Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

06. Bombay, 19 tháng hai 1950

11 Tháng Bảy 201100:00(Xem: 6182)
06. Bombay, 19 tháng hai 1950

KRISHNAMURTI
BÀN VỀ XUNG ĐỘT [ON CONFLICT]
Lời dịch: ÔNG KHÔNG – 2009

Bombay, 19 tháng hai 1950

Người hỏi: Qua những hoạt động như Liên Hiệp Quốc và Hội nghị Hòa Bình Thế giới, con người khắp thế giới đang thực hiện một nỗ lực cá thể và tập thể để ngăn ngừa một chiến tranh thế giới lần thứ ba. Nỗ lực của ông khác biệt với nỗ lực của họ như thế nào, và ông hy vọng đạt được bất kỳ những kết quả đáng kể nào không? Chiến tranh có thể được ngăn ngừa?

Krishnamurti: Đầu tiên chúng ta hãy giải quyết những sự kiện rõ ràng và sau đó thâm nhập sâu thêm nữa vào vấn đề. Chúng ta có thể ngăn ngừa chiến tranh hay không? Bạn nghĩ gì? Con người nhất quyết tàn sát lẫn nhau; bạn nhất quyết tàn sát người hàng xóm của bạn – có lẽ, không bằng những cây kiếm, nhưng bạn đang trục lợi họ, chính trị, tôn giáo, và kinh tế. Có những phân chia ngôn ngữ, cộng đồng, xã hội, và bạn không đang hối hả thực hiện tất cả điều này hay sao? Bạn không muốn ngăn ngừa chiến tranh bởi vì một số người các bạn sắp sửa kiếm được tiền bạc. Những người xảo quyệt sắp sửa kiếm được tiền bạc, và những người khờ khạo cũng sẽ muốn kiếm được tiền bạc nhiều thêm. Vì Chúa, hãy thấy sự xấu xa, sự vô lương tâm của nó! Khi bạn có một mục đích đã sắp đặt để kiếm được bằng bất kỳ giá nào, kết quả là điều không tránh khỏi. Chiến tranh thế giới lần thứ ba bắt nguồn từ chiến tranh thế giới lần thứ hai, chiến tranh thế giới lần thứ hai bắt nguồn từ lần thứ nhất, và lần thứ nhất là kết quả của những chiến tranh trước. Nếu bạn không chấm dứt nguyên nhân, chỉ chắp vá những triệu chứng chẳng có ý nghĩa gì cả. Một trong những nguyên nhân của chiến tranh là chủ nghĩa quốc gia, những chính phủ cầm quyền, và mọi điều xấu xa theo cùng chúng – quyền hành, thanh danh, vị trí, và uy quyền. Nhưng hầu hết chúng ta đều không muốn chấm dứt chiến tranh bởi vì sống của chúng ta không trọn vẹn, toàn tồn tại của chúng ta là một bãi chiến trường, một xung đột vô tận, không những với người vợ của chúng ta, người chồng của chúng ta, người hàng xóm của chúng ta mà còn cả với chính chúng ta – đấu tranh liên tục để trở thành cái gì đó. Đó là sống của chúng ta, trong nó chiến tranh và bom khinh khí chỉ là những chiếu rọi hoành tráng và bạo lực. Chừng nào chúng ta còn không hiểu rõ toàn ý nghĩa của sự tồn tại của chúng ta và tạo ra một thay đổi cơ bản, không thể có hòa bình trong thế giới.

Bây giờ vấn đề thứ hai còn khó khăn hơn nhiều, còn đòi hỏi sự chú ý của bạn hơn nhiều – mà không có nghĩa rằng vấn đề thứ nhất là không quan trọng. Sở dĩ hầu hết chúng ta đều không chú ý nhiều lắm đến sự thay đổi của chính chúng ta do bởi chúng ta không muốn được thay đổi. Chúng ta mãn nguyện và không muốn bị quấy rầy. Chúng ta hài lòng khi chúng ta đang sống như chúng ta là hiện nay. Và đó là lý do tại sao chúng ta đang gửi con cái của chúng ta đến chiến tranh, tại sao chúng ta phải có sự huấn luyện quân sự. Tất cả các bạn đều muốn cất giữ những tài khoản ngân hàng của các bạn, bám chặt vào tài sản của các bạn – tất cả đều nhân danh không-bạo lực, nhân danh Thượng đế và hòa bình, mà là hành động bậy bạ của tinh thần tôn giáo. Chúng ta có ý gì qua từ ngữ hòa bình? Bạn nói Liên Hiệp Quốc đang cố gắng thiết lập hòa bình bằng cách tổ chức những quốc gia thành viên của nó, mà có nghĩa nó đang cân bằng quyền lực. Đó là sự theo đuổi hòa bình hay sao?

Rồi thì còn có sự tập họp của những cá thể quanh một ý tưởng nào đó của điều gì họ nghĩ là hòa bình. Đó là những cá thể phản đối chiến tranh tùy theo hoặc là sự tin tưởng về đạo đức của anh ấy hoặc là những ý tưởng về kinh tế của anh ấy. Chúng ta đặt hòa bình hoặc là trên một nền tảng thuộc lý trí hoặc là trên một nền tảng thuộc đạo đức. Chúng ta nói chúng ta phải có hòa bình bởi vì chiến tranh không gây lợi lộc, mà là lý do thuộc kinh tế; hay chúng ta nói chúng ta phải có hòa bình bởi vì nó là vô đạo đức khi giết chóc, nó là vô tôn giáo, con người có tánh thiện ngay trong bản chất của anh ấy và không bị hủy diệt, và vân vân. Vậy là có tất cả những giải thích này của lý do tại sao chúng ta không nên có chiến tranh; những lý do thuộc đạo đức, nhân đạo, lương tâm, hay tôn giáo biện minh cho hòa bình ở phía này và những lý do thuộc xã hội, kinh tế, lý trí ở phía kia.

Bây giờ, hòa bình là vấn đề của cái trí? Nếu bạn có một lý do, một động cơ cho hòa bình, điều đó sẽ mang lại hòa bình? Nếu tôi kiềm chế giết chết bạn bởi vì tôi nghĩ nó là vô đạo đức, đó là hòa bình hay sao? Nếu vì những lý do kinh tế tôi không tham gia quân đội bởi vì tôi nghĩ nó không sinh ra lợi lộc, đó là hòa bình hay sao? Nếu tôi đặt nền tảng hòa bình của tôi trên một động cơ, trên một lý do, điều đó có thể mang lại hòa bình hay sao? Nếu tôi thương yêu bạn bởi vì bạn đẹp đẽ, bởi vì bạn làm thỏa mãn tôi phần thân xác, đó là tình yêu hay sao? Điều này rất quan trọng. Hầu hết chúng ta đã vun quén những cái trí của chúng ta, chúng ta sử dụng trí năng quá nhiều, đến độ chúng ta muốn tìm ra những lý do cho việc không giết chóc, những lý do gây ra sự hủy diệt thảm khốc của bom nguyên tử, những tranh cãi thuộc kinh tế và đạo đức cho hòa bình, và vân vân; và chúng ta nghĩ rằng chúng ta càng có những lý do cho việc không giết chóc nhiều bao nhiêu, càng có hòa bình nhiều bấy nhiêu. Nhưng liệu bạn có thể có hòa bình qua một lý do? Hòa bình có thể chuyển thành một nguyên nhân hay sao? Chính nguyên nhân không là bộ phận của xung đột hay sao? Liệu không-bạo lực, hòa bình là một lý tưởng phải được theo đuổicuối cùng đạt được qua một tiến trình từ từ của tiến hóa hay sao? Tất cả những điều này là những lý do, những giải thích duy lý, phải không?

Vì vậy nếu chúng ta chín chắn, câu hỏi của chúng ta thực sự là liệu hòa bình là một kết quả, tác động của một nguyên nhân, hay hòa bình là một trạng thái của đang là, không phải trong tương lai hay trong quá khứ nhưng ngay lúc này. Nếu hòa bình, nếu không-bạo lực là một lý tưởng, chắc chắnthể hiện rằng thực ra bạn là bạo lực: bạn không hòa bình. Bạn ao ước là hòa bình, và bạn nêu những lý do tại sao bạn nên là hòa bình; và, bởi vì được thỏa mãn với những lý do, bạn giữ nguyên tình trạng bạo lực. Thực ra, một con người là hòa bình, một con người tìm kiếm sự cần thiết của trạng thái hòa bình, không có lý tưởng của hòa bình. Anh ta không tạo ra một nỗ lực để trở nên hòa bình nhưng thấy sự cần thiết, sự thật của là hòa bình. Chỉ con người không thấy sự quan trọng, sự cần thiết, sự thật của là hòa bình, mới chuyển không-bạo lực thành một lý tưởng – mà thực sự chỉ là một trì hoãn của hòa bình. Đó là điều gì các bạn đang làm, tất cả các bạn đang tôn thờ lý tưởng của hòa bình và trong khoảng giữa thụ hưởng bạo lực. Các bạn cười, các bạn dễ dàng vui đùa. Nó là một giải trí khác; và khi các bạn rời khỏi sự gặp gỡ này, các bạn sẽ tiếp tục chính xác như trước kia! Các bạn mong đợi có hòa bình bởi những tranh luận hời hợt và nói chuyện ngẫu nhiên? Bạn sẽ không có hòa bình bởi vì bạn không muốn hòa bình; bạn không hứng thú nó, bạn không thấy sự quan trọng, sự cần thiết của có hòa bình ngay lúc này, không phải ngày mai. Chỉ khi nào bạn không còn lý do cho hòa bình, bạn sẽ có hòa bình.

Chừng nào bạn còn có một lý do để sống, bạn không đang sống, phải không? Bạn sống chỉ khi nào không có lý do, không nguyên nhân – bạn chỉ sống. Tương tự, chừng nào bạn còn có lý do cho hòa bình, bạn sẽ không có hòa bình. Một cái trí sáng chế một lý do cho hòa bình đang ở trong xung đột, và một cái trí như thế sẽ tạo ra hỗn loạnxung đột trong thế giới. Chỉ suy nghĩ ra, và bạn sẽ thấy. Làm thế nào một cái trí sáng chế những lý do cho hòa bình có thể là hòa bình? Bạn có thể có những lý lẽ biện hộ và phản bác rất khôn khéo, nhưng chính cấu trúc của cái trí không được đặt nền tảng trên bạo lực hay sao? Cái trí là kết quả của thời gian, của ngày hôm qua, và nó luôn luôn xung đột với hiện tại; nhưng con người là hòa bình ngay lúc này không có lý do cho nó. Với con người hòa bình, không có động cơ cho hòa bình. Quảng đại có một động cơ hay sao? Khi bạn quảng đại có một động cơ, đó là quảng đại à? Khi một người từ bỏ thế giớimục đích đạt được Thượng đế, vì mục đích đạt được điều gì đó to tát hơn, đó là sự từ bỏ hay sao? Nếu tôi từ bỏ cái này với mục đích tìm được cái kia, tôi có thực sự từ bỏ bất kỳ cái gì hay không? Nếu tôi được hòa bình vì những lý do khác nhau, tôi đã tìm được hòa bình à?

Vậy là, hòa bình không là một việc vượt khỏi cái trí và những sáng chế của cái trí hay sao? Hầu hết chúng ta, hầu hết những con người tôn giáo cùng những tổ chức của họ, đến hòa bình qua lý do, qua kỷ luật, qua tuân phục, bởi vì không có trực nhận của sự cần thiết, sự thật của là hòa bình. Hòa bình, trạng thái của hòa bình đó, không là trạng thái trì trệ; trái lại, nó là một trạng thái năng động nhất. Nhưng cái trí chỉ có thể biết được hoạt động thuộc sáng chế riêng của nó, mà là tư tưởng; và tư tưởng không bao giờ có thể là hòa bình; tư tưởngđau khổ; tư tưởngxung đột. Vì chúng ta chỉ biết phiền muộnđau khổ, chúng ta cố gắng tìm ra những phương cáchphương tiện để vượt khỏi nó, và bất kỳ điều gì cái trí sáng chế chỉ gia tăng thêm nữa đau khổ riêng của nó, xung đột riêng của nó, đối kháng riêng của nó. Bạn sẽ nói rằng chẳng có bao nhiêu người sẽ hiểu rõ điều này, rằng chẳng có bao nhiêu người sẽ mãi mãi là hòa bình trong ý nghĩa đúng đắn của từ ngữ đó. Tại sao bạn nói như thế? Không phải bởi vì nó là một tẩu thoát thuận tiện cho bạn hay sao? Bạn nói rằng hòa bình không bao giờ có thể đạt được trong cách tôi đang trình bày; nó không thể xảy ra được. Vì vậy bạn phải có những lý do cho hòa bình; bạn phải có những tổ chức cho hòa bình; bạn phải có sự tuyên truyền khôn khéo cho hòa bình. Nhưng chắc chắn tất cả những phương pháp đó chỉ là sự trì hoãn của hòa bình.

Chỉ khi nào bạn tiếp xúc trực tiếp cùng vấn đề, khi bạn thấy rằng nếu không có hòa bình ngày hôm nay bạn không thể có hòa bình ngày mai, khi bạn không có lý do cho hòa bình nhưng thực sự thấy sự thật rằng nếu không có hòa bình sống không thể xảy ra được; sáng tạo không thể xảy ra được, rằng nếu không có hòa bình không thể có ý thức của hạnh phúc – chỉ khi bạn thấy sự thật của điều đó bạn sẽ có hòa bình. Vậy là bạn sẽ có hòa bình nếu không có bất kỳ tổ chức nào cho hòa bình. Muốn có điều đó bạn phải thật mong manh, bạn phải khẩn thiết cho hòa bình bằng tất cả tâm hồn của bạn, bạn phải tự tìm ra sự thật của nó cho chính bạn, không qua những tổ chức, không qua sự tuyên truyền, không qua những lý lẽ khôn ngoan để ủng hộ hòa bình và phản đối chiến tranh. Hòa bình không là sự phủ nhận của chiến tranh. Hòa bình là một trạng thái của đang là trong đó tất cả những xung đột và tất cả những vấn đề đã kết thúc; nó không là một lý thuyết, không là một lý tưởng sẽ đạt được sau mười hóa thân, mười năm, mười ngày. Chừng nào cái trí còn không hiểu rõ hoạt động riêng của nó, nó sẽ tạo ra đau khổ nhiều hơn; và sự hiểu rõ về cái trí là sự khởi đầu của hòa bình.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14874)
Ngài Nam Tuyền nói: “Tâm bình thường là đạo.” Chư vị Tổ sư dùng đến vô số phương tiện cũng không ngoài việc dẫn dắt người học đạt đến tâm bình thường này.
(Xem: 17799)
Các phần lý thuyếtthực hành chứa đựng trong sách này có tác dụng dẫn dắt tâm chúng ta đến chỗ thấu hiểu sâu xa hơn về sự sống và chết, về vô thường và khổ đau.
(Xem: 18214)
Với người chịu dày công tìm hiểu, đạo lý không có gì là bí ẩn; với người biết suy xét, hiểu được đạo lý không phải là khó khăn.
(Xem: 14992)
Khi chúng tôi mới gặp nhau, tôi là một thành viên tích cực của Câu lạc bộ Lotos, nhưng từ khi bắt tay vào việc soạn sách “Vén màn Isis” tôi đã chấm dứt hẳn mọi liên hệ với các hội hè đình đám...
(Xem: 13184)
Quyển hồi ký này của tu sĩ Yogananda có một giá trị độc đáo vì nó là một trong những tác phẩm nói về các bậc thánh nhân, hiền triết Ấn Độ.
(Xem: 21164)
Trong lúc thiền quán, tôi tập trung suy nghĩ rất nhiều những lời thầy dạy. Tôi bừng tỉnh nhận ra quả thật điều mà tôi khổ công tìm kiếm không phải là việc say mê dành trọn thời gian cho việc tu tập thiền định.
(Xem: 32580)
Cho đến nay Phật giáo đã tồn tại hơn 2.500 năm, và trong suốt thời kỳ này, Phật giáo đã trải qua những thay đổi sâu xa và cơ bản. Để thuận tiện trong việc xem xét, lịch sử Phật giáo có thể được tạm chia thành bốn thời kỳ.
(Xem: 15318)
Những ảnh hưởng tích cực của thiền đối với cuộc sống con người không hề bị giới hạn bởi bất cứ yếu tố khác biệt nào, cho dù đó là chủng tộc, giai cấp, tuổi tác hay giới tính...
(Xem: 12348)
Trong chuyến du hành sang Ai Cập, tác giả đã dày công thâu thập được nhiều kinh nghiệm huyền linh và thần bí. Ngoài ra tác giả còn trình bày những khía cạnh bí ẩn khác của xứ Ai Cập...
(Xem: 12834)
Trải qua dòng lịch sử, nhân loại đã thực hiện được nhiều kỳ công vĩ đại, nhưng con người vẫn phải bóp trán suy nghĩ để tìm hiểu ý nghĩanguyên nhân của sự đau khổ...
(Xem: 27526)
Tám mươi tư vị đại sư trong tác phẩm này là những vị tổ sư của phái Đại thủ ấn truyền thống, sống trong thời kỳ từ thế kỷ thứ 8 đến thế kỷ 12.
(Xem: 12137)
Đã biết nhân quả theo nhau như bóng với hình, nên kể từ đây chúng ta hãy phát tâm dũng mãnh làm mới lại mình, sám hối, ăn năn những sai lầm đã phạm trước kia.
(Xem: 34949)
Khi đức Phật còn trụ thế, ngài từng nói với tôn giả A-nan rằng: “Này A-nan! Sau khi ta tịch rồi, giới luật chính là thầy của các ngươi đó. Giới luật sẽ bảo vệnâng đỡ cho các ngươi.”
(Xem: 17749)
Tập truyện này kể lại nhiều câu chuyện mang tính giáo dục cao, có thể giúp dạy bảo, khuyên răn nhằm bồi dưỡng nhân cách, đưa con người hướng đến Chân, Thiện, Mỹ...
(Xem: 11827)
Mùa xuân đồng nghĩa với mùa hoa có từ khi thiên địa mới mở. Nó có thật mà như mơ, trong trẻo thanh cao, vô tư bên cạnh cõi Ta-bà phiền não đầy những giá trị giả.
(Xem: 12648)
Trước cuộc du hành đầu tiên của tôi, phương Đông đã xâm chiếm tâm hồn tôi với một sự hấp dẫn vô cùng mạnh mẽ. Về sau, tôi quay sang việc khảo cứu các kinh điển của Á châu...
(Xem: 14569)
Trong sách này, tác giả đã diễn tả cả một nền văn minh truyền thống dưới cặp mắt của một người bản xứ nhìn vào mọi khía cạnh sinh hoạt, vật chấttâm linh, của đất nước Tây Tạng...
(Xem: 32473)
"BÀI HỌC NGÀN VÀNG" là câu chuyện đã có từ xưa, một câu chuyện vô cùng thâm thúy và bổ ích cho thế đạo nhân tâm.
(Xem: 19460)
Tu Là Chuyển Nghiệp - Tuyển tập 7 bài viết về "nghiệp" trong Phật giáo - HT Thích Thanh Từ
(Xem: 12971)
Tập sách này là một sự tập hợp các bài biên khảo đã được đăng trong các tạp chí Phật giáo. Các bài: Triết lý quanh đèn, Triết lý chiếc nôi, Cái nhìn...
(Xem: 14087)
Nay nhìn lại, tôi nhận ra nếp sống nhà chùa là nếp sống tình thươngtrí tuệ. Người trong thơ đã mở nguồn cho tôi vào đạo và mở nguồn cảm xúc cho tôi bây giờ.
(Xem: 14270)
Chỉ khi nào làm mọi việc mà không thấy có mình làm, không thấy có chúng sinh được cứu độ, không thấy mình và chúng sinh có sự khác biệt đó mới là vô ngã.
(Xem: 15315)
Anh đã từng xót thương, như tự xót thương anh thuở nào thơ dại, khi bắt gặp trên đường những nét nhăn mà móng vuốt của cuộc đời đã cày trên trán ai như trán em bây giờ...
(Xem: 14143)
...ý nghĩa của đời sống phải được tìm thấy ngay trong những giây phút quý giá mà ta đang còn được sống. Đó là niềm hạnh phúc khi chúng ta được thương yêu...
(Xem: 14136)
Những gì sẽ được trình bày trong tập sách mỏng này thật ra không có gì mới lạ, mà chính là những gì đã từng được đức Phật Thích-ca Mâu-ni giảng dạy cách đây hơn 25 thế kỷ!
(Xem: 11959)
Yêu thương là cội nguồn của hạnh phúc, thậm chí trong một chừng mực nào đó còn có thể nói rằng yêu thương chính là hạnh phúc, như hai mặt của một vấn đề không chia tách.
(Xem: 53174)
Thiền như một dòng suối mát, mà mỗi chúng ta đều là những người đang mang trong mình cơn khát cháy bỏng tự ngàn đời.
(Xem: 11664)
Người viết cũng tin tưởng là tất cả chúng ta đều có thể thực hiện việc phóng sinh mỗi ngày trong cuộc sống. Và điều đó có thể mang lại những kết quả rất kỳ diệu...
(Xem: 13926)
Tập sách vừa là một trang đạo, vừa là một trang đời đẫm đầy mọi thử thách, chông gai mà Thầy đã từng trải, đã đi qua trong suốt cuộc hành trình của tháng năm tuổi trẻ.
(Xem: 13820)
Mỗi người chúng ta thường chỉ nhận biết được một số những khía cạnh nhất định nào đó mà chúng ta cho là khổ đau, và vẫn không ngừng đắm say trong vô số những niềm vui nhỏ nhặt...
(Xem: 20694)
Phật giáo luôn xem vấn đề sống chết là điều quan trọng nhất cần phải được nhận hiểu một cách thấu đáo. Đây là điểm tương đồng giữa tất cả các tông phái khác nhau trong Phật giáo.
(Xem: 14313)
Quyển sách này là sáu nói chuyện Jiddu Krishnamurti trình bày tại những Trường đại học Ấn độ và những Học viện Công Nghệ Ấn độ giữa năm 1969 và năm 1984.
(Xem: 13432)
Thật là một nghịch lý khi hành tinh này ngày càng có đông người sinh sống hơn nhưng mối quan hệ giữa người với người lại ngày càng trở nên xa cách, nhợt nhạt hơn.
(Xem: 13617)
Phật Giáo hiện hữu trên thế gian nầy từ vô lượng kiếp và Phật Giáo đã được hình thành bằng hình thức khế lý khế cơ qua hơn 2.500 năm lịch sử trên quả địa cầu này...
(Xem: 34175)
Chúng ta đang rất cần chú ý đến những mối quan hệ gia đình trong môi trường mới, nhằm có thể duy trì và phát triển được hạnh phúc ngay cả trong những điều kiện khó khăn nhất mà cuộc sống đòi hỏi.
(Xem: 16211)
"Phật Pháp Cho Sinh viên" là kết quả của hai buổi nói chuyện đạo của Ajahn Buddhadàsa vào tháng Giêng năm 1966 với các sinh viên viện Ðại học Thammasat ở Bangkok.
(Xem: 14073)
Quyển sách "Nguồn an lạc" này, được biên tập từ các bài giảng phổ thông của Hòa thượng Viện trưởng tại Thiền viện Trúc Lâm và các Thiền viện trực thuộc, cũng như đạo tràng các nơi.
(Xem: 14203)
Bóng trúc bên thềm là tập hợp những trang tùy bút mà tôi đã trải lòng trong những năm gần đây. Chung quy không ngoài những chuyện thường ngày của cuộc sống...
(Xem: 13564)
Yêu thương và được yêu thươnghai mặt không tách rời nhau của cùng một vấn đề. Khi bạn yêu thương, bạn cũng đồng thời nhận được sự thương yêu.
(Xem: 15911)
Phật pháp quảng đại vô biên, bình đẳng viên dung, có tác dụng thông trên suốt dưới. Phương thuốc ấy là: Người người phải bình tâm tỉnh trí, an lạc không ở bên ngoài...
(Xem: 13513)
Phật học và Y học là một trong những loạt bài nói chuyện cùng các giáo sư và bác sĩ của bác sĩ Quách Huệ Trân tại Học Viện Y Dược Trung Quốc, được cư sĩ Lý Nghi Linh ghi lại thành sách.
(Xem: 22974)
ĐẠO PHẬT VỚI CON NGƯỜI, cống hiến con người một phương châm giải thoát chân thật, đem lại sự ích lợi cho mình, cho người và kiến tạo một nền tảng hòa bình vĩnh viễn...
(Xem: 27744)
Khi đối diện với việc cầu nguyện, chúng ta thường có nhiều nghi vấn. Nghi vấn đầu tiên là cầu nguyện có kết quả không?
(Xem: 13905)
Đối với Phật tử Việt Nam chúng ta nhất là những người theo truyền thống đại thừa, danh từ Phật hay “Bụt” đã trở thành một khái niệm vừa thiêng liêng vừa gần gũi.
(Xem: 24975)
Thuở xưa, khi Đức Phật thuyết giảng cho một vị nào đó, một cư sĩ hay một bậc xuất gia, chỉ với một thời pháp rất ngắn, thậm chí đôi khi chỉ vài câu kệ, mà vị đó, hoặc là đắc pháp nhãn...
(Xem: 13948)
Đức Phật dạy chúng ta phải giải quyết những vấn đề trong cuộc sống qua sự hiểu biết rõ ràng về bốn sự thật trong đời sống: Khổ, nguyên nhân của khổ, làm thế nào diệt khổcách sống an vui hạnh phúc...
(Xem: 31334)
Ít người muốn đối diện với sự thật là các ý nghĩ và cảm nhận của họ đều vô thường. Tuy nhiên, một khi đã biết được như thế rồi thì ít ai có thể phủ nhận sức mạnh của sự thật này...
(Xem: 13864)
Được thân người và gặp được Phật Pháp mà để cho thời gian luống qua vô ích thì quả là uổng cho một kiếp người. Xin hãy lắng nghe và phụng hành theo những lời khuyên dạy của Đức Từ Phụ...
(Xem: 15563)
Hỡi những ai thực tâm muốn giác ngộ để tu trì giải thoát, hãy vững niềm tin: Phật là Phật đã thành, chúng ta là Phật sẽ thành. Tin như vậy sẽ đưa ta đến chỗ có tâm niệm chân chánh...
(Xem: 14980)
Tập sách bao gồm những bài thuyết pháp thật phong phúthiết thực của Giảng sư LOKANATHA gốc người Ý, nguyên là tín đồ Thiên Chúa Giáo La Mã, bỗng giác ngộ quay về quy ngưỡng Phật Ðạo...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant