BÓNG
ÁO NÂU
TẬP
SÁCH VỀ CUỘC ĐỜI THƯỢNG TỌA THÍCH CHƠN THANH
Phần III:
Những bài
viết về thầy
Tình
huynh đệ
Tết
nào cũng vậy, nhóm tăng ni sinh trường trung cấp Phật học
khóa III chúng tôi đi đãnh lễ chư vị tôn túc trong ban giám
hiệu và ban giảng sư.
Như
thường lệ, tết năm Nhâm Ngọ, đúng với câu: “mồng một
tết cha, mồng ba tết thầy”, chúng tôi hẹn nhau cùng đến
tổ đình Huệ Nghiêm. Ngọn gió mang đầy hương vị tết ùa
vào liêu phòng. Chúng tôi quì bên bàn Phật để nghe lời giáo
huấn đầu năm mới của thầy, nhẹ nhàng mà sâu sắc.
Tết
năm Quí Mùi, chúng tôi lại về nhưng chỉ để thắp hương
dâng lời tưởng niệm. Chỉ còn nụ cười trong di ảnh của
thầy vẫn ngọt ngào bao dung đón chúng tôi. Thầy mất, chúng
tôi không đi mồng ba, mà lại về mồng bốn để thể hiện,
kỷ niệm về một sự thay đổi... Ngày trước, con đường
tương lai của chúng tôi luôn có đôi bàn tay thầy dìu dắt.
Bây giờ thầy không còn nữa, chúng tôi đành gói ghém những
lời giảng quí báu ngày xưa làm hành trang cho cuộc đời mình.
Thượng
toạ Thiện Pháp kể cho chúng tôi nghe về những kỷ niệm
khó quên thời còn là học tăng dưới ngôi trường Cao đẳng
Phật học Huệ Nghiêm:
- Thấy
mấy đứa bây giờ, thầy nhớ lại hồi đó, gần đến ngày
thi, cả nhóm (thầy Chơn Thanh, thầy Thiện Pháp, thầy Minh
Thông) xuống chùa Long Khánh huyện Bình Chánh để ôn bài thi.
Mọi người hứa với nhau hễ ai không thuộc sẽ bị
phạt, rồi phân công người công phu, người nấu cơm, người
rửa chén. Sau này, làm việc trong giáo hội, thầy chở ổng
(thầy Chơn Thanh) trên chiếc xe cánh én. Sáng chở đi, chiều
chở về. Lúc thầy về chùa Phước Thành, trưa cũng chở ổng
về, thầy ngủ giừơng, ổng ngủ võng. Vậy mà bốn mươi năm đã trôi qua, mãi đùm bọc thương yêu, quí trọng nhau, chưa bao giờ giận hờn, nặng lời cho đến ngày ổng
về Phật...
Thượng
toạ kể xong, cười giòn tan, hình như TT. tâm đắc lắm
về cái thời ấy. TT. đưa cho chúng tôi tấm hình, sau lưng
có ghi dòng chữ nghịch ngợm: “hai nhà lãnh tụ”, trong ảnh:
một người cao lớn ốm nhom, một người bề thế, tròn trịa.
Trông dáng vẽ bên ngoài thật so le, nhưng trên hai gương mặt
đều cùng toát lên vẻ nhiệt thành đáng kính. Nhóm tăng ni
trẻ chúng tôi thường gọi vui một cách kính trọng, thân
mật: thầy Chơn Thanh là Ba và thầy Thiện Pháp là Má, bởi
cả hai người – dù mỗi người một cách, nhưng đều
lo lắng và thương yêu chúng tôi như con. Thầy Chơn Thanh với
vẻ uy nghiêm, nhân từ, thân thiết như một người cha; thầy
Thiện Pháp với tính xởi lởi gần gũi như một người mẹ.
“Má” thường ngày vô tư, tuệch toạc là vậy, nhưng khi
nhắc đến “Ba” bỗng trầm ngâm, giọng đầy xúc động:
- Kìa,
trên chiếc xe đó, mùng bốn tết, họp đầu năm tại thành
hội xong, thầy chở ổng thẳng về chùa Huệ Nghiêm, chơi
cả ngày. Mùng bốn tết năm nay, chiếc xe nhẹ tênh, buồn
bã, thầy về lại Huệ Nghiêm, ngồi trên xe một mình, cứ
nghe trống vắng phía sau! Ờ, mà không chỉ phía sau, khi bước
xuống xe vào Huệ Nghiêm là thấy trống vắng tứ phía! Ði
qua phòng ổng là thấy... Mà thôi, mấy đứa uống nước đi - TT. lại cười, giả lả lãng sang chuyện khác như muốn tránh
nỗi xúc động đang tràn ngập trong lòng.
Vào
đảnh lễ TT. Minh Thông, vừa dặt chân đến cửa phòng, chúng
tôi đã nhìn thấy di ảnh của thầy được đặt ngay bên
cạnh chiếc đơn của TT. như một người thân thiết nhất.
TT. Minh Thông là người trầm lắng, sâu sắc. Ngày thầy còn
sống, hai người như tay mặt tay trái. Mỗi sáng dậy sớm
cùng tập thể dục đi bộ quanh chùa. Bây giờ còn lại một
mình, buổi sáng là lúc TT. nhớ đến thầy nhiều nhất!
Căn phòng nhỏ ở Văn phòng II TUGH mà hai thầy được dành
riêng để nghỉ trưa hằng ngày khi lên lớp, kể từ khi thầy
mất đi, TT. không bao giờ bước chân vào đó nữa! Không kể
gì nhiều với chúng tôi, bởi TT. là người tính tình lặng
lẽ, kín đáo, nụ cười điềm đạm vẫn nở nhẹ nhàng trên
môi khi trò chuyện với chúng tôi, nhưng trong sâu thẳm ánh
mắt TT. tôi thấy rất rõ những giọt sương ẩn chứa... Những
giọt sương ấy sẽ lặng lẽ rơi vào những đêm thâu, khi
chỉ còn có một mình TT. bên tách trà khuya. TT. vẫn rót cho
thầy một tách và vẫn pha thêm nước sôi vào cho tách trà
nhạt bớt đúng theo thói quen của thầy khi còn sống. Trong
căn phòng trước đây hai người đã từng ngồi, giờ một
mình TT. lặng yên với hai tách trà! Uống hết tách của
mình, châm thêm vào tách của bạn... tách trà ấy cứ đầy,
cứ đầy... như nỗi lòng nhớ tiếc xót xa của người ở
lại! Nghĩ đến cảnh đó, tôi không sao kềm được nước
mắt!
Cổ
nhân từng nói: “Trên đường có bạn đồng hành, niềm vui
được nhân đôi và nỗi buồn vơi đi một nửa”. Tình huynh
đệ cao cả thiêng liêng của quí thầy là bài học thân giáo
vô cùng sâu sắc mà quí thầy dành cho chúng tôi.
Chư
Phật giáng sinh đã cứu khổ ban vui cho thế giới, con người
từ đó có bậc đạo sư chỉ ra con đường tìm về chân lý
giải thoát. Quí thầy không những đã dạy cho chúng tôi hiểu
được Giáo Pháp cao minh mà còn là những tấm gương sống
về mối quan hệ Tăng Già hòa hợp. Mong rằng với kho tàng
vô giá ấy, Tứ Chúng đồng tu sẽ mang lại hạnh phúc,
giải thoát cho tất cả muôn loài.
TN.
Thánh Tâm
An
cư kiết hạ
nguồn
sinh lực của tăng già
An
cư kiết hạ là một thông lệ từ lâu của các đạo sĩ Ấn
Độ khi tăng đoàn Phật giáo hãy còn chưa xuất hiện. Thời
tiết Ấn Độ có vẻ khác hơn Việt Nam hay Trung Quốc cũng
như các quốc gia khác: Từ tháng một đến tháng tư là mùa
xuân, từ tháng chín đến tháng mười hai là mùa đông. Ấn
Độ không có mùa thu. Một năm chia làm ba mùa rõ rệt như
thế, nên các đạo sĩ qui định vào những tháng mưa gió nên
an trú một nơi nhất định để bảo tồn sức khoẻ và tăng
cường đạo lực. Giáo đoàn Phật giáo hợp thức hoá thông
lệ này bắt đầu từ Lục quần Tỳ kheo (sáu thầy tỳ kheo
chuyên gia khai duyên cho Phật chế giới). Suốt mấy tháng mùa
mưa, nhóm sáu thầy tỳ kheo này lang thang du hoá khắp nơi không
kể gì mưa gió, đạp dẫm lên hoa cỏ mùa màng mới đâm chồi
hay những loài côn trùng vừa sanh nở. Cư sĩ chê trách hàng
sa môn Thích tử thật quá đáng, các đạo sĩ khác vẫn có
những tháng sống cố định, ngay đến loài cầm thú vẫn
có mùa trú ẩn của nó, còn các vị hành đạo này thì luông
tuồng không biết nghỉ chân vào mùa nào cả. Lúc ấy, đức
Phật ở tại nước Xá Vệ, trong thành Cấp Cô Độc, biết
được sự việc xảy ra liền ban hành quyết định cấm túc
an cư cho toàn thể tăng đoàn trong các tháng đầu mùa mưa,
tức từ mồng một trăng tròn của tháng A-sa-đà đến hết
trăng tròn của tháng A-thấp-phược-đê-xà (Theo ngài Huyền
Trang là nhằm 16 tháng 5 của Trung Quốc, sau vì muốn lấy ngày
rằm tháng bảy Vu Lan làm ngày Tự tứ nên chọn ngày An cư
là 16 tháng 4). Phật giáo Việt Nam cũng tuân theo nguyên tắc
này nhưng thời gian có khác một chút. Nghĩa là thời tiết
Việt Nam tuy thể hiện rõ rệt chỉ có hai mùa nắng và mùa
mưa, nhưng vẫn qui định theo bốn mùa như Trung Quốc: xuân,
hạ, thu, đông. Như vậy thời điểm để tu sĩ Phật giáo
Việt Nam an cư là bắt đầu từ ngày rằm tháng 4 đến rằm
tháng 7 (mùa hạ), đó gọi là tiền an cư. Hậu an cư là dành
cho trường hợp đặc biệt, có duyên sự khẩn thiết thì
có thể bắt đầu an cư từ 17 - 4 cho đến 17 - 5, và kết
thúc dĩ nhiên cũng phải đủ 90 ngày như tiền an cư (cùng
làm lễ Tự tứ, nhưng phải ở lại cho đủ số ngày). Riêng
hệ phái Nguyên Thuỷ chọn thời điểm kiết hạ vào ngày
rằm tháng 6 cho đến ngày rằm tháng 9. Tuỳ theo quốc độ,
địa phương mà có những mùa an cư không hoàn toàn giống
nhau, ở Việt Nam, một vài nơi còn có thêm kiết đông bắt
đầu từ rằm tháng 9 đến rằm tháng 12 là dựa theo tinh thần
của Luật Bồ Tát.
Vì
sao lại phát sinnh thêm kiết đông thay vì chỉ có kiết hạ?
Có phải an cư là thời gian để tăng già tích luỹ nguốn
sinh lực hay không?
Hàng
xuất gia trong giáo đoàn Phật giáo bao giờ cũng tâm niệm
hai nhiệm vụ cần phải sớm thành tựu: thượng cầu Phật
đạo và hạ hóa chúng sanh. Song lộ trình tiến đến quả
vị Phật hay Thánh quả thật gian truân cách trở, không phải
là vấn đề một sớm một chiều hay một kiếp. Vì vậy việc
tự lợi là một nhu cầu cần thiết cho bất cứ một hành
giả nào còn vương mang pháp hữu lậu, chưa có phần dự vào
dòng Thánh. Nếu như thời gian dành cho việc đi lại bên ngoài
quá nhiều, mà căn bản phiền não vẫn còn sâu kín bên trong
thì kết quả hoàn toàn sai với tinh thần hóa độ của đức
Phật. Người bị trói tất nhiên không bao giờ cởi trói được
cho người khác. Người có thật nhiều hạnh phúc, vượt lên
trên những khổ đau triền phược mới có thể đưa người
ra khỏi dòng tục bến mê. Hóa độ thì xem như chia phần,
bớt đi. Mặc dù một ngọn đèn có thể thắp sáng hàng trăm
nghìn ngọn đèn khác. Song một khi ngọn đèn ra trước gió,
thì sự an nguy cũng giống như một người hành đạo chưa
liễu đạo mà phải đương đầu với ngũ dục trần lao. Thế
mới biết, an cư là thời gian quý báu để người tu hành
có điều kiện nhìn lại chính mình, soi thấu bệnh tật phiền
não hoặc mới huân tập hoặc lâu đời mà đoạn trừ, trị
liệu. Ngoài ra việc tránh ngộ sát côn trùng hay không ảnh
hưởng mùa màng của người thế tục cũng là một duyên cớ
để trưởng dưỡng lòng từ bi. Song lý do trước mới là
tinh thần chính yếu của việc cấm túc an cư.
Bộ
Luật Tư Trì Ký định nghĩa: Lập tâm một chỗ gọi là Kiết;
bộ Nghiệp Sớ định nghĩa: Thu thúc thân vào chỗ tịch tĩnh
gọi là An. Như vậy dù kiết hạ hay kiết đông an cư thì
mục đích chính vẫn là thúc liễm thân tâm, trau dồi giới
đức. Tỳ kheo hay tỳ kheo ni nào không quan tâm đến việc
tu tập thiền định để bồi dưỡng trí tuệ thì thật không
xứng đáng là bậc mô phạm tỉnh thức. Sự khắc khe này
cũng chỉ vì đức Phật muốn bảo hộ sức sống của tăng-già
bằng việc triển khai năng lực tu tập của mỗi cá nhân.
Nếu ai trong hàng xuất gia đệ tử Phật không tôn kính vâng
giữ lời huấn thị của đức Phật, xem an cư là một điều
bó buộc, một phương tiện nhỏ nhặt thì quả thật người
ấy không những tự chối bỏ phần tự lợi mà gây ảnh hưởng
không tốt cho tăng đoàn. Cũng như bác nông phu mỗi năm phải
làm ruộng, nếu năm nào bỏ bê không chăm lo đến mùa màng
thì bác sẽ bị nghèo nàn đói thiếu. Hàng Bí Sô nếu không
có những ngày tháng cùng sinh hoạt cộng trú để sách tấn
lẫn nhau thì làm sao có điều kiện để tạo thành năng lực
hoà hợp và kiểm chứng giá trị thanh tịnh? Kết thúc khoá
an cư là Tự Tứ, một hình thức tối quan trọng để tổng
kết quá trình tu tập tiến triển hay lui sụt của từng cá
nhân qua ba tiêu chuẩn: thấy, nghe, nghi. Những ai vượt ra khỏi
phạm vi giới luật, buông lung theo ba nghiệp, hành động theo
bản năng cố hữu thì sẽ bị cử tội giữa đại chúng để
bổ khuyết sửa chữa.
Một
lần, sau mùa an cư các thầy tỳ kheo lần lượt về vấn an
đức Phật và trình bày công phu tu tập của mình. Đức Phật
hỏi:
- Vừa
qua các ông có được an lạc không?
- Thưa
an lạc lắm ạ!
- Thế
trong ba tháng ấy các ông tu tập pháp gì?
Các
thầy tỳ kheo vui vẻ trả lời:
- Bạch
Thế Tôn, chúng con thực hành pháp tịnh khẩu, tự mỗi người
giữ im lặng tuyệt đối.
- Đức
Phật quở trách:
- Các
ông thật vô trí, được sống chung sao không chịu trao đổi
hay nhắc nhở nhau tu tập mà lại thực hiện pháp câm như
thế, vậy an cư được lợi ích gì chứ? Các ông phải luôn
sinh hoạt trong niệm đoàn kết, trên dưới thuận hoà, cùng
thống nhất ý kiến, cùng bàn bạc trao đổi và học hỏi
lẫn nhau, lẽ nào không thấy được giá trị của thấy, nghe
và nghi làm tiêu chuẩn để thanh lọc mỗi người. Các ông
đã bỏ phí một mùa an cư. Các ông đã hành động phi pháp.
Năng
lực của đại chúng quả thật như biển (Đức chúng như
hải) sẽ nâng đỡ những con thuyền lành tốt, khôn khéo chiều
theo từng đợt sóng, và sẽ đào thải tất cả những con
thuyền hư thủng ra khỏi lòng đại dương. Tăng đoàn muốn
hòa hợp theo đúng bản chất của nó như nước với sữa
thì buộc mỗi cá nhân phải tự nỗ lực, trang nghiêm chính
mình. Ngày nay, những người trí thức ở phương Tây luôn
tranh thủ cho mình một khoảng thời gian một tháng hay nhiều
hơn trong năm để tu nghiệp, tức là bồi dưỡng thêm nghề
nghiệp. Người tu sĩ Phật giáo lấy trí tuệ làm sự nghiệp
lẽ nào không đầu tư vào công phu thiền định. Không có
thời gian để cùng nhau nhắc nhở giới luật. Tứ niệm xứ,
Tứ thánh chủng… Một mình một cõi du hóa lơ lỏng trong
nhân gian thì rất khó cho việc thành tựu tuệ giác, hóa độ
viên mãn.
Cũng
như những giáo hội khác, ngày nay ở Việt Nam không còn giống
như thời Phật ở Ấn Độ là hàng xuất gia không phải mỗi
người du hóa một phương, mang theo ba y một bình bát và ngủ
dưới gốc cây, nhưng lối sống theo từng tông phái, chùa
riêng, tổ đình riêng, thầy riêng đệ tử riêng thì cũng
xem như rời rạc, chưa đoàn kết hoà hợp. Vì lẽ chưa dung
hoà đó mà Kiết hạ an cư đã trở thành qui luật rất cần
thiết để làm phương thuốc hồi sinh, làm sống lại tình
Linh Sơn cốt nhục mà lắm lúc vì những nguyên do gì đó,
vì bệnh nghiệp cá biệt nào đó đã làm cho anh em cùng nhà
phải bút chiến, khẩu chiến phân tranh cao hạ, làm cho sư
tử phải trọng thương chỉ vì loài trùng ăn gặm trong thân
sư tử. Hơn nữa, Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam hôm nay nhắm
vào tinh thần thống nhất về tổ chức (thống nhất ý chí
và hành động) thì Kiết hạ an cư là một phương tiện thuận
lợi cho giáo hội xây dựng tăng đoàn đoàn kết hòa hợp
và thống nhất mọi mặt theo phương châm: “Đạo pháp - Dân
tộc - chủ nghĩa xã hội”.
Rõ
ràng, ba tháng an cư, cửu tuần tu học đích thực là nguồn
năng lực quí báu làm nóng lại và bền vững hơn tinh thần
thanh tịnh hòa hợp của tăng-già. Chúng ta sẽ dễ dàng nhìn
thấy sự hưng thịnh của Phật pháp khi chốn tòng lâm ngày
ngày giới luật nghiêm minh, đêm đêm toạ thiền niệm Phật,
trên dưới hoà hợp, tu tập trong niệm đoàn kết an hoà.
Mùa
An Cư - PL 2544
Thích
Chơn Thanh.