Trân bây giờ đã đứng lên hàng Hoàng thái hậu.

Đu tháng tư năm ấy, Huyền Trân lâm bồn và hạ sinh một thế tử, đúng như nàng mong ước. Thế tử được đặt tên là Dayada; cái tên nà đã do Harijit đặt cho hồi vua còn sinh tiền. Huyền Trân ôm con trong tay. Nhớ tớiHarijit, nàng khóc như một đứa trẻ thơ. Thế tử rất bụ bẫm hai mắt đen láy. Vua cho bốn thị nữ đến phục vụ cho thái hậusăn sóc đứa bé. Thị Khanh và Thị ngọc rất ít khi được ẵm Dayada.

Bảy ngày sau khi Thế tử Dayada sinh, Huyền Trân vào gặp vua Chế Chí, tức là Jaya Simhavarman đệ tứ. Bà xin với vua phái một sứ đoàn qua Đại Việt cáo ai về việc vua Chế Mân băng hà và đồng thời cũng để báo hỷ về việc Thế tử Dayada ra đời. Vua bằng lòng và chỉ định một phái bộ do đại thần Bảo Lộc Kê dẫn đầu, đem theo nhiều cống phẩm. Một thớt bạch tượng được mang theo để dâng lên vua Anh Tông, nhân danh Thế tử Dayada. Huyền Trân nhân dịp ấy cho Thị Khanh theo về. Nàng viết một lá thư cho Thượng hoàng kể hết mọi việc và cũng để vĩnh biệt ngài. Nàng cũng viết một lá thư cho Thái hậu Tuyên Từ và một lá thư khác cho vua Anh Tông. Ba lá thư này nàng viết bằng chữ Hán và niêm phong cẩn thận. Nằng dặn Thị Khanh cất giữ cả ba lá thư và khi về tới nơi thì lập tức dâng ngay lên vua Anh Tông, không được chậm trễ. Rồi nàng vào cung lấy cho Thị Khanh một ít nữ trang riêng của nàng để Khanh làm vốn liếng sau khi lấy chồng.

Sứ đoàn Chiêm Thành lên đường mười hôm sau đó. Huyền Trân tính thầm trong bụng để xem chừng nào phái đoàn mới tới được Thăng Long. Có đem voi theo thế nào cũng đi chậm. May mắn lắm thì đến cuối tháng chín, phái đoàn mới tới được kinh sư. Một mặt nàng mong được phụ hoàng qua thăm trước khi nàng lên hỏa đàn, một mặt lại sợ cảnh lên hỏa đàn của nàng sẽ thương tâm qua đối với bậc cha già. Nàng chẳng biết nghĩ sao, chỉ biết niệm đức Bồ Tát Quán Thế Âm, cầu mong Bồ Tát sắp đặt cho nàng mọi chuyện.

Từ hôm ấy, Huyền Trân theo gương Phụ hoàng ăn chay. Mỗi buổi sáng nàng thức dậy thật sớm và hàng sám theo nghi thức Lục Thời Sám Hối Khoa Nghi của vua Trần Thái Tông soạn. Vua Thái Tông là vị vua đầu của triều Trần, là ông cố của Huyền Trân. Ngài đã từng sáng tác nhiều sách Phật trong đó có tác phẩm Thiền Tông Chỉ Nam mà hồi còn nhỏ nàng chỉ mới được đọc bài tựa. Tác phẩm ấy hiện giờ không có đây. Huyền Trân rất làm tiếc. Nàng muốn ngồi thiền như phụ hoàng nàng nhưng nàng chưa được dạy về cách thức thiền tập. Tuy vậy, nàng cũng cứ ngồi, một ngày nhiều bận, và đem hết tâm trí để niệm Phật. Thỉnh thoảng nàng cùng các thị nữ lên chùa lạy Phật. Chùa này là ngôi vihara lớn nhất ở thủ đô Vijaya. Ngày xưa Phụ vương nàng đã cư trú ở đây trong suốt thời gian làm thượng khách của quốc vương Chiêm Thành. Các tăng sĩ ở đây rất kính mến nàng. Họ đã từng biết mặt Phụ hoàng của nàng. Huyền Trân hỏi các thầy về cuộc viếng thăm của Phụ hoàng ngày xưa. Các vị đưa nàng tới thăm liêu phòng mà ngài đã từng cư trú, cho nàng xem đôi dép năm xưa mà ngài đã để lại chùa làm vật kỷ niệm. Huyền Trân xúc động khi trông thấy những kỷ vật ấy.

Hồi Harijit còn sống, chàng đã nói cho Huyền Trân nghe về Phụ hoàng của nàng. Vua kể lại rằng vua đã nhiều lần khẩn khoản mời Trúc Lâm đại sĩ vào cư trú trong cung nhưng ngài không thuận, bảo rằng ngài chỉ muốn cư trú tại vihara. Harijit từng hỏi các vị tăng sĩ trong chùa về ngài, và vị nào cũng tỏ vẻ kính mến và khâm phục đức độc của đại sĩ. Họ nói Trúc Lâm đại sĩ là một vị dhuta, nghĩa là một tăng sĩ tu theo khổ hạnh, y phục đơn sơ, ăn mỗi ngày một bữa và rất chuyên cần về thiền định. Tất cả các vị tăng sĩ trong vihara, kể cả vị trưởng lão, đều không theo kịp ngài. Từ Đại Việt qua, ngài đã đi bộ theo sứ đoàn Chiêm mà không chịu ngồi kiệu theo lời yêu cầu của sứ thần. Đi theo ngài có một vị tăng sĩ làm thị giả cho ngài; vị tăng sĩ này biết nói tiếng Chiêm Thành. Nhờ vị tăng sĩ phiên dịch, ngài đã giảng về Thiền học cho đại chúng tại vihara. Mỗi khi Harijit cho người thỉnh ngài về cung thọ trai, ngài cũng chỉ đi bộ. Harijit đã ngự tới chùa hơn mười lần để thăm ngài. Chàng nói là sự gặp gỡ với vị tăng sĩ Đại Việt này đã làm thay đổi cuộc đời của chàng.

Harijit nói vói Huyền Trân rằng cũng như bất cứ người thường dân nào của vương quốc Chiêm Thành, chàng lớn lên với ý niệm Đại Việt là kẻ thù truyền kiếp của dân tộc Chàm. Tuy Chiêm Thành bị buộc phải sang triều cống Đại Việt ba năm một lần, sứ Chiêm và sứ Việt gặp nhau ở nước Tống không bao giờ nhìn mặt nhau, và thường trực tránh né nhau. Khi Thượng hoàng nước Đại Việt mới vào đến Vijaya, Harijit vẫn nghĩ rằng một ông vua mà đi tu thì đó không phải là ngoài mục đích chính trị. Nhưng đời sống và nhân cách Thượng hoàng đã làm cho Harijit mở mắt, và từ sự ngạc nhiên, vua Chàm đã đi tới sự mến phục. Các vị tăng sĩ Chàm có mặt ở kinh đô Vijaya đều xác nhận với vua rằng vị Thượng hoàng Đại Việt là một bậc chân tu. Trúc Lâm đại sĩ đã nói với vua Chế Mân rằng ngài rất mừng khi thấy cuộc kháng chiến của Chiêm Thành đạt được thắng lợi vẻ vang và quân binh Hốt Tất Liệt đã phải rút về. Ngài nói phải chi hai nước Chiêm Việt xem nhau như hai nước anhh em để có đủ sức tự cương mã chống lại những âm mưu xâm chiếm của phương Bắc. Ngài có nhắc tới những cuộc binh lửa xưa nay giữa hai nước Chiêm Việt mà ngài mong ước rằng sẽ không bao giờ những cuộc binh lửa như thế lại tái diễn. "Khi tôi còn chưa nhắm mắt thì tôi quyết không để cho có một cuộc xung đột giữa hai nước chúng ta", người đã từng nói với vua. Vua Chế Mân thấy được lòng dạ của ông thầy tu Đại Việt. Thượng hoàng nói khi ngài mang bình bát vân du trong các làng mạc Chiêm Thành, ngài cảm thấy thương yêu người dân Chiêm không khác gì người dân Việt, và ngài nghĩ rằng đưa hai dân tộc vào binh lửa là một điều tội lỗi lớn, vì vậy khi ngài đề nghị gã công chúa Huyền Trân cho mình. Harijit thấy dây không phải là một việc xếp ngoại giao, có tính cách chính trị. Đó là một tiếng nói của trái tim, của tình thương. Thượng hoàng đem con mình mà phú thác cho vua Chiêm, đó cũng là đem trái tim của mình mà phú thác cho dân Chiêm. Có thể là nhân duyên lịch sử này sẽ xóa đi được bao nhiêu thù hận đã từng chất chứa lâu ngày trong lòng người Chàm. Harijit thấy được rằng hòa bình là một điều quý hóa. Chân Lạp đã từng đem binh qua xâm phạm lãnh thổ Chiêm Thành, và nhiều lần kinh đô Vijaya đã bị họ tàn phá. Nếu Chiêm Thành cứ theo đuổi chiến tranh liên miên với nước láng giềng miền Bắc thì tránh sao được cái ngày lưỡng dầu thọ địch, làm sao nước nhà tồn tại được trong cảnh trên đe dưới búa? Cũng vì vậy mà vua Chế Mân đã thấy được trong đề nghị của Thượng hoàng câu trả lời thỏa mãn được cả lý trí lẫn con tim của vua, và vua đã nghe theo lời Thượng hoàng.

Muốn cho cuộc hòa giải lịch sử này được thực hiện tốt đẹp, vua Chế Mân quyết định cắt hai châu Ô và Ri để làm lễ nạp trung. Việc nhượng đất này đã gây sóng gió trong triều Chiêm, nhưng cuối cùng triều thần đã chiều theo ý vị vua anh hùng của họ. Thế là một năm sau, Huyền Trân về Chiêm. Trong suốt thời gian nàng làm Hoàng hậu, ở vùng biên giới hai nước không hề xảy ra một cuộc xung đột nào. Huyền Trân nghe nói dân Chàm tại các thôn La Thủy, Tác Hồng và Đà Bồng thuộc châu ô không chịu thuận phục triều đình Đại Việt, cho nên vua Anh Tông đã sai quan Hành Khiển Đoàn Nhữ Hài vào đất mới, chọn người Chàm ra làm quan, cấp ruộng đất và miễn tô thuế cho dân chúng trong vòng ba năm. Đất hai châu từ đó được đổi tên là Thuận và Hoá, nhưng cuộc tình duyên giữa vua Chiêm và nàng công chúa Đại Việt ngắn ngủi quá. Nàng về tới kinh đô vào cuối tháng sáu năm ngoái thì đến giữa tháng năm năm nay vua Chế Mân băng. Mười một tháng làm Hoàng hậu ở xứ Chiêm đã qua mau như một giấc mộng, nhưng đó không phải là một giấc mộng. Thái tử Chế Đa Gia mà nàng đang ẵm trong tay là một chứng tích của cuộc tình duyên kỳ lạ giữa nàng và quốc vương Chiêm Thành. 

Bây giờ là đã vào gìữa tháng mười một. Chỉ còn có mười hôm nữa là Dayada được tròn ba tháng. Mắt Dayada rất sáng. Chú bé đã biết nhìn theo bàn tay mẹ, và đã biết cười mỗi khi Huyền Trân nói nựng với nó.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 28200)
Phương Trời Cao Rộng - Truyện dài của Vĩnh Hảo, Chiêu Hà xuất bản tại California, Hoa Kỳ năm 1993, tái bản năm 1995
(Xem: 6694)
Tiếng nói của những người con Phật có tấm lòng từ bi và trí tuệ đi vào đời...
(Xem: 8792)
Báo Chánh Pháp - bộ mới Số 43, tháng 06 năm 2015
(Xem: 9322)
Hy hữu, vì biết lấy Phật giáo làm lý tưởng đời mình và chọn sự thực hành Phật Pháp như là sinh hoạt nền tảng hàng ngày
(Xem: 15394)
Nguời quân tử ra làm quan đi vào con đường hành chính, không những ngồi ung dung nơi miếu đường nói truyện văn nhã, để lấy tiếng là người có đức vọng...
(Xem: 8259)
Báo Chánh Pháp Số 41 Tháng 4/2015
(Xem: 8688)
Tuyển tập những bài viết về mùa Xuân trong nền văn hóa Phật giáo Việt Nam. Giai Phẩm Xuân Ất Mùi 2015...
(Xem: 16741)
Những ngữ cú của Sư được chép rải rác trong trứ tác của các nhà, nhưng chưa được gom tập. Cho nên vào niên hiệu Nguyên Văn, thiền sư Huyền Khế biên tập và đặt tên là Động Sơn Lục, tàng bản tại Bạch Hoa Lâm.
(Xem: 26989)
Thiền Lâm Bảo Huấn đây chính là phần Ngữ lục. Nội dung của sách Bảo Huấn được chia thành 4 quyển, gồm gần 300 thiên. Mỗi thiên đều là những lời vàng ngọc để răn dạy về cách tu tâm xử thế...
(Xem: 18689)
Quyển Luận này về hình lượng rất bé bỏng, nhưng về phẩm chất thật quí vô giá. Một hành giả nếu thâm đạt ý chí quyển Luận này là đã thấy lối vào Đạo.
(Xem: 15664)
Là một sách tự lực của tác giả người Mỹ Dale Carnegie, được viết vào năm 1948. Bản Việt Ngữ do Nguyễn Hiến Lê dịch năm 1955 tại Sài Gòn và đưa vào tủ sách Học làm người.
(Xem: 22550)
Để góp nhặt hết tất cả những ý niệm tác thành tập sách nhỏ “Tâm Nguyên Vô Đề” này là một lời sách tấn, khuyến khích của Thiện hữu tri thức để lưu dấu một cái gì. Cái uyên nguyên của Tâm... Nguyên Siêu
(Xem: 19487)
“Phật pháp trong đời sống” của cư sĩ Tâm Diệu là tuyển tập về mười hai chuyên đề Phật học gắn liền với đời sống của người tại gia.
(Xem: 18369)
Gió không từ đâu tới; gió cũng đã chẳng đi về đâu. Gió hiện hữu, rồi gió tan biến, xa lìa. Tử sinh cũng như thế. Tuy có đó, tuy mất đó
(Xem: 16216)
Đa số Phật tử Việt Nam thường chỉ học hỏi Phật pháp qua truyền thống Trung Hoa; ít ai để ý đến sự sai biệt căn để giữa khởi nguyên của Phật giáo từ Ấn Độ
(Xem: 25656)
Trăng bồng bềnh trên ngàn thông Và thềm đêm vắng lạnh, khi âm xưa trong veo từ các ngón tay anh đến. Giai điệu cổ luôn khiến người nghe rơi nước mắt, nhưng nhạc Thiền ở bên kia tình cảm.
(Xem: 12892)
Tay Bụt trong tay ta có nghĩa là ta được nắm tay Bụt mà đi. Cũng có nghĩa là trong tay ta đã có tay Bụt. Bụt và ta không còn là hai thực tại riêng biệt.
(Xem: 37872)
“Teachings from Ancient Vietnamese Zen Masters” là bản dịch tiếng Anh nhiều bài thơ, bài kệ và bài pháp của chư tôn thiền đức Phật Giáo Việt Nam từ ngài Khương Tăng Hội ở thế kỷ thứ 3 sau Tây Lịch...
(Xem: 20101)
Chư Phật cùng tất cả chúng sanh chỉ là một tâm, không có pháp riêng. Tâm nầy từ vô thủy đến nay không từng sanh không từng diệt...
(Xem: 10722)
Bộ Tịnh Độ Thánh Hiền Lục do cư sĩ Bành Tế Thanh cùng cháu là Hy Tốc, người đời Càn Long nhà Thanh sưu tập những truyện niệm Phật được vãng sanh soạn thành.
(Xem: 10044)
Tâm là nguồn sống vô tận và ánh sáng của tâm là ánh sáng vô tận. Tâm lắng yên phiền nãotâm bình đẳng và thanh tịnh vô tận.
(Xem: 10564)
Nguyên tác: The Art of Happiness in a Troubled World; Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma và Howard C. Cutler; Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 10398)
Cuốn sách này được viết ở Thái Lan, nơi tôi đã sống trong một vài năm. Khi tôi gặp người Thái, tôi đã rất ấn tượng trước sự rộng lượng của họ.
(Xem: 11047)
Sách này không ngại phổ biến cho nhiều người cùng đọc. Có thể nhờ đọc nó, người ta có cơ hội bước vào cửa ngõ Chánh pháp...
(Xem: 15246)
Bửu Tạng Luận tác giảTăng Triệu, bài luận này và bộ Triệu Luận đều có ghi trong tập 96 của Tục Tạng Kinh, nhưng bộ Triệu Luận đã lưu hành từ xưa nay...
(Xem: 10849)
Theo truyền thuyết Ấn giáo, thần Vishnu có lần hoá sinh làm một vị vương tử sống bên bờ sông Hằng. Tên ông là Ravana...
(Xem: 19704)
Quyển Hai quãng đời của Sơ tổ Trúc Lâm do chúng tôi giảng giải, để nói lên một con người siêu việt của dân tộc Việt Nam.
(Xem: 11716)
Sư sống vào thời Hậu Lê, người ta quen gọi là Tổ Cầu. Tổ tiên quê ở làng Áng Độ, huyện Chân Phúc. Ông Tổ năm đời của Sư làm quan Quản chu tượng coi thợ đóng thuyền cho triều đình.
(Xem: 10788)
Đây là một quyển sách ghi lại ba ngày thuyết giảng của Đức Đạt-lai Lạt-ma tại thành phố Luân Đôn vào mùa xuân năm 1984, tức cách nay (2014) đúng ba mươi năm.
(Xem: 11254)
108 lời dạy của Đức Đạt-lai Lạt-ma được gom góp trong quyển sách tuy bé nhỏ này nhưng cũng đã phản ảnh được một phần nào tư tưởng của một con người rất lớn, một con người khác thường giữa thế giới nhiễu nhương ngày nay.
(Xem: 10115)
Đức Phật hướng dẫn cần chuyển hóa tâm thức làm cho nỗi đau, phiền não, nghiệp chướng không còn sức sống, lúc đó chúng ta mới đạt được hạnh phúc thật sự.
(Xem: 10573)
Đại sư quả quyết với chúng ta rằng những điều nói ra trong "Chứng Đạo Ca" là để dẫn chúng ta "Chứng thực tướng, không nhân pháp,"
(Xem: 11560)
Suốt hai mươi lăm thế kỷ hiện hữu trên thế gian này, đạo Phật chưa một lần gây tổn thương hoặc làm thiệt hại cho bất cứ một dân tộc, xã hội hay quốc gia nào.
(Xem: 10898)
Chủ yếu Đạo Phật là chỉ dạy chúng sanh giải thoát mọi khổ đau, song lâu đài giải thoát phải xây dựng trên một nền tảng giác ngộ...
(Xem: 11413)
Lăng Già ngời bóng nguyệt, Hoàng Anh đề trác tuyệt, Dị thục thức đã thuần, Ca bài ca bất diệt.
(Xem: 12166)
Bậc Thánh A La Hán, bậc đã thanh lọc tâm, là người không bao giờ còn phải tái sinh trở lại. Nếu tâm của ngài căn bảnthanh tịnh...
(Xem: 11071)
Tiếng đại hồng chung ngân vang như xé tan bầu không khí đang trầm lắng. Đó là báo hiệu cho mọi người chuẩn bị hành lễ của thời khóa Tịnh độ tối...
(Xem: 13025)
Chủ đề: 50 năm xuất giahành đạo của HT. Thích Như Điển
(Xem: 17789)
Sự Thực Hành Guru Yoga Theo Truyền Thống Longchen Nyingthig
(Xem: 15254)
Bản tiếng Anh của Santideva. A Guide to the Bodhisattva Way of Life; Do Đặng Hữu Phúc dịch sang tiếng Việt dựa theo bản Phạn-Anh.
(Xem: 15727)
Các Tổ sư Thiền có khi hỏi đã không đáp, mà dùng gậy đánh, roi quật, miệng hét như trường hợp Tổ Hoàng BáThiền sư Nghĩa Huyền...
(Xem: 11006)
Thân hình tuy còn ngồi ở nơi thành thị, nhưng phong thái mình đã là phong thái của người sống ở núi rừng. Khi các nghiệp (thân, khẩu và ý) đã lắng xuống thì thể và tính mình đều được an tĩnh...
(Xem: 12118)
Kinh Quán Niệm Hơi Thở là một hệ thống thiền tập rất căn bản của đạo Bụt, là một nghệ thuật vun trồngđiều phục thân tâm tuyệt vời.
(Xem: 11052)
Hồn Bướm Mơ Tiên là tác phẩm mang âm hưởng Phật giáo rất sâu sắc dưới cái nhìn của tác giả.
(Xem: 21864)
Phật Giáo còn được phân chia thành hai nhánh khác nhau là Tiểu Thừa (Hinayana) và Đại Thừa (Mahayana)... Nguyên tác: Ajahn Chan; Hoang Phong chuyển dịch
(Xem: 12099)
Giai Nhân Và Hòa Thượng gồm có 10 truyện ngắn Do Hội Giáo Dục Từ Thiện Sariputtra Xuất bản năm 2006... HT Thích Như Điển
(Xem: 9184)
Kỷ Yếu Kỷ Niệm Chu Niên 20 Năm Thành Lập Tu Viện Quảng Đức, chính thức ra mắt nhân dịp Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 15 của Giáo Hội, được tổ chức tại Tu Viện Quảng Đức từ ngày 1 đến 11 tháng 7 năm 2014...
(Xem: 20186)
Quyển sách nầy nhằm giải đáp một phần nào những thắc mắc trên qua kinh nghiệm bản thân của người viết... HT Thích Như Điển
(Xem: 17265)
Đi đến nước cùng non tận chỗ, Tự nhiên được báu chẳng về không... Thích Tâm Hạnh
(Xem: 10107)
Tôi chia sẻ các phương pháp điều trị ung thư không phải để khoe khoang kiến thức về bệnh tật, y khoa và thiền học... Chân Pháp Đăng
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant