Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tương lai là ngay lúc này

06 Tháng Bảy 201100:00(Xem: 13372)
Tương lai là ngay lúc này

TƯƠNG LAI LÀ NGAY LÚC NÀY
NÓI CHUYỆN CUỐI CÙNGẤN ĐỘ

Nguyên tác: THE FUTURE IS NOW Krishnamurti’s Last Talks In India
Lời dịch: Ông Không 2008

blank
Publisher: San Francisco :Harper & Row, ©1989.
Nội dung

Lời giới thiệu bởi Radhika Herzberger
Varanasi

Thảo luận cùng Phật tử: 7 tháng 11 năm 1985 
Thảo luận cùng Phật tử: 9 tháng 11 năm 1985 
Thảo luận cùng phật tử: 11 tháng 11 năm 1985 
Nói chuyện: 18 tháng 11 năm 1985 
Nói chuyện: 19 tháng 11 năm 1985 
Bàn luận cùng những người cắm trại: 21 tháng 11 năm 1985 
Nói chuyện: 22 tháng 11 năm 1985 
Rishi Valley 

Đối thoại lần thứ nhất cùng học sinh: 5 tháng 12 năm 1985 
Thảo luận cùng giáo viên: 7 tháng 12 năm 1985 
Thảo luận cùng giáo viên: 9 tháng 12 năm 1985 
Đối thoại lần thứ hai cùng học sinh: 12 tháng 12 năm 1985 
Thảo luận cùng giáo viên: 17 tháng 12 năm 1985 
Madras

Nói chuyện 26 tháng 12 năm 1985 
Nói chuyện: 1 tháng 1 năm 1986 
Nói chuyện: 4 tháng 1 năm 1986 

 

LỜI GIỚI THIỆU [1]

Đó là chuyến đi cuối cùng đến Ấn độ của Krishnamurti. Ông đã nói tại Saanen, Thụy sĩ, rằng sẽ không có cuộc nói chuyện nào nữa ở đó; và ông viết cho một người bạn:

Chúng tôi đã trải qua bốn ngày thời tiết tuyệt vời nhất, mọi ngày đều có nắng và thung lũng đang chào từ biệt chúng tôi.

Trong buổi nói chuyện cuối tại Saanen ông kể lại câu chuyện của Nachiketa, cậu trai đã được đưa đến ngôi nhà của Thần Chết vì đưa ra quá nhiều câu hỏi. Nó là một câu chuyện cổ của Ấn độ từ quyển Kathopanishad, nhưng lời kể lại của Krishnamurti khác biệt – lãng mạn hơn, sắp đặt trong một thời điểm lý tưởng khi con người yên lặng và tạm thời quên đi những gì họ đã tích lũy. Những chi tiết này không có trong câu chuyện gốc, mà thiếu đi âm điệu lãng mạn.

Nachiketa của Krishnamurti đầy những câu hỏi không trả lời được; cậu trai thật ngây thơ, nhưng đủ thông minh để khước từ những cám dỗ mà Thần Chết trao tặng bằng một quan sát đơn giản, “Bạn sẽ ở đoạn kết của nó. Bạn sẽ luôn luôn ở đoạn kết của mọi thứ.”

Ngoại trừ một điểm rằng ông gần 91 tuổi. Krishnamurti không khác biệt gì lắm với cậu Nachiketa mà ông diễn tả. Ông có tài năng của Nachiketa khi biến mọi cơ hội thành một câu hỏi, ngay cả một việc gây lợi ích cho ông; ông có cách nhìn thoải mái với cái chết của Nachiketa; và ông có tánh quảng đại hồn nhiên của Nachiketa.

Trong những câu chuyện nhớ lại của người cha Krishnamurti, được ghi chép ngày Krishnamurti được đưa vào nuôi nấng trong tổ chức Theosophical Society, đã diễn tả một tánh quảng đại hồn nhiên mà người con trai không bao giờ đánh mất:

Vào buổi sáng khi những người ăn mày đến nhà, phong tục của chúng tôi là biếu họ một tách hay một tô gạo, và chúng tôi phân phát nó luân phiên cho những bàn tay dơ ra, đến khi hết gạo. Vợ tôi thường sai Krishna ra ngoài để cho của bố thí, và cậu bé thường quay vào xin thêm nữa, nói rằng cậu đã trút hết vào bị của một người. Sau đó người mẹ thường theo ra cùng cậu con và chỉ cho cậu cách chia cho từng người.

Vào cuối đời, người đàn ông hồn nhiên và bậc hiền nhân sống chung cùng nhau. Người đàn ông đã đến Ấn độ vào tháng 10 năm 1985 sau khi nói chuyện tại Saanen và tại Brockwood Park, nước Anh, để chào từ biệt vùng đất thân yêu, những người ông quen biết và những nơi ông gây dựng để phát triển. Ông cũng đến để xếp đặt ngôi nhà của ông trong trật tự.

Những học viện giáo dục rộng lớn đã được mở rộng tại Rishi Valley và Rajghat trên mảnh đất mua cho ông sử dụng bởi bà Annie Besant vào những năm 1920. Có những trường học ở Bangalore, Madras và Bombay, được hiến dâng cho công việc tìm hiểu những lời giáo huấn của ông trong ngữ cảnh giáo dục. Tất cả những học viện giáo dục này là bộ phận của Krishnamurti Foundation, Ấn độ, một tổ chức có đăng ký do ông là chủ tịch. Vasanta Vihar, một ngôi nhà tại Adyar ở Madra, là cơ quan chính của Foundation và địa chỉ ông dùng trong giấy thông hành tại cột “địa chỉ nơi ở”. Có những tổ chức ở Anh và Mỹ với những học viện giáo dục được công nhận chính thức.

Krishnamurti cũng là người vào năm 1929 đã giải tán Order thuộc tổ chức giàu có đã được mở mang vì ông từ năm 1909, khi ông được “phát hiện” bởi những nhà Thần học. Sau đó ông tuyên bố “Chân lý không thể được tổ chức” và từ bỏ những tài sản của tổ chức này.

Sự mâu thuẫn giả tạo giữa con người phủ nhận những tổ chức tinh thầncon người vào cuối đời lại đứng đầu nhiều tổ chức đã được giải quyết từ tận năm 1929, khi ông chấm dứt bài diễn văn nổi tiếng để giải tán Order:

Chỉ những người muốn hiểu rõ, đang có ý định tìm được sự vĩnh hằng, không khởi đầu và kết thúc, sẽ đi cùng nhau bằng mọi mãnh liệt, sẽ là một hiểm họa cho mọi sự việc không phải cốt lõi, cho những tưởng tượng, cho những ảo tưởng. Và họ sẽ chú tâm, họ sẽ trở thành ngọn đuốc, bởi vì họ hiểu rõ. Chúng ta phải tạo ra một tổ chức như thế, và đó là mục đích của tôi. Bởi vì, tình bằng hữu trung thực đó … sẽ có sự cộng tác thực sự của mỗi người. Và điều này không xuất phát từ uy quyền.

Điều rất quan tâm của Krishnamurti, đặc biệt khi ông lớn tuổi và lo ngại về sự hưng thịnh của những tổ chức do chính ông thành lập, là tạo ra một tổ chức của những người bạn như thế. Theo thời gian những tiêu chuẩn cho tình bằng hữu của ông vẫn còn y nguyên: tình bằng hữu không thể hưng thịnh nơi nào còn có ganh ghét, so sánh, sở hữu. Ông tin rằng chỉ có sự tốt lành vĩnh cửu mới có thể giữ chặt con người lại cùng nhau. Và quả ngọt của sự tốt lành rất kỳ diệu.

Đang ngồi ở bàn điểm tâm vào một buổi sáng tại Rishi Valley mùa đông năm 1984, khoảng giữa một cuộc nói chuyện thông thường, ông hỏi chúng tôi, “Nếu một thiên thần bảo các bạn rằng các bạn có thể có được mọi thứ ao ước cho nơi này, các bạn sẽ xin cái gì?”

Chúng tôi đề cập nhiều thứ – nước, một nền văn hóa mới, một cái trí mới – không hăm hở gì lắm, vì biết rằng những câu trả lời của chúng tôi thường nhì nhằng và lặp lại để gây hài lòng cho giây phút đó, và biết rằng chúng thường bị gạt đi. Ông đã làm thế và tiếp tục, “Khi chúng ta đến đây năm 1926, ý định của chúng tathành lập những nơi dành cho sự khai sáng con người. Điều này có xảy ra ở đây không?”

Lại nữa đó là một câu hỏi khó; chúng tôi thú nhận rằng nó không xảy ra.

“Vậy thì Rishi Valley giống hệt thế giới bên ngoài phải không?” Chúng tôi trả lời rằng nó là một thế giới thu nhỏchúng tôi cùng có những vấn đề trên một kích cỡ nhỏ hơn.

Ông nói, “Hãy trả lời cẩn thận. Thế giới bên ngoài là chiến tranh, phẫn nộ, xung đột, ganh ghét sâu thẳm. Các bạn có những sự việc này ở đây không? Trong các bạn không?”

Chúng tôi trả lời rằng mặc dù những sự việc này không đang hoạt động trong chúng tôi, hạt giống của nó vẫn còn đó, và “được trao cho tình huống, chúng tôi có thể cũng như vậy.”

Ông hỏi liệu rằng chúng tôi có thể xóa sạch tất cả việc đó không.

“Nếu chúng tôi xóa sạch, thiên thần sẽ cho chúng tôi những gì chúng tôi muốn chứ?”

Ông trả lời đơn giản, “Vâng”.

Krishnamurti từ Luân đôn đến New Delhi ngày 25 tháng 10 và sau đó đến Varanasi (tên cũ của Benares). Aravindan, người quay phim nổi tiếng từ Kerala, đang hoàn thành cuốn phim “Người Thầy Rảo Bước Cô Đơn”, được dựa vào cuộc đời Krishnamurti. Vào đầu tháng 11, khi mùa đông vừa đến, Rajgahat ở Varanasi, làm bối cảnh cho cuốn phim của ông, bằng cảnh quay người đánh cá cô đơn đang quăng lưới trên một dòng sông êm đềm; một con chim đang bay theo vòng cung rộng phủ cả bầu trời lẫn con sóng; và mặt trời hoàng hôn đang trở thành một vầng hào quang cho bậc thánh nhân mà đã nói rằng: “Con người không là tổng thể của anh ấy.”

Krishnamurti dạo bộ cùng Aravindan dọc theo con đường của những người hành hương ngày xưa, bây giờ đã được trải nhựa và bị hư hại nhiều bởi những chiếc xe tải, vì nó dẫn đến hai bờ của con sông Varuna. Ông đi qua cây cầu tre tạm để qua bờ bên kia nơi con đường của người hành hương, bây giờ chật hẹp và đầy bụi, được vây quanh bởi cây lúa mì mùa đông; ở đây ông quan sát rõ ràng quang cảnh của sông Ganga rồi tiếp tục đi đến Sarnath. Tại nơi này, Buddha đã thuyết pháp lần đầu tiên cách đây 2.500 năm. Ống kính của Aravinda quay cảnh chuyến đi về nhà của Krishnamurti băng qua cây cầu cùng người lái đò đưa người và thú vật qua bờ sông bên kia trong mùa mưa khi cây cầu chìm dưới nước.

Có một con đường khác ông dạo bộ mỗi ngày, ngay cả khi hai chân đã run rẩy – dọc theo con đường ngoằn ngoèo của khuôn viên trường, qua giảng đường nơi sinh viên của Vasanta College mới đây đã trình diễn một vở kịch về cuộc đời của Phật. Con đường ngừng lại tại những bậc thềm dốc đứng mà ở dưới là một sân chơi vòng tròn và được tách riêng một phía bằng hàng rào kẽm gai, một thánh đường với người chăm sóc nhàn rỗi. Dọc theo một một con dốc tại cuối những bậc thềm là một con đường hẹp dẫn đến nghĩa trang sĩ quan (Rajghat trước kia là một tiền đồn của người Anh), không được sử dụng từ lâu, và bây giờ là khu nhà khách cho một trung tâm mới sẽ được dựng lên để dành cho những người có quan tâm nghiêm túc trong sự học hỏi những lời giáo huấn của Krishnamurti.

Krishnamurti đi quanh sân chơi nhiều lần cùng những người bạn, nói về nhiều việc, nhưng căn bản về những câu hỏi có tầm quan trọng sống còn với ông vào lúc này: Chuyện gì sẽ xảy ra cho nhiều học viện mà ông đã thành lập? Chúng sẽ mau chóng bị tách rời mà không có người nào liên kết lại phải không? Tương lai của Foundations là gì? Và mỗi lần ông hoàn tất một vòng tròn, ông luôn chào hỏi người chăm sóc thánh đường, không muốn ông ấy cảm thấy cô lập, bị cách biệt.

Chuyến đi quay trở lại, thẳng lên những bậc thềm dốc đứng đó, chứa đầy lo lắng cho những người bạn của ông – họ không bao giờ chắc chắn rằng ông có thể leo lên bậc thềm cao nhất mà không bị ngã. Có một lần người nào đó, một phụ nữ, chìa tay giúp ông. Và với tánh lịch sự thông thường của ông, ông nắm tay bà ấy trong chốc lát, giải thích rằng ông muốn nắm tay của bà nhưng “tôi luôn luôn không muốn lệ thuộc, vào bất cứ người nào”. Những lời cuối được nhấn mạnh kèm theo một cái nhìn tạo cho bà ấy một gợi ý của sự tĩnh lặng không dò thấu được.

Không phải trong suốt những chuyến đi dạo này nhưng ở trên lầu trong phòng ngủ ông mới nói về những nơi thiêng liêng như những nơi dành cho học hỏi, và do đó, theo chính xác định nghĩa, vượt giới hạn của lễ nghi, của nhà thờ, đền chùa và thánh đường. Ông nói rằng một nơi gọi là thiêng liêng, nếu nó được thể hiện bởi ba đặc điểm – bởi tánh tôn giáo của những người sống ở đó, bởi những người hành hương đến đó vì chân lý, và bởi khả năng duy trì cuộc sống của nó.

Bà Besant ở trong tâm trí của Krishnamurti rất nhiều vào mùa đông đó tại Rajghat. Vào ngày 6 tháng 11, ông được mời đến Theolophical Lodge tại Kamaccha, một lời mời ông chấp thuận. Ông đi đến “Shantikunj”, ngôi nhà cũ của Bà Besant. Ông ngồi trên chowki to lớn nơi Bà Besant làm việc và nghỉ ngơi trong ngày. Đối với những người đã biết Bà Besant và Krishnamurti trong suốt những ngày đầu tiên đó, nó là một giây phút đầy cảm xúc . Đối với người đã sống qua thời gian đó, nó là một ngày của phước lành vô biên: “Người con trai viếng thăm ngôi nhà của mẹ, sau khoảng thời gian 45 năm. Có lẽ để chào từ biệt.” Nhưng khi một người hỏi Krishnamurti là ông có nhớ nơi này không, lời đáp lại của ông thật đơn giản: “Nó thuộc quá khứ lâu lắm rồi – nhưng dường như tôi đã sống ở đây.”

Lễ hội Diwali diễn ra vào ngày 16 tháng 11 và Krishnamurti trải qua một buổi tối cùng bạn bè quan sát màn trình diễn pháo bông ở bên kia sông, từ hàng hiên có lát đá tại ngôi nhà của ông cao hơn sông Ganges. Khi những tia sáng và kotis vung vẩy nhiều bông hoa đầy màu sắc vào bầu trời không trăng, thành phố Varanasi rực sáng xa xa. Sau đó Krishnamurti leo lên bao lơn của ngôi nhà để thắp sáng những ngọn đèn bị tắt và thưởng ngoạn quang cảnh. Nó là một buổi tối thanh bình khi sự thiêng liêng phảng phất giống một bức màn trải trên Rajghat.

Đã có nhiều giải trí nữa – một buổi tối ngân nga Vada bởi những người Brahmin địa phương cùng những trường học của ngôi đền và gia đình Maharaji tại Varanasi, âm nhạc trên Shanhanai Santoor và một tiếng đồng hồ của Kathak được nhảy múa bởi Aditi Mangaldas.

Vào ngày 7 tháng 11, Krishnamurti bắt đầu một loạt những cuộc thảo luận cùng một nhóm những học giả Phật giáo – những học giả tiếng Phạn và Tây tạng – mà đã quây quần quanh ông từ đầu những năm 1970. Họ là thành phần của nhóm học giảtruyền thống cổ xưa đã giữ gìn một truyền thống tôn giáo trong hàng ngàn năm qua những hoạt động giáo dục, những cuộc tranh luận sôi nổi về triết lý và sự tìm hiểu nội tâm.

Trong số họ có Pandit Jagannath Upadhyaya. Panditji, như chúng tôi gọi ông ấy, đã tham gia xuất bản một ấn phẩm quan trọng của Kalachakratantra, một bản gốc Mahayana nói về lời giáo huấn của Bodhisattva Maitreya. Được hoàn thành trong thời gian nào đó giữa thế kỷ 9 và 11, bản gốc này đại diện một truyền thống cổ xưa hơn nhiều của sự thông thái, mà Panditji có lần đã mô tả là “tổ tiên của nhân loại”. Mô tả của Panditji đã bất ngờ khơi dậy sự đồng cảm trong Krishnamurti và đã bổ sung cụm từ đó bằng cách nói rằng, “tổ tiên của thấu triệt”.

Ripoche Sandong của Tibetan Institute tại Sannath, giáo sư Krishnanath và Ram Shankar Tripathi, cả hai từ những học viện giáo dục địa phương, cũng có mặt vào dịp này.

Trước mặt nhóm học giả, Krishnamurti đưa ra hai câu hỏi: “Có một điều gì đó thiêng liêng, một điều gì đó thường hằng … ở Ấn độ, trong phần đất này của thế giới hay không?” và, “Nếu nó ở đó, tại sao phần đất này của thế giới lại tha hóa như vậy?”

Krishnamurti trả lời cả hai câu hỏi ông đã đưa ra. Ông trả lời câu hỏi thứ nhất vào cuối buổi thảo luận khi nhiều vấn đề đã được đưa ra và bị bác bỏ, và hội đồng ngồi im lặng. Ông trả lời câu hỏi thứ hai dựa vào nền tảng của một sự quan sát tổng thể: “Tánh tư lợi là cánh cửa chặn đứng cái khác.” Khái niệm về tánh tư lợi đối với Krishnamurti vừa rất phổ quát lẫn rất thích ứng; trong mạng lưới của nó bao gồm cả sự thôi thúc tiềm ẩn đằng sau tôn giáo có tổ chức.

Vào ngày 11, Krishnamurti đưa ra câu hỏi thứ ba: “Nơi nào tánh tư lợi kết thúc và cái khác bắt đầu?” Và mặc dù ông quay trở lại câu hỏi ít nhất hai lần trong suốt buổi thảo luận, ông đã không trả lời nó. Ông bỏ lại nó như một nghi vấn vĩnh cửu, một công án tại ngay tâm điểm của sự tìm hiểu nghiêm túc về tôn giáo.

Krishnamurti đã hỏi khán giả vào ngày 9 tháng 11, “Có điều gì đã tồn tại ở đây rồi mà, nếu có, người ta phải trao toàn cái trí và tâm hồn vào nó hay không?” Ông đang nói như một con người đã thực hiện chính xác điều đó – “trao cái trí và tâm hồn” và trọn vẹn cuộc sống thật dài của ông để “giữ gìn cái thiêng liêng”. Chúng ta phải nhắc nhở cho mình rằng Krishnamurti đang tiến gần đến sự chấm dứt của cuộc sống thật dài đó, và rằng ông đang nói chuyện với một nhóm người đã dành trọn cuộc đời của họ giữ gìn một truyền thống tôn giáo cổ xưa, nhưng trong một cách hoàn toàn khác hẳn. Đối với Krishnamurti cái ý thức giữ gìn đó không đủ tốt lành. Ông đã chối bỏ toàn thể những thứ linh tinh của tôn giáo có tổ chức – giáo lý, những nhà thờ, những vị thánh, những nghi lễ, những quyển sách thiêng liêng và những đạo sư của nó – từ năm 1929 khi ông viết:

Khi Krishnamurti chết, mà là điều không tránh khỏi, các bạn sẽ bắt đầu hình thành những luật lệ trong đầu óc, bởi vì cá thể, Krishnamurti, đã đại diện cho các bạn về Chân lý. Vì vậy, các bạn sẽ xây dựng một đền thờ, sau đó các bạn sẽ bắt đầu có những nghi lễ, sáng chế những câu kinh, giáo điều, hệ thống của những niềm tin, phương châm và tạo ra những triết lý. Nếu các bạn xây dựng những nền móng to lớn dựa vào tôi, cá thể, các bạn sẽ bị trói buộc trong ngôi nhà đó, trong đền thờ đó và thế là các bạn sẽ phải có một người Thầy khác xuất hiệngiải thoát các bạn khỏi đền thờ đó. Nhưng đầu óc con người là cái vật mà các bạn sẽ xây dựng một đền thờ khác quanh Ông ta, và thế là nó sẽ tiếp tụctiếp tục.

Hai buổi nói chuyện trước công chúng lần thứ nhất tại Rajghat vào ngày 18 và 19 tháng 11. Krishnamurti hỏi khán giả tại sao họ lại hiện diện ở đó, và sau đó bảo họ rằng ông không có ý định đưa ra những câu hỏi lý thuyết, trừu tượng hoặc giúp đỡ họ như một đạo sư, nhưng rằng họ nên nghĩ về ông như một người bạn mà họ đang nói chuyện cùng nhau về những vấn đề của cuộc sống hàng ngày.

Trong suốt phần câu hỏi và trả lời trước công chúng, một người trong khán giả đã hỏi làm cách nào lời giáo huấn có thể được giữ gìn nguyên vẹn mà không bị biến dạng. Krishnamurti hiểu rõ nghi ngờ này và nói rằng câu hỏi liệu rằng lời giáo huấn của ông có bị mai mộtsửa đổi hay không “tùy thuộc vào các bạn, không tùy thuộc vào ai khác”. Nếu nó không có ý nghĩa gì cả ngoại trừ những từ ngữ, vậy thì nó sẽ theo cùng con đường của phần còn lại. Nếu nó có nghĩa điều gì đó rất sâu đậm cho các bạn, cho các bạn theo từng cá thể, vậy thì nó sẽ không bị mai một. Kiên định và không nhượng bộ, cho đến cuối đời, Krishnamurti đặt niềm tin của ông trong con người, trong năng lực của họ để duy trì lời giáo huấn trong một cái trí và tâm hồn hiểu rõ.

Vào ngày 22, khi chấm dứt buổi nói chuyện cuối cùng, ông bảo khán giả rằng họ không nên gục xuống bàn chân của ông nhưng họ có thể đến và nắm tay ông. Và ông giữ tư thế ngồi lặng yên như thế trong một thời gian lâu. Đối với chúng tôi điều đó giống như một điềm báo, một dấu hiệu chỉ rằng ông sẽ không bao giờ quay trở lại.

Khi Krishnamurti đến Rishi Valley vào tháng 11, chúng tôi biết rằng ông đang ở tình trạng suy sụp sức khỏe. Chúng tôi hy vọng rằng Rishi Valley sẽ giúp ông hồi phục như nó đã thường xuyên làm ở quá khứ, nhưng việc này đã không xảy ra. Ngày thứ nhất chúng tôi quyết định dạo bộ về hướng ngôi đền thờ nữ thần cổ Gangamma nằm trên con đường mòn chạy qua vườn rau của chúng tôi và lòng suối cạn khô. Nhưng ông không thể đi qua lòng suối cạn đó để đến cánh rừng me. Xa xa, khỏi cánh rừng me đó thung lũng mở toang mọi hướng đến tận những quả đồi vây quanh đang biến thành màu đỏ tía bởi ánh hoàng hôn. Đó là quang cảnh thường tạo ra cho ông cảm giác tôn kính.

Sau đó, chúng tôi dùng những chuyến dạo bộ dễ dàng hơn dọc theo con đường chính dẫn đến miệng thung lũng. Từ một trong những chuyến dạo bộ này ông lấy lại sự rạng rỡ và nói về sự thiêng liêng của nơi này.

Những chuyến dạo bộ hàng ngày của ông mỗi lúc một ngắn lại khi thời gian trôi đi và ông tiếp tục giảm cân ở mức độ đáng kể. Nhưng ông vui vẻ trong phòng của ông, ở trên lầu trong Old guest house, được phụ giúp bởi Gopalu[2] và Parameshwaran[3] , mời mọi người ăn trưa và nói chuyện với con chim Hoopoe mà ông đã kết bạn. Nhiều lần, đứng ngoài cửa phòng, chúng tôi nghe ông nói nho nhỏ với một ai đó, “Bạn và con cái bạn chắc chắn được nghinh đón để vào đây. Nhưng tôi chắc rằng bạn sẽ không thích nó. Trong một ít ngày nữa tôi sẽ ra đi, căn phòng sẽ được khóa kín, cửa sổ đóng lại, và các bạn sẽ không thể bay ra ngoài.”

Khi chúng tôi vào phòng, chúng tôi trông thấy con chim, cột bên khung cửa sổ rộng, đậu trên cành cây Spathonia, mào của nó xòe ra, đang lắng nghe Krishnamurti nằm trên giường lên tiếng trong âm điệu nhịp nhàng. Krishnamurti giải thích rằng con chim đã quen với giọng nói của ông và thích đậu một chỗ lắng nghe. Rất thường xuyên khi nhóm ít người chúng tôi ngồi trên tấm thảm trong phòng, con chim luôn quặp xuống, mổ vào khung cửa sổ và náo động ầm ĩ. Và Krishnamurti sẽ nói, “Người bạn của tôi đây rồi,” hay “Không phải lúc này, người bạn của tôi.”

Một lần khác, khi chúng tôi đang đi vào phòng chúng tôi nghe ông nói, “Vậy là tên của con gái bạn là Sujata. Đó không phải là vợ của Sujata Buddha hay sao?” Tôi nghĩ rằng chắc ông đang đùa giỡn với Hoopoe, nhưng ông lại đang nói với Gopalu mà đã kể cho ông về việc sinh ra cô con gái nhỏ tên là Sujata[4] .

Mặc dù suy sụp sức khỏe, Krishnamurti vẫn nói chuyện với những học sinh và giáo viên của trường học. Với các em bé ông nói về sự sợ hãi và được tự do khỏi sợ hãivấn đề rất quan trọng. Với những giáo viên ông nói về tốt lànhliên quan của nó với tổng thể. Khi tốt lành được gắn kết với tổng thể, nó không còn là thành phần của quá khứ, của ý kiến đã được thâu nhận; nó không là một kết luận nhưng là một khám phá.

Một cuộc hội nghị quốc tế của những giáo viên từ những trường khác nhau của Krishnamurti ở Ấn độ và nước ngoài đã được tổ chức trùng hợp chuyến viếng thăm này. Có những giáo viên từ Brockwood Park ở nước Anh và từ Oak Grove School ở Ojai, California. Đó là cuộc hội nghị đầu tiên thuộc loại này, và thoạt đầu Krishnamurti có vẻ miễn cưỡng tham dự. Nhưng ngay khi chúng tôi bắt đầu, ông đã đến thường xuyên và bất ngờ, đặt câu hỏi, khuyến khích và nói đùa để đưa vào những vấn đề nghiêm túc.

Cuộc nói chuyện cuối cùng của ông tại Rishi Valley (ông đã gọi nó là “buổi trình diễn cuối cùng của tôi”) là một chuyến viếng thăm không sắp xếp trước, được gợi ý bởi những câu hỏi đặt ra cho ông của một trong những giáo viên. Vào cuối đời, ông tiếp tục đưa ra những câu hỏi mà ông luôn luôn dùng: Tốt lành là gì? Nở hoa trong tốt lành là gì? Ông cũng hỏi: Khởi đầu của sự sống là gì? Sáng tạo là gì?

Krishnamurti rời Rishi Valley để đi đến Madras vào ngày 22 tháng 12. Ông nghỉ ngơi vài ngày và sau đó có cuộc nói chuyện thứ nhất trong những cuộc nói chuyện trước công chúng ở Madras vào thứ bảy, ngày 28 tháng 12. Rõ ràng nó là một sự chịu đựng khủng khiếp; ông hoàn toàn không chắc chắn có thể tiếp tục hết buổi nói chuyện. Bài giảng của ông thiếu sự rõ ràng thông thường, nhưng ông hồi sức lại sau đó. Thấy được năng lượng được hồi phục trong mình, ông háo hức tiếp tục “buổi gặp gỡ câu hỏi và trả lời” theo lịch trình. Nhưng buổi gặp gỡ bị hủy bỏ, để giữ gìn sức khỏe của ông, và một cuộc nói chuyện trước công chúng bổ sung được tuyên bố cho ngày mai thứ tư.

Nhiệt độ của ông tăng lên và những bác sĩ được mời đến. Không tìm được nguyên nhân ngay lập tức cho cơn sốt của ông, họ đề nghị thực hiện thí nghiệm chẩn đoán. Krishnamurti quyết định trải qua những thí nghiệm ở California dưới sự giám sát của một bác sĩ ông biết và tin cậy. Những cuộc nói chuyện ở Bombay được hủy bỏ, và ngày quay lại Ojai của ông được ấn định sớm hơn.

Với toàn năng lượng đang yếu dần đi của ông vì bị tiêu hao bởi những cuộc nói chuyện ở Madras, Krishnamurti trải qua nhiều tiếng đồng hồ dài trong phòng. Sau đó ông cố gắng kết bạn với vài con chim Hoopoe mới, lần này không thành công. Ông thường ngân nga, ngâm thơ ngân nga một mình. Khi chúng tôi lắng nghe từ bao lơn ngoài phòng, chúng tôi bị cuốn hút vào âm điệu của giọng ông. Ông sử dụng cách ngân nga của tiếng Phạn, tách rời ý nghĩa từ ngữ và tập trung hoàn toàn vào âm thanh. Nhưng những từ ngữ từ bài thơ cuối cùng của Tennyson, “Băng qua Rào chắn”. Chỉ sau đó, phản hồi ý nghĩa về điều gì chúng tôi đã nghe, những từ ngữ kia bắt đầu phơi bầy.

Hoàng hôn rồi sao hôm,
Một tiếng gọi rõ ràng cho tôi!

Và cầu mong không còn tiếng than van của rào chắn,

Khi tôi khởi hành ra biển khơi.

Nhưng thủy triều đó như chuyển động lại đứng yên
Đầy âm thanh và bọt nước,

Khi cái đó từ biển xa vời vợi

Quay về nhà.

Sau khi hoàn thành cuộc nói chuyện cuối cùng trong những cuộc nói chuyện trước công chúng của ông vào Chủ nhật, ngày 4 tháng 1, Krishnamurti hướng toàn bộ sự chú ý vào số phận của Foundations đã được thành lập trên danh nghĩa của ông. Ông hiểu tiến trình qua đó những tôn giáo phát triển khi những vị lãnh đạo tôn giáo chết: công việc tôn sùng vị thầy; tu sửa những lời giáo huấn của ông, huyên náo vì vinh quang giả tạo của sự kế thừa. Tất cả việc này khiến ông lo lắng vô cùng. Đã khước từ tôn giáo có tổ chức, lúc này ông đối diện lần cuối cùng với một tổ chức mang tên ông. Nên làm gì đây? Foundations có nên giải tán hay không? Có bất kỳ cách nào để ngăn ngừa những cá thể coi chính họ như những uy quyền về những lời giáo huấn của ông và vị thầy hay không? Ông đưa ra những câu hỏi này cho những thành viên Foundaitons có mặt ở đó.

Một số người hiện diện ủng hộ sự giải tán Foundations. Những người khác đưa ra những phức tạp về luật pháp khi làm như vậy. Suốt cuộc đời, Krishnamurti đã làm việc cho sự tự do của con người. Và lần này trong suốt nhiều năm ròng, những câu hỏi của ông quay ngược lại cho ông. Ngày hôm sau, để tôn trọng những mong muốn của ông đoạn văn dưới được thêm vào cho luật lệquy định

Dù ở mọi hoàn cảnh nào, Foundations hoặc bất kỳ học viện nào dưới sự bảo trợ của nó, hoặc bất kỳ thành viên nào của nó đều không có quyền khẳng định họ như những uy quyền trên những lời giáo huấn của Krishnamurti. Điều này theo đúng lời tuyên bố của Krishnamurti, rằng không một ai ở bất kỳ nơi nào có quyền khẳng định họ như một uy quyền về ông hoặc lời giáo huấn của ông. 

Trước khi những cuộc gặp mặt chấm dứt, Krishnamurti diễn thuyết trước Foundation lần cuối cùng, một bài diễn thuyết mà ông hướng dẫn như một đối thoại với Pandit Jagannath Upadhyaya.

Ông không có bao nhiêu vật sở hữu, mà sau đó ông đã phân phát – một ít quần áo; cái tủ đôi bà Besant đã tặng ông và người em trai Nitya; vài thứ linh tinh; một quyển tự điển cỡ nhỏ.

Ngày cuối cùng được dành riêng cho nghỉ ngơi để chuẩn bị cho chuyến quay trở lại vất vả băng qua Thái Bình Dương. Krishnamurti rút lui vào trong phòng của ông và chúng tôi lắng nghe khi Pandit Updhyaya kể lại câu chuyện vào những khoảnh khắc cuối cùng của Phật: tại vùng phụ cận thị trấn Kuhinara, Phật nằm giữa hai cây Sala, bao quanh bởi đệ tử và một đám đông người thị trấn. Khi sự kết thúc dường như đến gần, những đệ tử yêu cầu đám đông lùi lại để cho Phật có thể nhìn thấy bầu trời bao la một lần nữa. Vào ngay khoảnh khắc khi sự trống không của bầu trời hòa nhập sự trống không của niết bàn, Phật qua đời.

Panditji, đắm chìm trong những truyền thống bằng lời nói của tiếng Pali và tiếng Sanskrit, đã chấm dứt cuộc nói chuyện bằng cách ngâm thơ, đầy xúc động, một bài thơ dài về Krishnamurti. Khi ngâm xong, Panditji dắt một thành viên qua một bên và hướng dẫn bà ấy: “Bảo ông đừng mời Thần Chết. Hãy đọc cho ông những từ ngữ này ba lần: Vẫn còn có những đau khổ không kể xiết trong thế giới này. Có những người cần sự giúp đỡ của ông. Công việc của ông chưa làm xong.” 

Bà ấy đi thẳng lên phòng của Krishnamurti, nhưng những lời nói vấp váp trong cổ họng của bà đến độ bà không thể thốt ra lời. Thấy được khó khăn đó, ông nhờ bà đem thuốc uống để giúp đỡ khoảnh khắc đó trôi qua. Ông không thể đổ thuốc ra khỏi cái chai bởi vì bàn tay run lẩy bẩy mỗi lúc một tăng thêm. Hai bàn tay của bà ấy cũng run. Giống như ngày nào đó trước đây của Sujata, bà ấy có sự tin tưởng loáng thoáng rằng thuốc sẽ hồi phục được sinh lực của Krishnamurti nếu ông cầm lấy mà không bị đổ giọt nào. Đó là một khoảnh khắc căng thẳng khác, nhưng một khoảnh khắc khai sáng; và cũng vậy nó trôi qua đầy thành công.

Với chút tự tin có lại được, bà ấy chuyển tải chính xác câu nói của Panditji theo những hướng dẫn. Krishnamurti trả lời rằng ông không muốn mời Thần Chết, nhưng ông không chắc chắn cơ thể sẽ kéo dài được bao lâu nữa; ông đã mất đi 15 pound rồi. “Bạn có biết việc gì sẽ xảy ra nếu tôi mất cân nữa hay không?” Ông giải thích,” Tôi sẽ không đi được nữa. Nếu điều đó xảy ra và tôi không thể có thêm những cuộc nói chuyện vậy thì cơ thể sẽ chết – nó chỉ có ý nghĩa cho mục đích đó mà thôi.”

Ngày hôm đó, nhiều người đến thăm Krishnamurti, vì những lời nói đã được lan truyền rằng ông bị bệnh và có lẽ không quay lại. Ông rất mệt khi phải gặp mọi người, từng cá thể, nhưng nhiều người đã đến từ xa để bày tỏ lòng kính trọng.

Vào chiều tối, ông đi dạo lần cuối cùng trên bãi biển Adyar nơi ông được “phát hiện” trước đây lâu lắm rồi. Tại cuối chuyến đi ông bày tỏ lời chào giã từ thật lâu đến bốn hướng, quay đủ một hình vuông – về hướng Đông, về hướng Nam, về hướng Tây, về hướng Bắc – trong lời chào giã từ trang trọng đó được hiểu như là “vòng quay của con voi” của thời cổ xưa.

Radhika Herzberger.

[1] Lấy từ: The Future Is Now – London Victor Gollancz 1988.
[2] Một trong những người phục vụ tại Rishi Valley.

[3] Người nấu ăn của Krishnamurti tại Rishi Valley.

[4] Theo kinh Phật, Sujata là tên của người con gái giai cấp thấp mà Phật lần đầu tiên nhận thức ăn cúng dường sau khi hiểu rõ rằng-nhịn ăn phần thân thể không dẫn đến Khai Sáng.

Lời Ban Biên Tập TVHS 
Các Nhà xuất bản tại Việt Nam cũng như ở hải ngoại có nhu cầu in cuốn sách này vì mục đích kinh doanh, xin vui lòng liên lạc với Dịch gỉa hoặc nhờ Thư Viện Hoa Sen chuyển.

Source: thuvienhoasen

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 19906)
Lửa trong Cái Trí là một quyển sách của sự thâm nhập quan trọng được hướng dẫn bởi Krishnamurti, Ông Không dịch
(Xem: 20971)
Một tấm lòng, một con tim hay một thông điệp mà Mặc Giang nhắn gởi: “Cho dù 10 năm, 20 năm, 30 năm. Năm mươi năm nửa kiếp còn dư, Trăm năm sau sỏi đá còn mềm...
(Xem: 19341)
Nữ Phật tử ở khắp nơi trên thế giới đang cố gắng đổi mới, và bộ sưu tập này đề cập đến các hoạt động của họ ở Ấn Độ, Tích Lan, Miến Điện, Thái, Campuchia, Nepal, Tây Tạng, Đại Hàn, Nhật, Đức, Anh...
(Xem: 40620)
Đa số dân chúng là Phật tử thuần thành và số lượng tu sĩ khá đông đảo nên Miến Điện mệnh danh xứ quốc giáo với hai đường lối rõ rệt cho chư Tăng Ni: PHÁP HỌC (Pariyattidhamma) và PHÁP HÀNH (Patipattidhamma).
(Xem: 21311)
Khi trình bày vấn đề, chúng tôi chọn văn học Phật giáo Lý-Trần để minh họa, bởi lẽ văn học Phật giáo Lý- Trần là kết tinh của những tinh hoa văn học Phật giáo Việt Nam.
(Xem: 41143)
Đức Phật là người đầu tiên xướng lên thuyết Nhân bản, lấy con người làm cứu cánh để giải quyết hết mọi vấn đề bế tắc của thời đại. Cuộc đời Ngài là cả một bài thánh ca trác tuyệt...
(Xem: 24155)
Tinh thần Bồ tát giới, không những được đề cao ở các kinh điển Bắc Phạn mà ngay ở trong kinh điển Nam Phạn hay Pàli cũng hàm chứa tinh thần này.
(Xem: 23091)
Không bao lâu sau khi Đức Thế Tôn nhập Niết bàn, tôn giả Đại Ca Diếp tập họp 500 vị đại Tỳ kheo tại giảng đường Trùng Các, bên dòng sông Di Hầu, thành Tỳ Xá Ly, để chuẩn bị kết tập kinh luật.
(Xem: 17883)
Biết Phật pháp, ứng dụng được Phật pháp vào đời sống của mình, đó là phước báu lớn nhất mà mình nhận được trong cuộc đời này. Bởi nhờ đó, mình đi không lầm lẫn.
(Xem: 27032)
Tập sách nhỏ này, là một tập tài liệu vô cùng quí giá, do sự tham khảo các kinh sách của Đức Thế Tôn để lại với các tài liệu tác giả đã sưu tầm và tham quan tại một số địa phương...
(Xem: 20783)
Trước khi Người nhập diệt Đại Bát-Niết-bàn, Phật đã khuyên những đệ tử kính đạo nên viếng thăm, chiêm bái bốn nơi để được tăng thêm sự truyền cảm về tâm linh của mình...
(Xem: 33690)
Trong giới biên khảo, sử gia giữ một địa vị đặc biệt, vì sức làm việc phi thường của họ. Họ kiên nhẫn, cặm cụi hơn hết thảy các nhà khác, hi sinh suốt đời cho văn hóa...
(Xem: 21092)
Sân hận không thể vượt thắng bằng sân hận. Nếu người ta biểu lộ sân hận đến chúng ta, và chúng ta thể hiện giận dữ trở lại, kết quả là một thảm họa.
(Xem: 29019)
Nền giáo học của Phật giáo có nội dung rộng lớn tận hư không pháp giới. Phật dạy cho chúng ta có một trí tuệ đối với vũ trụ nhân sinh, giúp chúng ta nhận thức một cách chính xác...
(Xem: 12727)
Tập sách Lối về Sen Nở bao gồm những bài viết, bản dịch, bài tham luận trong các kỳ hội thảo, đăng rải rác trên các tạp chí, nguyệt san Phật giáo mấy thập niên qua.
(Xem: 25391)
Mọi người đều biết là Đức Phật không hề bắt ai phải tin vào giáo lý của Ngài và Ngài khuyên các đệ tử hãy sử dụng lý trí của mình dựa vào các phương pháp tu tập...
(Xem: 19180)
Con ơi, hãy can đảm vươn mình đứng dậy hiên ngang như con mãnh sư để nhìn ngắm cuộc đời, đừng sợ hãi lẩn tránh, cũng đừng toan tính gì hơn cho cuộc đời này nữa.
(Xem: 17553)
Lắng nghe hay ngắm nhìn thực tại thì có thể thực hiện bất cứ ở đâu và lúc nào vì tâm và cảnh luôn có mặt tại đây và bây giờ mà không cần chờ đợi một thời gian...
(Xem: 25861)
Thật vậy, trên bất cứ một khía cạnh nào, Đức Phật đều giữ cho tôn giáo của Ngài không bị vướng mắc vào những thứ cành lá chết khô của quá khứ.
(Xem: 19053)
Krishnamurti đã quan sát rằng chính động thái của thiền định, trong chính nó, sẽ sáng tạo trật tự cho sự hoạt động của suy nghĩ mà không có sự can thiệp của ý muốn...
(Xem: 19029)
Trong Đạo Phật, khi tâm thức chúng tatrình độ khởi đầu, chúng ta được dạy cho những sự thực hành nào đấy để thực tập. Khi qua những thực tập ấy, tâm thức chúng ta đã phát triển một ít...
(Xem: 29090)
Đức Phật dạy rằng hạnh phúcvấn đề thiết thực hiện tại, không phải là những ước mơ đẹp đẽ cho tương lai, hay những kỷ niệm êm đềm trong quá khứ.
(Xem: 18944)
Tư tưởng Lão Tử rất nhất quán nên dù chỉ viết hai bài về Lão Tử Đạo Đức Kinh nhưng trong đó cũng liên quan hầu như toàn bộ tinh hoa đạo lý của nhà Đạo Học vĩ đại này.
(Xem: 33392)
Thầy bảo: “Chuyện vi tiếu nếu nghe mà không thấy thì cứ để vậy rồi một ngày kia sẽ thấy, tự khám phá mới hay chứ giải thích thì còn hứng thú gì.
(Xem: 38456)
Sở dĩ chúng ta mãi trôi lăn trong luân hồi sinh tử, phiền não khổ đau là vì thân tâm luôn hướng ngoại tìm cầu đối tượng của lòng tham muốn. Được thì vui mừng, thích thú...
(Xem: 31305)
Nếu không có cái ta ảo tưởng xen vào thì pháp vốn vận hành rất hoàn hảo, tự nhiên, và tánh biết cũng biết pháp một cách hoàn hảo, tự nhiên, vì đặc tánh của tâm chính là biết pháp.
(Xem: 18269)
Người muốn thấu triệt pháp môn tu tập, xứng lý, hợp cơ, trước hết cần phải tạo cho mình có cái nhìn căn bản tổng quát về tôn giáo mình... HT Thích Bảo Lạc
(Xem: 24550)
Ðức Thế Tôn muốn cho thầy vun trồng thêm niềm tin nên Ngài mới dạy thêm rằng: Này Upakàjivaka, những người hết phiền não trong thế gian này là người thắng hóa trong mọi nơi.
(Xem: 19477)
Một trong những nhân tố chính yếu cung cấp năng lượng cho Cách Mạng Hạnh Phúc đã là sự nghiên cứu khích động phơi bày nhiều lợi ích của hạnh phúc – những hạnh phúc trải rộng...
(Xem: 17946)
Truyện thơ Tôn giả La Hầu La - Tác giả: Tâm Minh Ngô Tằng Giao
(Xem: 23129)
Khi tại thế, Ðức Phật đi hoằng hóa nhiều nước trong xứ Ấn Ðộ, đệ tử xuất gia của ngài có đến 1250 vị, trong đó có Bà Ma Ha Ba Xà Ba Ðề...
(Xem: 18054)
Bởi vì sự mở mang một cái trí tốt lành là một trong những quan tâm chính của chúng ta, người ta dạy học như thế nào là điều rất quan trọng. Phải có một vun quén của tổng thể cái trí...
(Xem: 32284)
Tất nhiên không ai trong chúng ta muốn khổ, điều quan trọng nhất là chúng ta nhận ra điều gì tạo ra khổ, tìm ra nguyên nhân tạo khổ và cố gắng loại trừ những nhân tố này.
(Xem: 17417)
Ðối tượng của tuệ giác Phật họcthuyết minh tận cùng chân lý của vạn pháp. Khoa học đang khởi đầu bước lên trên con đường tận cùng chân lý của Phật học.
(Xem: 17451)
Với một sự sáng suốt tuyệt đối và một niềm thương cảm vô biên Ngài nhận thấy con người tác hại lẫn nhau chỉ vì vô minh mà thôi...
(Xem: 16112)
Muốn sáng tạo sự giáo dục đúng đắn, chắc chắn chúng ta phải hiểu rõ ý nghĩa của sống như một tổng thể, và muốn có điều đó chúng ta phải có thể suy nghĩ, không cố chấp...
(Xem: 18596)
Tôi thức dậy trong một sự yên tĩnh như thế ấy ở Pomona. Tiếng chim hót vang rừng những không thể nói là tiếng ồn. Nó lại càng làm cho sự yên lặng thêm sâu hơn về bề sâu là khác.
(Xem: 20808)
Ngày xưa có một chú tiểu Sa Di đến học Phật giáo với một vị thầy rất sáng suốt. Chú là một đứa đệ tử rất tốt. Chú rất lễ phép, thành thật và biết vâng lời.
(Xem: 18117)
Đóa sen, nếu nhìn dưới kính hiển vi và suy luận theo thiên văn học, là nền tảng của vũ trụ và cũng là một phương tiện giúp ta khám phá vũ trụ.
(Xem: 20154)
Mái Kim Các Tự làm bằng gỗ mịn thoai thoải dốc xuống. Đường nét kiến trúc vừa nhẹ nhàng vừa đẹp đẽ. Đó là một kiệt tác phẩm của lối kiến trúc đình viên...
(Xem: 14936)
Tác phẩm Đôi bạn hành hương (Công Chúa Tinh Khôi và Hoàng tử Ếch) là một điển hình trong cõi văn đầy màu sắc Phật giáo của Chiêu Hoàng.
(Xem: 20967)
Điều tôi muốn là con đường đưa đến sự chấm dứt mọi đau khổ, một con đường đã được khám phá hơn hai ngàn năm trăm năm nay nhưng mãi đến thời gian gần đây tôi mới ý thức được nó.
(Xem: 15091)
Đức Phậttiêu biểu tuyệt hảo về Từ, Bi, Hỷ Xả. Đó là Tứ Vô Lượng Tâm toàn bích, không một tỳ vết, thể hiện qua suốt cuộc đời thị hiện ta-bà của Ngài.
(Xem: 15802)
Cám ơn nàng. Nàng đã đem lại cho ta SỰ THẬT. Nàng đã cho ta thấy cái phi lý của tưởng tượng. Ta sẽ không còn ôm giữ một hình ảnh nào, vì Phật đã dạy: Pháp còn phải bỏ huống chi phi pháp.
(Xem: 12958)
Cha cô vẫn nói, cô giống mẹ từ chân tơ, kẽ tóc, vừa xinh đẹp, vừa tài hoa. Cha thương nhớ mẹ bao nhiêu là yêu quí cô bấy nhiêu.
(Xem: 14530)
Bàng bạc khắp trong tam tạng kinh điển, hằng hà sa số mẩu truyện, đức Phật thường nhắc đến sự liên hệ giữa Ngài và các đệ tử, giữa chúng sanh và Ngài trong những kiếp quá khứ.
(Xem: 14952)
Diệu nhắm mắt lại, không biết mình đang mơ hay tỉnh. Phép lạ nào đã biến đổi tâm hồn Quảng đến không ngờ?
(Xem: 29475)
“Chẳng có ai cả” là một tuyển tập những lời dạy ngắn gọn, cô đọng và thâm sâu nhất của Ajahn Chah, vị thiền sư lỗi lạc nhất thế kỷ của Thái Lan về pháp môn Thiền Minh Sát.
(Xem: 12792)
Giáo lý vô ngã đề cập trực tiếp đến cách thức mà chúng ta đang nhận hiểu về bản thân mình và thế giới quanh ta, chỉ ra những điểm hợp lý và bất hợp lý trong cách nhìn nhận đó.
(Xem: 14560)
Tôi thích nhìn ngắm những sự việc như chúng là và đối diện những sự kiện; thuộc cá nhân tôi không có cảm tính của bất kỳ loại nào, tôi xóa sạch tất cả điều đó.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant