Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

16. Hương sen cuối gió

04 Tháng Sáu 201100:00(Xem: 7933)
16. Hương sen cuối gió

BÓNG ÁO NÂU
TẬP SÁCH VỀ CUỘC ĐỜI THƯỢNG TỌA THÍCH CHƠN THANH

Phần II: Truyện ký Bóng áo nâu
Ðồng tác giả:
Thu Nguyệt - Ðỗ Thiền Ðăng - Thiện Bảo

Hương sen cuối gió.

Mấy hôm nay thầy thường đi bách bộ quanh hồ sen. Thỉnh thoảng dừng lại nhìn đàn cá bơi lội chung nhau theo bầy dưới hồ. Phải cùng sống chung trong một môi trường, cùng ăn, cùng ngủ, cùng tu, cùng học... những ý nghĩ về một Phật học viện nội trú dành cho tăng ni sinh cứ hiện ra trong tâm tưởng của thầy. Không thể để lâu hơn nữa. Môi trường hiện đại ngày nay có quá nhiều cám dỗ, dễ làm phân tâm những tăng ni trẻ. Sống ở chùa, thời khóa nhiều khi không thích hợp cho việc học hành, khó chuyên tâm vào việc học. Phải có một Phật học viện nội trú với những bước cải cách phù hợp, khoa học và nghiêm mật mới có thể góp phần đào tạo tăng tài cho thế hệ sau. Thế hệ các hòa thượng cao thâm thạc đức lớp trước dần khuất đi mà mảng trống chưa người thay thế. Tăng tài ở giai đoạn lịch sử này trống đi một mảng rất lớn. Phải lập tức ngay từ bây giờ khôi phục để thế hệ sau nhiều khả quan hơn. 

Không hiểu sao thầy cứ có cảm giác nôn nao, muốn làm nhanh, thực hiện gấp mọi chuyện. Thầy thấy mình bắt đầu có những biểu hiện của tuổi già. Thỉnh thoảng có những cơn choáng thoáng qua, không biết lý do. Dạo này lại hay mất ngủ. Những đêm trằn trọc, thầy lại nhớ về ông cụ ở quê. Thầy gọi điện về thăm ông thường xuyên hơn. Bà mất rồi, ông lẻ loi quạnh quẽ. Phải chi thầy có chùa, đem ông về phụng dưỡng thì tốt biết mấy. Ðành vậy thôi, thầy đã chọn nếp sống này rồi, thầy sẽ sống trong chúng mãi. Thương ông lắm nhưng chỉ thỉnh thoảng đón lên ở vài ngày. Thôi thì còn anh chị em lo cho ông. Là người xuất gia, cách báo hiếu hay nhất là báo hiếu theo lời Phật dạy. Ông bà đều hiểu đạo, tuy không xuất gia nhưng là phật tử thuần thành, vậy là đã tốt rồi, thầy cảm thấy yên tâm nhiều, hy vọng kiếp sau ông bà sẽ có một báo thân tốt, có đủ phước duyên làm tăng để tu tập. Thầy nhớ hôm đám tang của bà: Chưa bao giờ làng Mỹ Xương có một đám tang như thế. Tăng ni phật tử đến dự đông vô kể. Thầy đã hoàn thành nghĩa vụ của một người con. Ðám tang được tổ chức hết sức chu đáo dù điều kiện ở quê hạn chế. Thầy cảm thấy được chút an ủi dù có lúc thầy tưởng như mình ngã quị. Bà đã ra đi an ổn trong lời hộ niệm của thầy. Chính tay thầy đã vuốt mắt bà với lời khuyên: “Má đi thanh thản, đừng luyến tiếc, má hiểu Phật pháp rồi phải biết nương theo, cố chuyên lo niệm Phật”... Vậy mà lúc nhập quan cho bà rồi, ngồi lặng lẽ trong một góc lúc nửa đêm vắng khách, nhìn lên di ảnh bà, nhìn mấy cây đèn cầy lã chã tràn những giọt sáp trắng, rồi nhìn chiếc quan tài trơ cứng, trong đó là di thể người mẹ thương yêu đang nằm một mình đơn độc, cách ly vĩnh viễn với thế giới này, với những người thân... Thể xác kia rồi dần mục nát, không còn gì nữa cả, từ nay căn nhà này không còn má nữa rồi! Thầy cố hít vào thở ra để điều tâm mà sao nước mắt cứ trào! Những giọt lệ của người xuất gia khóc mẹ mới khiến cho người ta đau lòng thấm nhuần chữ hiếu, cảm cái ơn sinh thành dưỡng dục biết bao! Nhìn người trẻ khóc, ta xúc động có thể khóc theo dễ dàng, nhưng nhìn người lớn tuổi khóc, cảm giác ta nghẹn ngào xót xa, đau thắt, khó chịu đến không thể tả được! Thầy ngồi đó, hai hàng nước mắt len lén chảy, rơi thấm dài xuống ngực chiếc áo nâu!... Ðám tang bà xong, ông như người đãng trí. Thầy phải để ra nhiều ngày ở bên cạnh an ủi ông. Dạo này ông yếu quá. Thầy cảm thấy mình bất lực thật sự trước cái sanh già bệnh chết của kiếp người. Thầy nghe trong người của chính thầy cũng bắt đầu có sự bất ổn về sức khỏe.

Ngày thứ bảy, 21-7-2002.

Sau một ngày lên lớp - sáng dạy ở trường hạ Phổ Ðà, chiều giảng bốn tiết ở Vĩnh Nghiêm - thầy rất mệt mỏi. Ngồi sau xe chú Minh Nhẫn chở về, thầy cảm giác con đường từ Vĩnh Nghiêm về Huệ Nghiêm hôm nay sao mà xa! Cũng xe cộ tấp nập, khói bụi như mọi ngày mà sao thầy nghe ngột ngạt khó thở quá! Thầy chỉ mong nhanh về để được nghỉ ngơi. Bao nhiêu tấm hình vừa rửa, thầy đã chu đáo ký tên gởi tặng các thầy cô và tăng ni sinh. Chiều nay vừa gởi tặng xong mấy tấm cuối cùng cho các vị ở văn phòng, thầy chợt nhớ vẫn còn một số người mà thầy chưa gởi tặng đủ. Một cảm giác buồn bã kỳ lạ chưa bao giờ có. Ðầu cứ nghe ong ong, mặt gay gay sốt. Xe chạy vào cổng Huệ Nghiêm quen thuộc, lối đi này thầy đã đi về mấy chục năm rồi, tự dưng hôm nay sao thầy thấy có điều gì đó nao nao không tả được khi nhìn thấy tháp Phổ Ðồng đứng lặng lẽ trong chiều. Xe chạy vòng qua, thầy ngoái nhìn lại tháp, bất chợt thoáng qua trong đầu ý nghĩ: rồi sẽ có ngày mình cũng nhập tháp thôi. Mệt mỏi sao kiếp sống con người! Ờø mà sao hôm nay mình nghĩ cái gì đâu lung tung vậy, thầy lắc lắc đầu cho rãn cổ, vừa để bớt đi cảm giác nhức buốt, vừa như để xua những ý nghĩ mông lung của mình. Về đến phòng, thấy thầy Minh Thanh đứng đó. Nhìn nét mặt có vẻ uể oải của thầy, thầy Minh Thanh hỏi:

- Bữa nay thầy bệnh hay sao mà coi có vẻ mệt mỏi vậy?

Thầy đáp qua loa:

- Chắc bị cảm, tôi nghe trong mình hơi mệt.

- Coi thuốc men gì đi – thầy Minh Thanh nói, quay qua đưa mắt ngầm nhắc chú thị giả Minh Nhẫn. 

Thầy im lặng đi vào phòng, có cảm giác căn phòng sao mà chật chội hơn mọi ngày. Dù rất mệt, muốn nằm nghỉ ngay, nhưng thầy vẫn gắng đi rửa mặt, thắp cây nhang trên bàn thờ Phật. Nằm nghỉ một lúc, chợt nhớ đến bữa ăn chiều, sợ chi Ninh nhà bếp chờ, thầy đi xuống bếp ăn một ít hủ tiếu rồi lên nằm nghỉ. Những cơn nhức đầu cứ mỗi lúc một nhiều hơn. 

Tiếng kiểng đổ báo giờ tọa thiền, âm thanh quen thuộc hằng đêm. Thầy nằm lắng nghe hơi thở mình, nghe trong người thỉnh thoảng lại nhoáng lên những cơn hụt hẩng như mất trọng lượng, thoáng qua rất nhanh rồi trở lại bình thường

Sau giờ xả thiền, nghe chú thị giả báo là thấy thầy có vẻ mệt, thầy Minh Thanh xuống hỏi, định đưa thầy đi bệnh viện. Thầy không muốn làm phiền mọi người khi đêm đã khuya, thầy gượng cười, nói với thầy Minh Thanh:

- Chắc không sao đâu, uống thuốc rồi từ từ sẽ hết. 

Năm giờ sáng.

 Bệnh viện Triều An từ lúc đèn đêm trên đường chưa tắt đã tràn ngập bóng áo lam, áo nâu, áo vàng. Tin thầy bị bệnh nặng (huyết áp cao dẫn đến tai biến mạch máu não) bác sĩ báo là không còn hy vọng cứu chữa đã truyền đi trong đêm làm bàng hoàng các chùa trong thành phố lẫn các tỉnh. Ðủ các phương tiện xe từ mọi ngã đổ về. Chưa bao giờ mọi ngườixung quanh bệnh viện Triều An chứng kiến một một cảnh tượng như thế. Khắp trong ngoài bệnh viện đâu đâu cũng có bóng tăng ni. Những gương mặt âu lo, những giọt nước mắt, những giọng nói nghẹn ngào... 

Từng đoàn, từng đoàn lũ lượt, tăng niphật tử khắp mọi nơi đổ về. Ai cũng muốn gặp mặt thầy lần cuối. Ðông quá, không thể giải quyết xuể, đành chỉ sắp xếp cho mỗi đoàn cử một đại diện vào thăm thầy, dù chỉ được vào để nhìn thấy thầy nằm đó! Gương mặt hiền từ phúc hậu, quen thuộc... nhìn đến là đau lòng! Thầy sốt cao, mê man không còn nói được nữa. Thỉnh thoảng trong đôi mắt nhắm nghiền, hai giọt nước mắt trào ra lăn dài xuống... Người cha già của thầy ở quê đã kịp lên, nhưng không ai đủ can đảm báo với ông rằng thầy đang hấp hối! 

Không ai tin rằng thầy có thể ra đi vào lúc này. Không! Không thể!!!

Chiếc máy đo nhịp tim vô tri vô giác cứ giảm dần chỉ số báo hiệu!

Không còn tia hy vọng nào nữa, không thể giữ được thầy, mọi người đành quyết định đưa thầy trở về chùa.

Chùa Huệ Nghiêm... 00 giờ 20 phút...

Thầy đã không còn nữa!

!!!

Thầy đã thanh thản ra đi trên chiếc đơn của mình, giữa căn phòng nhỏ trong không gian Huệ Nghiêm quen thuộc suốt ba mươi bảy năm in bóng hình thầy. Nơi này, huynh đệ bao người đã đến rồi đi, thầy vẫn kiên trì ở lại cho đến giây phút chót. 

Hơi thở cuối cùng thầy trả cho trời đất, đã tan hòa trong gió Huệ Nghiêm... 

Cành hoa huệ trên bàn thờ Phật đột nhiên rơi một bông, nhẹ khẻ như một giọt trắng, trút chút làn hương dịu dàng thanh khiết sau cùng, quyện vào khói nhang phảng phất.

Tiếng tụng kinh hộ niệm lan thấm từng cành cây ngọn cỏ, từng lối đi, bậc thang, mảnh tường, góc cột; từ các tăng phòng đến các tháp ngoài sân; mặt nước hồ như bỗng đầy hơn, lấp loáng, ngân ngấn rưng rưng như ánh mắt tiếc thương của đất! 

Tiếng chuông ngân lên. Tiếng chuông vang xa mấy rồi cũng tắt, để tiếng chuông khác tiếp nối. Tiếng tụng kinh và nước mắt đêm này thì vẫn không ngớt, không nguôi.

Thầy nằm đó. sắc... không... không.. sắc... 

Chánh điện. Khói hương lẩn quẩn bay vòng... 

Mấy ngày qua, không biết bao nhiêu là tăng ni phật tử từ khắp mọi miền đất nước và cả ở nước ngoài đã đến lễ tang thầy. Người đến, người về cùng chung một ánh mắt. Hương hoa triền miên dường như bất tận...

Sáng mai là ngày di tiễn kim quan thầy đến nơi làm lễ trà tỳ. Vầng trăng đêm nay ánh sáng lạ lùng muôn nỗi dù bầu trời có thật nhiều mây! Khu vực Huệ Nghiêm rền vang tiếng tụng kinh. Người ngồi khắp mọi nơi, từ chánh điện tràn xuống sân, không cần ghế. Huệ Nghiêm thắp sáng đèn tất cả mọi chỗ trong chùa. Ai nấy chọn cho mình một góc, ngồi lặng lẽ bên gốc cây, băng đá, hành lang, bờ tường... Trên tay là quyển kinh Ðịa Tạng, chú tâm đọc tụng. Thỉnh thoảng lại có những giọt nước mắt rơi xuống trang kinh! Tiếng nấc nghẹn ngào rưng rức cố nén mà chốc chốc lại xen vào trong âm ba lời Pháp! Cây bằng lăng sân chùa thả rơi từng giọt cánh mỏng tím, lịm buồn! Hàng dương liễu không màng đến gió, im rũ gục đầu mang nặng những giọt sương. 

Tiếng tụng kinh...

Tiếng tụng kinh âm ba cả một vùng. Một không khí không ngôn từ nào, bút mực nào tả nỗi! Lâu lâu bất chợt một cơn gió thốc đến, lật bay bay những trang kinh, cuốn theo âm thanh rền vang ấy rồi đi mất hút. 

Thầy cũng đã đi ... rồi!

Dẫu còn đây muôn ngàn những bóng áo nâu, nhưng rõ ràng trống vắng làm sao khi một bóng áo nâu vừa khuất!

Bóng áo nâu ấy đã khuất nhưng đã để lại trên đời muôn ngàn những bóng áo nâu...

Bông sen chơn chất thanh khiết trong hồ vẫn nở, hương vẫn tỏa ra ngan ngát dù không còn có gió để mang đi. Hương không đến được với nhiều người nữa, nhưng dẫu sao ngọn gió trước đó cũng đã kịp mang đi một ít, rải khắp muôn rồi. Hương tỏa ra lặng lẽ tan vào không khí, dẫu không thấy nhưng đất trời vạn vật đã tự nhiên hương. 

Thế cũng là đã đủ. 

Sắc tức thị không, không tức thị sắc (Bát Nhã Tâm Kinh.)
 

Thành phố Hồ Chí Minh ngày 15-5-2004

Ðồng tác giả:

Thu Nguyệt - Ðỗ Thiền Ðăng - Thiện Bảo

An cư kiết hạ

nguồn sinh lực của tăng già

An cư kiết hạ là một thông lệ từ lâu của các đạo sĩ Ấn Độ khi tăng đoàn Phật giáo hãy còn chưa xuất hiện. Thời tiết Ấn Độ có vẻ khác hơn Việt Nam hay Trung Quốc cũng như các quốc gia khác: Từ tháng một đến tháng tư là mùa xuân, từ tháng chín đến tháng mười hai là mùa đông. Ấn Độ không có mùa thu. Một năm chia làm ba mùa rõ rệt như thế, nên các đạo sĩ qui định vào những tháng mưa gió nên an trú một nơi nhất định để bảo tồn sức khoẻ và tăng cường đạo lực. Giáo đoàn Phật giáo hợp thức hoá thông lệ này bắt đầu từ Lục quần Tỳ kheo (sáu thầy tỳ kheo chuyên gia khai duyên cho Phật chế giới). Suốt mấy tháng mùa mưa, nhóm sáu thầy tỳ kheo này lang thang du hoá khắp nơi không kể gì mưa gió, đạp dẫm lên hoa cỏ mùa màng mới đâm chồi hay những loài côn trùng vừa sanh nở. Cư sĩ chê trách hàng sa môn Thích tử thật quá đáng, các đạo sĩ khác vẫn có những tháng sống cố định, ngay đến loài cầm thú vẫn có mùa trú ẩn của nó, còn các vị hành đạo này thì luông tuồng không biết nghỉ chân vào mùa nào cả. Lúc ấy, đức Phật ở tại nước Xá Vệ, trong thành Cấp Cô Độc, biết được sự việc xảy ra liền ban hành quyết định cấm túc an cư cho toàn thể tăng đoàn trong các tháng đầu mùa mưa, tức từ mồng một trăng tròn của tháng A-sa-đà đến hết trăng tròn của tháng A-thấp-phược-đê-xà (Theo ngài Huyền Trang là nhằm 16 tháng 5 của Trung Quốc, sau vì muốn lấy ngày rằm tháng bảy Vu Lan làm ngày Tự tứ nên chọn ngày An cư là 16 tháng 4). Phật giáo Việt Nam cũng tuân theo nguyên tắc này nhưng thời gian có khác một chút. Nghĩa là thời tiết Việt Nam tuy thể hiện rõ rệt chỉ có hai mùa nắng và mùa mưa, nhưng vẫn qui định theo bốn mùa như Trung Quốc: xuân, hạ, thu, đông. Như vậy thời điểm để tu sĩ Phật giáo Việt Nam an cư là bắt đầu từ ngày rằm tháng 4 đến rằm tháng 7 (mùa hạ), đó gọi là tiền an cư. Hậu an cư là dành cho trường hợp đặc biệt, có duyên sự khẩn thiết thì có thể bắt đầu an cư từ 17 - 4 cho đến 17 - 5, và kết thúc dĩ nhiên cũng phải đủ 90 ngày như tiền an cư (cùng làm lễ Tự tứ, nhưng phải ở lại cho đủ số ngày). Riêng hệ phái Nguyên Thuỷ chọn thời điểm kiết hạ vào ngày rằm tháng 6 cho đến ngày rằm tháng 9. Tuỳ theo quốc độ, địa phương mà có những mùa an cư không hoàn toàn giống nhau, ở Việt Nam, một vài nơi còn có thêm kiết đông bắt đầu từ rằm tháng 9 đến rằm tháng 12 là dựa theo tinh thần của Luật Bồ Tát.

Vì sao lại phát sinnh thêm kiết đông thay vì chỉ có kiết hạ? Có phải an cưthời gian để tăng già tích luỹ nguốn sinh lực hay không?

Hàng xuất gia trong giáo đoàn Phật giáo bao giờ cũng tâm niệm hai nhiệm vụ cần phải sớm thành tựu: thượng cầu Phật đạohạ hóa chúng sanh. Song lộ trình tiến đến quả vị Phật hay Thánh quả thật gian truân cách trở, không phải là vấn đề một sớm một chiều hay một kiếp. Vì vậy việc tự lợi là một nhu cầu cần thiết cho bất cứ một hành giả nào còn vương mang pháp hữu lậu, chưa có phần dự vào dòng Thánh. Nếu như thời gian dành cho việc đi lại bên ngoài quá nhiều, mà căn bản phiền não vẫn còn sâu kín bên trong thì kết quả hoàn toàn sai với tinh thần hóa độ của đức Phật. Người bị trói tất nhiên không bao giờ cởi trói được cho người khác. Người có thật nhiều hạnh phúc, vượt lên trên những khổ đau triền phược mới có thể đưa người ra khỏi dòng tục bến mê. Hóa độ thì xem như chia phần, bớt đi. Mặc dù một ngọn đèn có thể thắp sáng hàng trăm nghìn ngọn đèn khác. Song một khi ngọn đèn ra trước gió, thì sự an nguy cũng giống như một người hành đạo chưa liễu đạo mà phải đương đầu với ngũ dục trần lao. Thế mới biết, an cưthời gian quý báu để người tu hànhđiều kiện nhìn lại chính mình, soi thấu bệnh tật phiền não hoặc mới huân tập hoặc lâu đời mà đoạn trừ, trị liệu. Ngoài ra việc tránh ngộ sát côn trùng hay không ảnh hưởng mùa màng của người thế tục cũng là một duyên cớ để trưởng dưỡng lòng từ bi. Song lý do trước mới là tinh thần chính yếu của việc cấm túc an cư.

Bộ Luật Tư Trì Ký định nghĩa: Lập tâm một chỗ gọi là Kiết; bộ Nghiệp Sớ định nghĩa: Thu thúc thân vào chỗ tịch tĩnh gọi là An. Như vậy dù kiết hạ hay kiết đông an cư thì mục đích chính vẫn là thúc liễm thân tâm, trau dồi giới đức. Tỳ kheo hay tỳ kheo ni nào không quan tâm đến việc tu tập thiền định để bồi dưỡng trí tuệ thì thật không xứng đáng là bậc mô phạm tỉnh thức. Sự khắc khe này cũng chỉ vì đức Phật muốn bảo hộ sức sống của tăng-già bằng việc triển khai năng lực tu tập của mỗi cá nhân. Nếu ai trong hàng xuất gia đệ tử Phật không tôn kính vâng giữ lời huấn thị của đức Phật, xem an cư là một điều bó buộc, một phương tiện nhỏ nhặt thì quả thật người ấy không những tự chối bỏ phần tự lợi mà gây ảnh hưởng không tốt cho tăng đoàn. Cũng như bác nông phu mỗi năm phải làm ruộng, nếu năm nào bỏ bê không chăm lo đến mùa màng thì bác sẽ bị nghèo nàn đói thiếu. Hàng Bí Sô nếu không có những ngày tháng cùng sinh hoạt cộng trú để sách tấn lẫn nhau thì làm sao có điều kiện để tạo thành năng lực hoà hợp và kiểm chứng giá trị thanh tịnh? Kết thúc khoá an cưTự Tứ, một hình thức tối quan trọng để tổng kết quá trình tu tập tiến triển hay lui sụt của từng cá nhân qua ba tiêu chuẩn: thấy, nghe, nghi. Những ai vượt ra khỏi phạm vi giới luật, buông lung theo ba nghiệp, hành động theo bản năng cố hữu thì sẽ bị cử tội giữa đại chúng để bổ khuyết sửa chữa.

Một lần, sau mùa an cư các thầy tỳ kheo lần lượt về vấn an đức Phật và trình bày công phu tu tập của mình. Đức Phật hỏi:

- Vừa qua các ông có được an lạc không?

- Thưa an lạc lắm ạ!

- Thế trong ba tháng ấy các ông tu tập pháp gì?

Các thầy tỳ kheo vui vẻ trả lời:

- Bạch Thế Tôn, chúng con thực hành pháp tịnh khẩu, tự mỗi người giữ im lặng tuyệt đối.

- Đức Phật quở trách

- Các ông thật vô trí, được sống chung sao không chịu trao đổi hay nhắc nhở nhau tu tập mà lại thực hiện pháp câm như thế, vậy an cư được lợi ích gì chứ? Các ông phải luôn sinh hoạt trong niệm đoàn kết, trên dưới thuận hoà, cùng thống nhất ý kiến, cùng bàn bạc trao đổihọc hỏi lẫn nhau, lẽ nào không thấy được giá trị của thấy, nghe và nghi làm tiêu chuẩn để thanh lọc mỗi người. Các ông đã bỏ phí một mùa an cư. Các ông đã hành động phi pháp.

Năng lực của đại chúng quả thật như biển (Đức chúng như hải) sẽ nâng đỡ những con thuyền lành tốt, khôn khéo chiều theo từng đợt sóng, và sẽ đào thải tất cả những con thuyền hư thủng ra khỏi lòng đại dương. Tăng đoàn muốn hòa hợp theo đúng bản chất của nó như nước với sữa thì buộc mỗi cá nhân phải tự nỗ lực, trang nghiêm chính mình. Ngày nay, những người trí thức ở phương Tây luôn tranh thủ cho mình một khoảng thời gian một tháng hay nhiều hơn trong năm để tu nghiệp, tức là bồi dưỡng thêm nghề nghiệp. Người tu sĩ Phật giáo lấy trí tuệ làm sự nghiệp lẽ nào không đầu tư vào công phu thiền định. Không có thời gian để cùng nhau nhắc nhở giới luật. Tứ niệm xứ, Tứ thánh chủng… Một mình một cõi du hóa lơ lỏng trong nhân gian thì rất khó cho việc thành tựu tuệ giác, hóa độ viên mãn.

Cũng như những giáo hội khác, ngày nay ở Việt Nam không còn giống như thời Phật ở Ấn Độ là hàng xuất gia không phải mỗi người du hóa một phương, mang theo ba y một bình bát và ngủ dưới gốc cây, nhưng lối sống theo từng tông phái, chùa riêng, tổ đình riêng, thầy riêng đệ tử riêng thì cũng xem như rời rạc, chưa đoàn kết hoà hợp. Vì lẽ chưa dung hoà đó mà Kiết hạ an cư đã trở thành qui luật rất cần thiết để làm phương thuốc hồi sinh, làm sống lại tình Linh Sơn cốt nhục mà lắm lúc vì những nguyên do gì đó, vì bệnh nghiệp cá biệt nào đó đã làm cho anh em cùng nhà phải bút chiến, khẩu chiến phân tranh cao hạ, làm cho sư tử phải trọng thương chỉ vì loài trùng ăn gặm trong thân sư tử. Hơn nữa, Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam hôm nay nhắm vào tinh thần thống nhất về tổ chức (thống nhất ý chí và hành động) thì Kiết hạ an cư là một phương tiện thuận lợi cho giáo hội xây dựng tăng đoàn đoàn kết hòa hợp và thống nhất mọi mặt theo phương châm: “Đạo pháp - Dân tộc - chủ nghĩa xã hội”.

Rõ ràng, ba tháng an cư, cửu tuần tu học đích thực là nguồn năng lực quí báu làm nóng lại và bền vững hơn tinh thần thanh tịnh hòa hợp của tăng-già. Chúng ta sẽ dễ dàng nhìn thấy sự hưng thịnh của Phật pháp khi chốn tòng lâm ngày ngày giới luật nghiêm minh, đêm đêm toạ thiền niệm Phật, trên dưới hoà hợp, tu tập trong niệm đoàn kết an hoà.

Mùa An Cư - PL 2544

Thích Chơn Thanh.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 10184)
Sự sinh ra cao quý, tự dothuận lợi này thật khó có được. Cầu mong con không lãng phísử dụng nó một cách có ý nghĩa.
(Xem: 11234)
Ta cần có những thiện hạnh để chấm dứt những dục vọng vô độ và việc coi mình là quan trọng; cách hành xử tránh điều độc hại như thuốc độc...
(Xem: 13572)
Xuất phát từ một nhận thức có tính thuyết phục về đạo Phật, quyển "Thuần Hóa Tâm Hồn" được viết với một văn phong hiện đại, trong sángtinh tế; nghiêm trang nhưng vẫn đan xen đôi nét hóm hỉnh.
(Xem: 13713)
Một cách khái quát, Thiền có thể hiểu là trạng thái tâm linh vút cao của một hành giả đã chứng ngộ. Với nghĩa này, Thiền cũng là Đạo, là Phật, là Tâm...
(Xem: 22181)
Các khoa học gia ngày nay trên thế giới đang có khuynh hướng chú trọng vào chế độ dinh dưỡng lành mạnh lấy chất bổ dưỡng từ nguồn thức ăn do thực vật đem lại...
(Xem: 21841)
Chúng tôi đi với hai mục đích chính: Thay mặt toàn thể Phật tử Việt Nam chiêm bái các Phật tích và viết một quyển ký sự để giới thiệu các Phật tích cho Phật Tử Việt Nam được biết.
(Xem: 27352)
Tâm tánh của chúng sinh dung thông không ngăn ngại, rộng lớn như hư không, lặng trong như biển cả. Vì như hư không nên thể của nó bình đẳng...
(Xem: 17766)
Tây phương Cực lạccảnh giới thanh tịnh giải thoát. Thanh tịnhvô nhiễm là thuần thiện, giải thoát là vượt ngoài ba cõi, vượt ngoài ba cõi là xả ly thế gian.
(Xem: 11722)
Tinh thần Đại thừa Phật giáo nhằm mục đích chuyển hóa cõi Ta-bà uế trược này trở thành Cực-lạc thanh lương. Sự phổ biến Phật giáo khắp mọi tầng lớp quần chúng là điều Phật tử phải thực hiện.
(Xem: 12316)
Là một tu sĩ Phật giáo Việt Namtrách nhiệm và nhiều nhiệt tình thì thấy điều gì hay trong Phật giáo tôi tán thán, biết việc gì dở tôi chê trách, đều nhằm mục đích xây dựng Phật giáo Việt Nam mà thôi.
(Xem: 25237)
Chúng ta tu Thiền là cốt cho tâm được thanh tịnh trong lặng. Từ tâm thanh tịnh trong lặng đó hiện ra trí vô sư. Trí vô sư hiện ra rồi thì chúng ta thấy biết những gì trước kia ta chưa hề thấy biết...
(Xem: 23261)
Đối tượng nghiên cứu của xã hội học là con người, trong khi đó, xã hội học Phật giáo có những bước nghiên cứu xa hơn không chỉ nói về con người mà còn đề cập đến các loài hữu tình khác...
(Xem: 28561)
Một chủ đề chính của cuốn sách này là qua thực hành chúng ta có thể trau dồi tỉnh giác lớn lao hơn suốt mỗi khoảnh khắc của đời sống. Nếu chúng ta làm thế, tự dolinh hoạt mềm dẻo liên tục tăng trưởng...
(Xem: 22756)
Chân thật niệm Phật, lạy Phật sám hối, giữ giới sát, ăn chay, cứu chuộc mạng phóng sinh. Đó là bốn điểm quan trọng mà sư phụ thường dạy bảo và khuyến khích chúng ta.
(Xem: 25671)
Con đường thiền tậpchánh niệm tỉnh giác, chứng nghiệm vào thực tại sống động. Khi tâm an định, hành giả có sự trầm tĩnh sáng suốt thích nghi với mọi hoàn cảnh thuận nghịch...
(Xem: 22274)
Với người đã mở mắt đạo thì ngay nơi “sắc” hiện tiền đó mà thấy suốt không chướng ngại, không ngăn che, nên mặc dù Sắc có đó vẫn như không, không một chút dấu vết mê mờ...
(Xem: 13982)
Trên đời này, hạnh phúc và khổ đau; chiến tranh và hòa bình; giàu và nghèo… nếu chúng ta chịu khó tu tập một chút và giữ tâm thật bình thản, chúng ta sẽ khám phá ra nhiều điều hay vô cùng.
(Xem: 13421)
Bước đường hành đạo của đức Phật thật sinh động trong khung cảnh Ấn Ðộ cổ đại được minh họa bằng các trích đoạn kinh kệ từ Tam Tạng Pàli nguyên thủy đầy thiền vị hòa lẫn thi vị...
(Xem: 22444)
Bắt đầu bằng cách bỏ qua một bên tất cả những mối quan tâm ở bên ngoài, và quay vào quán sát nội tâm cho đến khi ta biết tâm trong sáng hay ô nhiễm, yên tĩnh hay tán loạn như thế nào.
(Xem: 26337)
Kinh Nghĩa Túc đã bắt đầu dạy về không, vô tướng, vô nguyệnbất khả đắc. Kinh Nghĩa Túc có những hình ảnh rất đẹp về một vị mâu ni thành đạt.
(Xem: 18453)
Bản thể hiện tiền là Sự Sống Duy Nhất vĩnh hằng, luôn hiện tiền, vượt quá hằng hà sa số dạng hình thức sinh linh vốn lệ thuộc vào sinh và diệt.
(Xem: 18949)
Khi bạn chú tâm đến sự yên lặng, ngay lập tức có một trạng thái cảnh giác nhưng rất im lắng ở nội tâm. Bạn đang hiện diện. Bạn vừa bước ra khỏi thói quen suy tưởng của tâm thức cộng đồng...
(Xem: 34481)
Đây là phần thứ 2 trong 3 phần chính của cuốn Zen no Rekishi (Lịch Sử Thiền) do giáo sư Ibuki Atsushi soạn, xuất bản lần đầu tiên năm 2001 tại Tôkyô.
(Xem: 27348)
Thật ra chân lý nó không nằm ở bên đúng hay bên sai, mà nó vượt lên trên tất cả đối đãi, chấp trước về hiện hữu của Nhị Nguyên. Chân lý là điểm đến, còn hướng đến chân lý có nhiều con đường dẫn đến khác nhau.
(Xem: 28376)
Trong tiếng Phạn (Sanskrit), từ "Thiền" có ngữ nguyên là dhyâna. Người Trung Hoa đã dịch theo âm thành "Thiền na". Ý nghĩa "trầm tư mặc tưởng" của nó từ xưa trong sách vở Phật giáo lại được biểu âm bằng hai chữ yoga (du già).
(Xem: 21358)
Giác ngộ là sự hiểu biết đúng như thật; giải thoát là sự chấm dứt mọi phiền não khổ đau. Chỉ có sự hiểu đúng, biết đúng mới có sự an lạchạnh phúc...
(Xem: 14879)
Càng sống thiền định để thấu suốt cái vô thường, đau khổvô ngã trong đời sống thì ta càng dễ dàng mở rộng trái tim để có thể sống hòa ái và cảm thông cho tha nhân nhiều hơn.
(Xem: 19191)
Bồ Tát Quán Thế Âm là một trong những hình tượng gần gũi nhất với hầu hết tín đồ Phật giáo, dù ở bất cứ nơi đâu, dù thuộc tầng lớp nào. Ngài là biểu tượng của lòng đại bi...
(Xem: 10613)
Giáo dục của chúng ta là sự vun đắp của ký ức, sự củng cố của ký ức. Những thực hành và những nghi lễ của tôn giáo, đọc sách và hiểu biết của bạn, tất cả là sự củng cố của ký ức.
(Xem: 18559)
Đức Phật đã nhìn thấy rất rõ rằng, những trạng thái khác nhau của tâm và những hành động khác nhau của thân sẽ đưa đến những kết quả hoàn toàn khác biệt.
(Xem: 15658)
Phương pháp thiền tập được xuất phát từ phương Đông nhiều ngàn năm trước đây, sau khi được truyền sang phương Tây đã trở thành một phương pháp thực tập được nhiều người yêu thích...
(Xem: 13174)
Chư Bồ Tát, tùy theo hạnh nguyện thù thắng khác biệt mà mỗi vị mang một danh hiệu khác nhau, tựu trung hạnh nguyện của vị nào cũng vĩ đại rộng sâu không thể nghĩ bàn...
(Xem: 13415)
Tuy ra đời khá sớm trong dòng văn học Phật giáo, nhưng cho đến nay, điểm thú vị của độc giả khi đọc lại tập sách này là vẫn có thể nhận ra được những vấn đề quen thuộc với cuộc sống hiện nay của bản thân mình.
(Xem: 14016)
Chân lý chỉ có một, nhưng mỗi người đến với chân lý bằng một con đường khác nhau. Dù bằng con đường nào đi nữa thì đó cũng là hạnh phúc lớn nhất trong cuộc đời...
(Xem: 11785)
Đây là kết quả của 17 năm trường mà Ngài Huyền Trang đã ở tại Ấn Độ. Đi đến đâu Ngài cũng ghi lại từ khí hậu, phong thổ cho đến tập quán và nhất là những câu chuyện liên quan đến cuộc đời đức Phật...
(Xem: 11624)
Chính là nhờ vào con đường tu tập, vào sự bứng nhổ tận gốc rễ cái ảo tưởng rằng ta là một cá thể riêng biệt mà ta tìm lại được hạnh phúc chân thật sẵn có trong ta.
(Xem: 11336)
Đức Phật thuyết Pháp, chư tăng gìn giữ pháp Phật để vĩnh viễn lưu truyền làm đạo lý tế độ quần sanh. Vì thế, Phật, Pháp và Tăng là ba món báu của chúng sanh...
(Xem: 11882)
Sân chùa yên ả không một tiếng lá rơi. Mặt trời áp má lên những vòm cây xum xuê, chỉ để rớt nhiều đốm nắng rất nhỏ xuống đất, không nóng bức, không khó chịu...
(Xem: 19935)
Như những con người, tất cả chúng ta muốn an lạc hạnh phúc và tránh buồn rầu đau khổ. Trong kinh nghiệm hạn hẹp của mình, nếu chúng ta đạt đến điều này, giá trị bao la của nó có thể phát triển...
(Xem: 12389)
Ở xứ Tây Tạng, tạo hóa và dân sự dường như bảo nhau mà giữ không cho kẻ lạ bước vào! Núi cao chập chùng lên tận mây xanh có tuyết phủ...
(Xem: 13936)
Đức Phật Thích-ca Mâu-ni ra đời cách đây đã hơn 25 thế kỷ. Những gì ngài để lại cho cho chúng ta qua giáo pháp được truyền dạy khắp năm châu là vô giá...
(Xem: 13268)
Trong các vị cao tăng Trung Hoa, ngài Huyền Trang là người có công nghiệp rất lớn, đã đi khắp các nơi viếng Phật tích, những cảnh chùa lớn, quan sátnghiên cứu rất nhiều.
(Xem: 31937)
Những phương pháp và lời hướng dẫn mà Đức Phật đã đề ra giúp chúng ta có thể từng bước tiến đến một sự giác ngộ sâu xa và vượt bậc, và đó cũng là kinh nghiệm tự chúng Giác Ngộ của Đức Phật.
(Xem: 13426)
Vào một buổi chiều lười biếng ở Sydney, tôi mở Tivi và thấy chương trình Oprah Winfrey đang tranh luận về kiếp trước kiếp sau, cuộc tranh luận rất sôi nổi.
(Xem: 12747)
Đây là một cuốn nhật ký ghi chép cuộc hành trình đi về Ấn Độ để học đạo. Tác giả nhân khi chùa Văn Thù Sư Lợi tổ chức chuyến đi hành hương các Phật tích tại Ấn đã tháp tùng theo...
(Xem: 13322)
Sách gồm những lời phát biểu của Đức Đạt-Lai Lạt-Ma về Phật giáo và vài vấn đề liên quan đến Phật giáo, chọn lọc từ các bài diễn văn, phỏng vấn, các buổi thuyết giảng và các sách của Đức Đạt-Lai Lạt-ma.
(Xem: 11878)
Trời bên này đã thật sự vào thu rồi đó! Buổi chiều, con đường về nhà hai bên rừng có ngàn lá đổi sang màu trái chín, đẹp kỳ diệu.
(Xem: 21848)
Ni sư Ayya Khema viết quyển tự truyện này không vì mục đích văn chương, mà để chúng ta từ câu chuyện đời của Ni sư tìm được những bài học giá trị về con đường đạo Người đã đi qua.
(Xem: 11085)
“Đạo lý nhà Phật, là một nền đạo lý thâm trầm, siêu việt hơn hết”. Ấy là lời nói của nhiều nhà thông thái xưa nay trên hoàn võ, và cũng là một mối cảm của chúng tôi nữa.
(Xem: 12890)
Các chân sư thực hiện những kỳ công của các ngài mà không chút tự hào, với một thái độ giản dị hồn nhiên hoàn toàn như trẻ con. Các ngài biết rằng, năng lực của tình thương luôn che chở các ngài.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant