Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

33 Bài tán hình tượng Tổ sư của ngài Hám Sơn

04 Tháng Sáu 201100:00(Xem: 10112)
33 Bài tán hình tượng Tổ sư của ngài Hám Sơn

CAO TĂNG DỊ TRUYỆN
(Truyện Kể Các Vị Cao Tăng Trung Quốc)
Hạnh Huệ biên soạn - Nhà Xuất Bản TP. Hồ Chí Minh 2001

PHỤ LỤC 33 VỊ TỔ

33 Bài tán Hình Tượng TỔ SƯ của ngài HÁM SƠN

Tổ thứ 1

TÔN GIẢ MA HA CA DIẾP

(Maha-Kasypa)

Thân hình sắc vàng
 Kim chi sắc hình
 
Kim cang là tâm
 Kim cang vị tâm
 
Vâng gìn huệ mạng
 Phụng trì tuệ mạng
 
Thường chuyển pháp luân
 Thường chuyển pháp luân
 
Thế Tôn nâng hoa
 Thế Tôn niêm hoa
 
Khẽ mỉm miệng cười
 Phá nhan nhất tiếu
 
Ðến nay khiến ngưòi
 Chí kim linh nhân 
 
Nghĩ suy chẳng đến.
 Tư nghì bất đáo.
 

 

Tổ thứ 2

 TÔN GIẢ A NAN

(Ananda)

Nghe nhiều như biển
 Ða văn như hải
 
Uống dòng rượu pháp
 Ẩm súc pháp lưu
 
Chư Phật còn mất
 Chư Phật xuất một
 
Chẳng rời đầu lưỡi
 Bất ly thiệt đầu
 
Pháp êm dịu hóa
 Cổ hoàng pháp hóa
 
Tiết phách thành lệnh
 Tiết phách thành lệnh
 
Thế nên thầy ta
 Thị cố ngã sư
 
Là chánh trong thiên
 Vi thiên trung chính.
 

 

Tổ thứ 3

 TÔN GIẢ THƯƠNG NA HÒA TU

(Sanakavasa)

Căn linh Bát Nhã 
 Bát Nhã linh căn
 
Kiếp trước đã chứng
 Túc sanh dĩ chứng
 
Nên Sư sắp sanh
 Cố sư tương xuất
 
Cỏ lành ứng trước
 Thụy thảo tiên ứng
 
Dùng tâm ấn tâm
 Dĩ tâm ấn tâm
 
Như lửa vào lửa
 Như hỏa đầu hỏa
 
Ðường hẹp gặp nhau
 Hiệp lộ tương phùng
 
Không có chỗ trốn
 Ðịnh một xứ đóa.
 

 

Tổ thứ 4

TÔN GIẢ ƯU BA CÚC ÐA

(Upagupta)

Một người tâm không
 Nhất nhân tâm không
 
Cung ma chấn động
 Ma cung chấn động
 
Cầm mũi kim cương
 Ác kim cương phong
 
Ai dám đùa giỡn
 Thùy cảm khinh lộng
 
Nếu chịu quay đầu
 Nhược khẳng hồi quang
 
Tâm cuồng chóng hết
 Cuồng tâm đốn hiết
 
Lễ bái quy y
 Lễ bái quy y
 
Các tội tiêu diệt
 Chư tội tiêu diệt.
 

 

Tổ thứ 5

 TÔN GIẢ ÐỀ ÐA CA

 (Dhrtaka)

Ðã ngộ bổn tâm
 Dĩ ngộ bổn tâm
 
Như trời soi đêm
 Như nhật chiếu dạ
 
Mộng sanh tử này
 Thị sanh tử mộng
 
Ánh sáng siêu việt
 Quang minh siêu việ
 
Pháp thầy vốn không
 Sư pháp bổn
 
Tâm con chẳng có
 Ngã tâm bất hữu
 
Như không hợp không
 Như không hợp không
 
Lưỡi không ra miệng
 Thiệt bất xuất khẩu.
 

 

Tổ thứ 6

TÔN GIẢ DI GIÁ CA

(Miccaka)

Ðều do đây đến
 Ðô nhân thử lai
 
Chẳng vì việc khác
 Bất vi biệt sự
 
Gặp nhau giữa chợ
 Náo thị tương phùng
 
Tự bày pháp khí
 Tự thị kỳ khí
 
Huyền kiến chưa đến
 Huyền kiến vị nhiên
 
Sớm biết hôm nay
 Tảo tri kim nhật
 
Cứ lo buôn bán
 Ðương hành mãi mại
 
Chẳng kế giá cả
 Bất luận giá trị.
 

 

Tổ thứ 7

 TÔN GIẢ BÀ TU MẬT

 (Vasumitra)

Từ đường nóng đến
 Tùng nhiệt lộ lai
 
Chợt gặp bạn thân
 Hốt phùng thân hữu
 
Một lời luận nghĩa
 Nhất ngôn luận nghĩa
 
Chóng biết chưa có
 Ðốn tri vị hữu
 
Xin vị cam lồ
 Khất cam lồ vị
 
Chỉ pháp hư không
 Thị hư không pháp
 
Nếu nói có được
 Nhược vị hữu đắc
 
Rơi bảy rụng tám
 Lạc thất lạc bát.
 

 

Tổ thứ 8

 TÔN GIẢ PHẬT ÐÀ NAN ÐỀ

 (Buddhanandi)

Chẳng phải không nói
 Bất thị bất ngôn
 
Nói không đến được
 Ngôn chi bất cập
 
Chẳng phải không đi
 Bất thị bất hành
 
Vốn không tung tích
 Bổn vô tung tích
 
Nay gặp người này
 Kim ngộ kỳ nhân
 
Mới mở miệng được
 Nãi khả khai khẩu
 
Từ đây liền đi
 Tùng thử tiện hành
 
Chẳng rơi hang ổ
 Bất đọa khòa cửu.
 

 

Tổ thứ 9

 TÔN GIẢ PHỤC ÐÀ MẬT ÐA

(Buddhamitra)

Ở trong thai mẹ
 Trụ mẫu thai trung
 
Qua sáu mươi năm
 Kinh lục thập niên
 
Chỉ đợi thầy đến
 Chỉ đãi sư lai
 
Mới thỏa duyên trước
 Phương toại tiền duyên
 
Trên đảnh quang minh
 Ðảnh thượng quang minh
 
Nguyên là sẵn có
 Nguyên thị bổn hữu
 
Vừa vót liền thấu
 Nhất quát tiện thấu
 
Như sư tử rống.
 Như sư tử hống.
 

 Tổ thứ 10

 HIẾP TÔN GIẢ

 (Parsva)

Chỉ đất thành vàng
 Chỉ địa biến kim
 
Theo tay mà hiện
 Tùy thủ nhi hiện
 
Thánh nhân liền đến
 Thánh nhân tức chí
 
Còn gì mau hơn?
 Hà đẳng khoái tiện
 
Tợ như hang trống
 Tợ hồ không cốc
 
Ứng tiếng đáp vang
 Ứng thanh đáp hưởng
 
Thì biết tâm ta
 Thị tri ngã tâm
 
Vốn không qua lại.
 Bổn vô lai vãng.
 

 

Tổ thứ 11

 TÔN GIẢ PHÚ NA DẠ XA

(Punyaysas)

Phật chẳng biết Phật
 Phật bất thức Phật 
 
Mắt chẳng thấy sắc
 Nhãn bất kiến nhãn
 
Lại kiếm nơi khác
 Cánh hướng tha mích
 
Nên bị kiểm điểm
 Cố tao kiểm điểm
 
Toan nói vẹn toàn
 Tương vi hồn toàn
 
Sớm bị phá vỡ 
 Tảo bị giải phá
 
Mãnh tỉnh đưa ra
 Mảnh tỉnh tương lai
 
Mới biết lời rụng.
 Phương tri thoại đọa.
 

 

Tổ thứ 12

 TÔN GIẢ MÃ MINH

 (Asvaghosha)

Ngựa kêu bình thương
 Mã chi bi minh
 
Sẵn tự có nhãn
 Cố tự hữu nhân
 
Ðất vọt cô gái 
 Ðịa dũng nữ tử
 
Nguyên chẳng phải người
 Nguyên phi kỳ nhân
 
Ma vốn không ma
 Ma phi bổn ma
 
Phật cũng chẳng Phật
 Phật diệc phi Phật 
 
Mắt chánh xem lại
 Chánh nhãn khán lai
 
Rốt là vật gì?
 Cánh thị hà vật.
 

 

Tổ thứ 13

 TÔN GIẢ CA TỲ MA LA

 (Kapimala)

Từ dị học đến
 Tùng dị trung lai
 
Ðược tri kiến chánh
 Ðắc chánh tri kiến
 
Ðường gặp rắn độc
 Lộ phùng độc xà
 
Tâm từ bi hiện 
 Từ bi tâm hiện
 
Lại hỏi rồng độc
 Cánh vấn độc long
 
Ðều muốn điều phục
 Ðô yếu điều phục
 
Mắt thấy tâm hay
 Nhãn kiến tâm tri
 
Như vang lìa hang
 Như hưởng xuất cốc.
 

 

Tổ thứ 14

 TÔN GIẢ LONG THỌ

 (Nagarjuna)

Trong rồng dạy rồng
 Long trung hóa long
 
Lấy độc chống độc
 Dĩ độc công độc
 
Tôn giả tay khéo
 Tôn giả diệu thủ
 
Một lời điều phục
 Nhất ngôn điều phục
 
Phật tánh tam muội.
 Phật tánh tam muội
 
Thể như hư không
 Thể ngược hư không
 
Trăm ngàn pháp môn
 Bách thiên pháp môn
 
Ðều vào đây hết.
 Tận nhập kỳ trung.
 

 

Tổ thứ 15

 TÔN GIẢ CA NA ÐỀ BÀ

(Kanadeva)

Bỏ kim vào bát
 Dĩ châm đầu bát
 
Diệu khế mất lời
 Diệu kế vong ngôn
 
Dạy nghĩa Phật tánh
 Thị Phật tánh nghĩa
 
Trăng tròn hiện tiền
 Mãn nguyệt hiện tiền
 
Ðến nhà trưởng giả
 Chí trưởng giả gia
 
Ðem kim kéo chỉ
 Tương châm dẫn tuyến
 
Mượn nhân duyên người
 Giả tha nhân duyên
 
Làm phương tiện mình.
 Vi kỷ phương tiện.
 

 

Tổ thứ 16

 TÔN GIẢ LA HẦU LA ÐA

 (Rahulata)

Theo dòng được nguồn
 Tầm lưu đắc nguyên
 
Suối cùng non tận
 Thủy cùng sơn tận
 
Chợt gặp người này
 Hốt kiến kỳ nhân
 
Biết ngay là Thánh
 Tri kỳ vi thánh
 
Bưng cơm thơm đến
 Hương phạn kình lai
 
Chia tòa dâng ăn
 Phân tòa cung thực
 
Ðại chúng cùng uống
 Ðại chúng đồng ẩm
 
Cam lồ như mật
 Cam lồ như mật.
 

 

Tổ thứ 17

 TÔN GIA TĂNG GIÀ NAN ÐỂ

(Saghanandi)

Chẳng thích cung vua
 Bất lạc vương vung
 
Trời mở một đường
 Thiên khai nhất lộ
 
Chạm thẳng cuối nguồn
 Trực để cùng nguyên
 
Chẳng biết lý do
 Bất tri kỳ cố
 
Dưới đám mây tía
 Tử vân chi hạ
 
Chỗ nương của Thánh
 Thánh giả sở y
 
Quả được đồng tử
 Quả đắc đồng tử
 
Hội cơ chư Phật.
 Hội chư Phật cơ.
 

 

Tổ thứ 18

 TÔN GIẢ GIÀ DA XÁ ÐA

(Gayasata)

Bảy ngày chẳng sanh
 Thất nhật bất sanh
 
Chẳng rơi các ấm
 Bất đạo chư ấm
 
Thân thể thơm sạch
 Kỳ thể hương khiết
 
Xưa nay thanh tịnh
 Bổn lai thanh tịnh
 
Gõ cửa một lời
 Khẩu môn nhất ngữ
 
Ðáp không là ai?
 Ðáp vô giả thùy
 
Mạnh mẽ gọi tỉnh
 Mãnh nhiên hóan tỉnh
 
Ngay đó biết về
 Ðương hạ tri quy.
 

 

Tổ thứ 19

 TÔN GIẢ CƯU MA LA ÐA

(Kumarata)

Ðã sanh thiên đường
 Ký sanh thiên thượng
 
Chẳng nên dục ái
 Bất ưng khởi ái
 
Một niệm chưa quên
 Nhất niệm vị vong
 
Liền chẳng tự tại
 Tiện bất tự tại
 
Do sức Bát Nhã 
 Dĩ Bát Nhã lực
 
Lại thăng cõi Phạm
 Phục thăng Phạm thế
 
Nên đến truyền đăng
 Cố lai truyền đăng
 
Là việc nhà mình.
 Thị kỳ gia sự.
 

 

 

Tổ thứ 20

 TÔN GIẢ XÀ DẠ ÐA

 (Jayata)

Vô sanh vốn đủ
 Vô sanh bổn cụ
 
Chẳng cần cầu chân
 Bất dụng cầu chân
 
Gặp duyên thì phát
 Ngộ duyên nhi phát
 
Như hoa gặp xuân
 Như hoa phùng xuân
 
Cầu thì vội quá
 Cầu chi thái cấp
 
Cách đạo càng xa
 Khứ đạo chuyển viễn
 
Ngay đó biết về
 Ðương hạ tri quy
 
Ðến đường quay lại.
 Tựu lộ nhi phả.
 

 

Tổ thứ 21

TÔN GIẢ BÀ TU BÀN ÐẦU

 (Vasubandhu) 

Sáng tối đồng thể
 Minh ám đồng thể
 
Thánh phàm một đường
 Thánh phàm nhất lộ
 
Chỗ đến sâu xa
 Lai xứ u vi
 
Chẳng biết thế nào?
 Mạc trì kỳ cố
 
Người chỗ khó quên
 Thục xứ nam vong
 
Lại cầu bạn lữ
 Cánh cầu bạn lữ
 
Chợt lại gặp nhau
 Hốt nhĩ tương phùng
 
Chấp nhận tâm mình.
 Khẳng tâm tự hứa.
 

 

Tổ thứ 22

 TÔN GIẢ MA NOA LA

 (Manorhita)

Ðược thọ ký rồi
 Tùng thọ ký lai
 
Chẳng làm việc khác
 Bất vi biệt sự
 
Ðồng loại theo nhau
 Ðồng loại tương tùng
 
Duyên gặp liền ngộ
 Duyên hội tất ngộ
 
Ôi bầy hạc kia
 Ta bỉ hạc chúng
 
Bay kêu đã lâu
 Phi minh ký cửu
 
Chỉ ở một lời
 Nhất ngôn chi ngôn
 
Chóng biết sẵn có.
 Ðốn tri bổn hữu.
 

 

Tổ thứ 23

TÔN GIẢ HẶC LẶC NA

(Haklena)

Từ đảnh Tu Di 
 Tùng Tu Di đảnh
 
Cầm vòng vàng lai
 Trì kim hoàn lai
 
Ôi! Chúng hạc kia
 Ta bỉ hạc chúng
 
Tình cảnh đáng thương
 Kỳ tình khả ái
 
Gặp được sư tử
 Ðắc sư tử nhi
 
Rống tiếng rống lớn
 Tác đại hô hống
 
Có khí xuyên trời
 Hữu khí quán thiên
 
Thí nghiệm việc sau.
 Thí nghiệm kỳ hậu.
 

 

Tổ thứ 24

 TÔN GIẢ SƯ TỬ

(Aryasimha)

Gặp nhau đòi châu
 Tưong kiến sách châu
 
Mở tay liền có
 Khai phủ tiện hữu
 
Vì trước đã giao
 Dĩ tiên sở phó
 
Từ biệt không lâu
 Biệt lai bất cửu
 
Biết thiếu nợ trước
 Tri hữu túc khiếm
 
Riêng đến đáp đền
 Ðặc lai phụng thù
 
Ðầu kề gươm nhận
 Tương đầu lâm nhận
 
Sữa trắng tuôn trào
 Bạch nhũ hoành lưu.
 

 

Tổ thứ 25

 TÔN GIẢ BÀ XÁ TƯ ÐA

(Basiasita)

Cầm kiếm Bát Nhã
 Bỉnh Bát Nhã kiếm
 
Năm châu như ý
 Ác như ý châu 
 
Tuy nói tạm đến
 Tuy vân tạm đáo
 
Hạnh này chẳng hư
 Thử hạnh bất hư
 
Bỗng gặp người ác
 Ngẫu ngộ ác nhân
 
Khéo được bạn tốt
 Kháp đắc hảo bạn
 
Nhân tà đánh chánh
 Nhân tà đả chánh
 
Tiện lợi cả hai.
 Lưỡng đắc kỳ tiện.
 

 

Tổ thứ 26

 TÔN GIẢ BẤT NHƯ MẬT ÐA

 (Punyamitra)

Từ dòng Sát lợi
 Tùng sát lợi chủng 
 
Tiếp ngọn truyền đăng
 Tục truyền đăng diệm
 
Nối pháp chẳng rõ
 Chân tự bất minh
 
Cơ hồ mất hẳn
 Cơ hồ thất hãm
 
Vào trong phố chợ
 Tùng náo thị trung
 
Chợt gặp cố nhân
 Hốt phùng cố nhân
 
Nắp hộp vừa vặn
 Hàm cái tương hợp
 
Bèn được rõ chân.
 Nãi đắc kỳ chân.
 

 

Tổ thứ 27

TÔN GIẢ BÁT NHA ÐA LA

(Prajnatara)

Chớ bảo không nhân
 Mạc vị vô nhân
 
Gặp nhau liền thấy
 Tương phùng tiện kiến
 
Chỗ đến tự nhiên
 Lai xứ tự nhiên
 
Không nhờ phương tiện
 Bất giả phương tiện
 
Nay nhân châu này
 Kim nhân kỳ châu
 
Bèn được người ấy
 Nãi đắc kỳ nhân
 
Ðào ao được trăng
 Khai trì đắc nguyệt
 
Mua đá được (thêm) mây.
 Mãi thạch nhiêu vân.
 

 

Tổ thứ 28

 TÔN GIẢ BỒ ÐỀ ÐẠT MA

 (Bodhidharma)

Tâm sư thật gấp
 Sư tâm thậm cấp
 
Ðến đây quá sớm
 Kỳ lai thái tảo
 
Một lời chẳng hợp
 Nhất ngữ bất đầu
 
Tâm này chẳng xong (rõ)
 Thử tâm bất liễu
 
Ngồi lạnh Thiếu Lâm
 Lãnh tọa Thiếu Lâm
 
May được Thần Quang
 Hạnh đắc Thần Quang
 
Một tay rơi rụng
 Nhất tí đọa lạc
 
Ðạo này thịnh hưng.
 Kỳ đạo đại xương.
 

 

Tổ thứ 29

 ÐẠI SƯ HUỆ KHẢ

Vượt thuyền riêng đến
 Hàng hải đặc lai
 
Biết bao khổ tâm
 Ða thiểu khổ tâm
 
Trong nước Trung Hoa
 Chấn Ðán quốc lý
 
Chỉ được một người
 Kỳ đắc nhất nhân
 
Tìm không thể được
 Mích bất khả đắc
 
Như nước tùy bình
 Như thủy nhậm khí
 
Lấy đây trao truyền
 Dĩ thử truyền gia
 
Ðấy là đệ nhị.
 Thị vi đệ nhị.
 

 

Tổ thứ 30

 ÐẠI SƯ TĂNG XÁN

Suốt thân là bệnh
 Thông thân thị bịnh
 
Chẳng biết từ đâu
 Bất tri lai xứ
 
Chợt gặp y vương
 Hốt phùng y vương
 
Tỉnh hẳn duyên cớ
 Mãnh tỉnh kỳ cố
 
Tâm rỗng xương cứng
 Tâm không cốt cương
 
Lại đi hành cước
 Thả tiện hành cước
 
Gặp người có sức
 Ngộ hữu lực giả
 
Một gánh giao cho.
 Nhất đảm phó thác.
 

 

Tổ thứ 31

 ÐẠI SƯ ÐẠO TÍN

Tuổi trẻ xuất gia
 Thiếu niên xuất gia
 
Lợi căn nhậm lẹ
 Lợi căn tiệp tật
 
Hơn sáu mươi năm
 Lục thập dư niên
 
Hông không dính chiếu
 Hiếp bất chí tịch
 
Người học tụ tập
 Học lữ vân trăn
 
Ðâu tiếp trẻ con
 Hà đãi tiểu nhi
 
Vì có hẹn xưa
 Dĩ hữu túc ước
 
Người xem chẳng biết.
 Quán giả bất tri.
 

 

Tổ thứ 32

ÐẠI SƯ HOẰNG NHẪN

Lai lịch chẳng tỏ
 Lai lịch bất minh
 
Xuất thân đúng lúc
 Xuất thân kháp hảo
 
Một việc chưa xong
 Nhất kiện vị hoàn
 
Hai nhà đều rõ
 Lưỡng gia đô liễu
 
Trong núi Phá Ðầu
 Phá đầu sơn trung
 
Trên đường Hoàng Mai
 Hoàng Mai lộ thượng
 
Qua lại tự do
 Vãng lai tự do
 
Ðủ tướng đại nhân.
 Cụ đại nhân tướng.
 

 

Tổ thứ 33

 ÐẠI SƯ HUỆ NĂNG

Búa tiều vừa ném
 Tiều phủ tài phao
 
Lấy đá cột eo
 Dĩ thạch trụy yêu
 
Linh căn trồng lâu
 Linh căn cửu thực
 
Từ đây nảy nhánh
 Tùng thử trừu điều
 
Nguồn từ Tào Khê
 Nguyên xuất Tào Khê
 
Trôi khắp đại địa
 Hoành lưu đại địa
 
Thẳng đến bây giờ
 Trực chí vu kim
 
Không đâu chẳng phải.
 Vô xứ bất thị.

52. THIỀN SƯ QUY TÔNG TUYÊN

Thiền Sư Quy Tông Tuyên, người Hán Châu, nối pháp Ngài Lang Gia Quảng Chiếu kết thân với Quách Công Phủ. Chợt một hôm có quan trấn thủ Nam Khang đến, Sư sai người đem thơ cho Công Phủ lại dặn người đưa thơ chớ cho quan huyện trông thấy. Công Phủ đọc thơ thấy ủy thác rằng:

- Tôi còn sáu năm duyên đời chưa hết, hôm nay không chịu nổi áp bức muốn thác sanh vào nhà ông, mong ông chiếu cố cho.

Công Phủ vừa sợ vừa mừng, nửa đêm bà vợ mơ màng thấy Sư vào trong phòng ngủ, bất giác thất thanh nói:

- Ðây không phải là chỗ Hòa thượng đến.

Công Phủ hỏi duyên cớ, bà vợ kể lại. Công Phủ sai đốt đền, lấy thơ của Sư cho coi. Quả nhiên sau bà vợ có thai sanh con đặt là Tuyên Quang. Vừa đầy năm đã nhớ hỏi chuyện trước.

Ðến ba tuổi, Hòa thượng Bạch Vân Ðoan đi qua nhà này, Công Phủ kêu con ra tương kiến, vừa thấy kêu lên:

- Sư Ðiệt! (cháu).

Hòa thượng Ðoan nói:

- Cùng Hòa thượng từ biệt nhau đã mấy năm rồi?

Tuyên co ngón tay nói:

- Bốn năm.

Hòa thượng Ðoan nói:

- Tương biệt tại đâu?

- Tại Bạch Liên Trang.

- Lấy gì để chứng nghiệm?

- Cha mẹ tôi ngày mai sẽ mời Hòa thượng thọ trai.

Chợt có tiếng đẩy xe qua ngoài cửa. Hòa thượng Ðoan nói:

- Tiếng gì ngoài cửa vậy?

Tuyên làm thế đẩy xe. Hòa thượng Ðoan nói:

- Qua thế nào?

- Ðất bằng có một rãnh nước.

Ðến sáu tuổi không bệnh mà chết.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 19876)
Lửa trong Cái Trí là một quyển sách của sự thâm nhập quan trọng được hướng dẫn bởi Krishnamurti, Ông Không dịch
(Xem: 20946)
Một tấm lòng, một con tim hay một thông điệp mà Mặc Giang nhắn gởi: “Cho dù 10 năm, 20 năm, 30 năm. Năm mươi năm nửa kiếp còn dư, Trăm năm sau sỏi đá còn mềm...
(Xem: 19307)
Nữ Phật tử ở khắp nơi trên thế giới đang cố gắng đổi mới, và bộ sưu tập này đề cập đến các hoạt động của họ ở Ấn Độ, Tích Lan, Miến Điện, Thái, Campuchia, Nepal, Tây Tạng, Đại Hàn, Nhật, Đức, Anh...
(Xem: 40563)
Đa số dân chúng là Phật tử thuần thành và số lượng tu sĩ khá đông đảo nên Miến Điện mệnh danh xứ quốc giáo với hai đường lối rõ rệt cho chư Tăng Ni: PHÁP HỌC (Pariyattidhamma) và PHÁP HÀNH (Patipattidhamma).
(Xem: 21283)
Khi trình bày vấn đề, chúng tôi chọn văn học Phật giáo Lý-Trần để minh họa, bởi lẽ văn học Phật giáo Lý- Trần là kết tinh của những tinh hoa văn học Phật giáo Việt Nam.
(Xem: 41098)
Đức Phật là người đầu tiên xướng lên thuyết Nhân bản, lấy con người làm cứu cánh để giải quyết hết mọi vấn đề bế tắc của thời đại. Cuộc đời Ngài là cả một bài thánh ca trác tuyệt...
(Xem: 24135)
Tinh thần Bồ tát giới, không những được đề cao ở các kinh điển Bắc Phạn mà ngay ở trong kinh điển Nam Phạn hay Pàli cũng hàm chứa tinh thần này.
(Xem: 23078)
Không bao lâu sau khi Đức Thế Tôn nhập Niết bàn, tôn giả Đại Ca Diếp tập họp 500 vị đại Tỳ kheo tại giảng đường Trùng Các, bên dòng sông Di Hầu, thành Tỳ Xá Ly, để chuẩn bị kết tập kinh luật.
(Xem: 17856)
Biết Phật pháp, ứng dụng được Phật pháp vào đời sống của mình, đó là phước báu lớn nhất mà mình nhận được trong cuộc đời này. Bởi nhờ đó, mình đi không lầm lẫn.
(Xem: 26978)
Tập sách nhỏ này, là một tập tài liệu vô cùng quí giá, do sự tham khảo các kinh sách của Đức Thế Tôn để lại với các tài liệu tác giả đã sưu tầm và tham quan tại một số địa phương...
(Xem: 20750)
Trước khi Người nhập diệt Đại Bát-Niết-bàn, Phật đã khuyên những đệ tử kính đạo nên viếng thăm, chiêm bái bốn nơi để được tăng thêm sự truyền cảm về tâm linh của mình...
(Xem: 33655)
Trong giới biên khảo, sử gia giữ một địa vị đặc biệt, vì sức làm việc phi thường của họ. Họ kiên nhẫn, cặm cụi hơn hết thảy các nhà khác, hi sinh suốt đời cho văn hóa...
(Xem: 21046)
Sân hận không thể vượt thắng bằng sân hận. Nếu người ta biểu lộ sân hận đến chúng ta, và chúng ta thể hiện giận dữ trở lại, kết quả là một thảm họa.
(Xem: 28949)
Nền giáo học của Phật giáo có nội dung rộng lớn tận hư không pháp giới. Phật dạy cho chúng ta có một trí tuệ đối với vũ trụ nhân sinh, giúp chúng ta nhận thức một cách chính xác...
(Xem: 12711)
Tập sách Lối về Sen Nở bao gồm những bài viết, bản dịch, bài tham luận trong các kỳ hội thảo, đăng rải rác trên các tạp chí, nguyệt san Phật giáo mấy thập niên qua.
(Xem: 25331)
Mọi người đều biết là Đức Phật không hề bắt ai phải tin vào giáo lý của Ngài và Ngài khuyên các đệ tử hãy sử dụng lý trí của mình dựa vào các phương pháp tu tập...
(Xem: 19161)
Con ơi, hãy can đảm vươn mình đứng dậy hiên ngang như con mãnh sư để nhìn ngắm cuộc đời, đừng sợ hãi lẩn tránh, cũng đừng toan tính gì hơn cho cuộc đời này nữa.
(Xem: 17528)
Lắng nghe hay ngắm nhìn thực tại thì có thể thực hiện bất cứ ở đâu và lúc nào vì tâm và cảnh luôn có mặt tại đây và bây giờ mà không cần chờ đợi một thời gian...
(Xem: 25807)
Thật vậy, trên bất cứ một khía cạnh nào, Đức Phật đều giữ cho tôn giáo của Ngài không bị vướng mắc vào những thứ cành lá chết khô của quá khứ.
(Xem: 19023)
Krishnamurti đã quan sát rằng chính động thái của thiền định, trong chính nó, sẽ sáng tạo trật tự cho sự hoạt động của suy nghĩ mà không có sự can thiệp của ý muốn...
(Xem: 19006)
Trong Đạo Phật, khi tâm thức chúng tatrình độ khởi đầu, chúng ta được dạy cho những sự thực hành nào đấy để thực tập. Khi qua những thực tập ấy, tâm thức chúng ta đã phát triển một ít...
(Xem: 29048)
Đức Phật dạy rằng hạnh phúcvấn đề thiết thực hiện tại, không phải là những ước mơ đẹp đẽ cho tương lai, hay những kỷ niệm êm đềm trong quá khứ.
(Xem: 18918)
Tư tưởng Lão Tử rất nhất quán nên dù chỉ viết hai bài về Lão Tử Đạo Đức Kinh nhưng trong đó cũng liên quan hầu như toàn bộ tinh hoa đạo lý của nhà Đạo Học vĩ đại này.
(Xem: 33359)
Thầy bảo: “Chuyện vi tiếu nếu nghe mà không thấy thì cứ để vậy rồi một ngày kia sẽ thấy, tự khám phá mới hay chứ giải thích thì còn hứng thú gì.
(Xem: 38426)
Sở dĩ chúng ta mãi trôi lăn trong luân hồi sinh tử, phiền não khổ đau là vì thân tâm luôn hướng ngoại tìm cầu đối tượng của lòng tham muốn. Được thì vui mừng, thích thú...
(Xem: 31268)
Nếu không có cái ta ảo tưởng xen vào thì pháp vốn vận hành rất hoàn hảo, tự nhiên, và tánh biết cũng biết pháp một cách hoàn hảo, tự nhiên, vì đặc tánh của tâm chính là biết pháp.
(Xem: 18253)
Người muốn thấu triệt pháp môn tu tập, xứng lý, hợp cơ, trước hết cần phải tạo cho mình có cái nhìn căn bản tổng quát về tôn giáo mình... HT Thích Bảo Lạc
(Xem: 24531)
Ðức Thế Tôn muốn cho thầy vun trồng thêm niềm tin nên Ngài mới dạy thêm rằng: Này Upakàjivaka, những người hết phiền não trong thế gian này là người thắng hóa trong mọi nơi.
(Xem: 19461)
Một trong những nhân tố chính yếu cung cấp năng lượng cho Cách Mạng Hạnh Phúc đã là sự nghiên cứu khích động phơi bày nhiều lợi ích của hạnh phúc – những hạnh phúc trải rộng...
(Xem: 17920)
Truyện thơ Tôn giả La Hầu La - Tác giả: Tâm Minh Ngô Tằng Giao
(Xem: 23081)
Khi tại thế, Ðức Phật đi hoằng hóa nhiều nước trong xứ Ấn Ðộ, đệ tử xuất gia của ngài có đến 1250 vị, trong đó có Bà Ma Ha Ba Xà Ba Ðề...
(Xem: 18039)
Bởi vì sự mở mang một cái trí tốt lành là một trong những quan tâm chính của chúng ta, người ta dạy học như thế nào là điều rất quan trọng. Phải có một vun quén của tổng thể cái trí...
(Xem: 32222)
Tất nhiên không ai trong chúng ta muốn khổ, điều quan trọng nhất là chúng ta nhận ra điều gì tạo ra khổ, tìm ra nguyên nhân tạo khổ và cố gắng loại trừ những nhân tố này.
(Xem: 17398)
Ðối tượng của tuệ giác Phật họcthuyết minh tận cùng chân lý của vạn pháp. Khoa học đang khởi đầu bước lên trên con đường tận cùng chân lý của Phật học.
(Xem: 17442)
Với một sự sáng suốt tuyệt đối và một niềm thương cảm vô biên Ngài nhận thấy con người tác hại lẫn nhau chỉ vì vô minh mà thôi...
(Xem: 16093)
Muốn sáng tạo sự giáo dục đúng đắn, chắc chắn chúng ta phải hiểu rõ ý nghĩa của sống như một tổng thể, và muốn có điều đó chúng ta phải có thể suy nghĩ, không cố chấp...
(Xem: 18576)
Tôi thức dậy trong một sự yên tĩnh như thế ấy ở Pomona. Tiếng chim hót vang rừng những không thể nói là tiếng ồn. Nó lại càng làm cho sự yên lặng thêm sâu hơn về bề sâu là khác.
(Xem: 20782)
Ngày xưa có một chú tiểu Sa Di đến học Phật giáo với một vị thầy rất sáng suốt. Chú là một đứa đệ tử rất tốt. Chú rất lễ phép, thành thật và biết vâng lời.
(Xem: 18083)
Đóa sen, nếu nhìn dưới kính hiển vi và suy luận theo thiên văn học, là nền tảng của vũ trụ và cũng là một phương tiện giúp ta khám phá vũ trụ.
(Xem: 20128)
Mái Kim Các Tự làm bằng gỗ mịn thoai thoải dốc xuống. Đường nét kiến trúc vừa nhẹ nhàng vừa đẹp đẽ. Đó là một kiệt tác phẩm của lối kiến trúc đình viên...
(Xem: 14903)
Tác phẩm Đôi bạn hành hương (Công Chúa Tinh Khôi và Hoàng tử Ếch) là một điển hình trong cõi văn đầy màu sắc Phật giáo của Chiêu Hoàng.
(Xem: 20927)
Điều tôi muốn là con đường đưa đến sự chấm dứt mọi đau khổ, một con đường đã được khám phá hơn hai ngàn năm trăm năm nay nhưng mãi đến thời gian gần đây tôi mới ý thức được nó.
(Xem: 15070)
Đức Phậttiêu biểu tuyệt hảo về Từ, Bi, Hỷ Xả. Đó là Tứ Vô Lượng Tâm toàn bích, không một tỳ vết, thể hiện qua suốt cuộc đời thị hiện ta-bà của Ngài.
(Xem: 15770)
Cám ơn nàng. Nàng đã đem lại cho ta SỰ THẬT. Nàng đã cho ta thấy cái phi lý của tưởng tượng. Ta sẽ không còn ôm giữ một hình ảnh nào, vì Phật đã dạy: Pháp còn phải bỏ huống chi phi pháp.
(Xem: 12945)
Cha cô vẫn nói, cô giống mẹ từ chân tơ, kẽ tóc, vừa xinh đẹp, vừa tài hoa. Cha thương nhớ mẹ bao nhiêu là yêu quí cô bấy nhiêu.
(Xem: 14514)
Bàng bạc khắp trong tam tạng kinh điển, hằng hà sa số mẩu truyện, đức Phật thường nhắc đến sự liên hệ giữa Ngài và các đệ tử, giữa chúng sanh và Ngài trong những kiếp quá khứ.
(Xem: 14929)
Diệu nhắm mắt lại, không biết mình đang mơ hay tỉnh. Phép lạ nào đã biến đổi tâm hồn Quảng đến không ngờ?
(Xem: 29427)
“Chẳng có ai cả” là một tuyển tập những lời dạy ngắn gọn, cô đọng và thâm sâu nhất của Ajahn Chah, vị thiền sư lỗi lạc nhất thế kỷ của Thái Lan về pháp môn Thiền Minh Sát.
(Xem: 12780)
Giáo lý vô ngã đề cập trực tiếp đến cách thức mà chúng ta đang nhận hiểu về bản thân mình và thế giới quanh ta, chỉ ra những điểm hợp lý và bất hợp lý trong cách nhìn nhận đó.
(Xem: 14537)
Tôi thích nhìn ngắm những sự việc như chúng là và đối diện những sự kiện; thuộc cá nhân tôi không có cảm tính của bất kỳ loại nào, tôi xóa sạch tất cả điều đó.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant