Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Thần Tăng Thiên Trúc

17 Tháng Bảy 201100:00(Xem: 22756)
Thần Tăng Thiên Trúc
Thần tăng Thiên Trúc
Việt dịch: Thích Hằng Đạt


Lời Đầu


Trên thế gian, ngôi Tam Bảo là cao quý nhất. Đức Phật Thích Ca Mâu NiPhật Bảo. Ba tạng kinh luật luận do đức Phật Thích Ca Mâu Ni thuyết ra là Pháp Bảo. Chư tăng đệ tử xuất gia của Phật đàTăng Bảo. Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã nhập Niết Bàn ngót trên hai ngàn năm trăm năm. Ngọn đuốc chánh pháp của Pháp Bảo sở dĩ vẫn còn được hoằng truyền mãi cho đến ngày nay, tất cả đều do công lao sâu dầy của chư hiền thánh tăng trải qua bao đời. Với tinh thần đại vô úy, xả thânPhật pháp, từ Ấn Độ và những nước ở Tây Vực, các ngài vượt những rặng núi Tuyết SơnThông Lĩnh, hay cỡi sóng ba đào trên biển Nam Hải để truyền bá và xiển dương giáo lý của Phật đà về phương đông, mà không quản ngại bao gian nan nguy hiểm.


Trên bước đường hoằng pháp lợi sanh, tùy theo căn cơ của mỗi chúng sanhtùy theo nhu cầu của mỗi quốc độ, từ ba nghiệp thân khẩu ý thanh tịnh (tức là thân giáo, khẩu giáo, ý giáo) các ngài uyển chuyển dùng các phương tiện thiện xảo để hóa độ chúng sanh. Từ ý nghiệp thanh tịnh, các ngài tự tu trì ba môn học vô lậu giới định huệ (tức là ý giáo), mà phát xuất ra bằng bốn oai nghi của thân nghiệp thanh tịnh (tức là thân giáo), và dùng ngôn từ lành thiện của khẩu nghiệp thanh tịnh (tức là khẩu giáo), mà hóa độ chúng sanh; nghĩa là các ngài thường dùng oai nghi cử chỉ bình dị, dùng hạnh tu đầu đà, dùng lời lẽ thiện xảo, dùng thần thông diệu dụng, dùng trí huệ Bát Nhã để diễn giảng và phiên dịch kinh điển, khiến cho chúng sanhmọi nơi đều được thấm nhuần mưa pháp mà ly khổ đắc lạc, bước trên con đường giải thoát.


Ân đức cao cả vĩ đại của các ngài như thế đó, chính là động lực thúc đẩy chúng tôi phát tâm soạn dịch tiểu sử của các ngài, hầu mong hậu thế mãi mãi nhớ đến ân Tăng Bảo thâm sâu vô cùng cực, mà noi gương theo các ngài để tiến tu trên đường đạo nghiệp, thoát khỏi vòng sanh tử luân hồi.


Trong quyển này, chúng tôi chỉ soạn dịch về cuộc đời của các vị thật có công lao to lớn trong việc truyền báphiên dịch kinh điển kể từ đời nhà Hậu Hán đến cuối đời Đường, tức từ thế kỷ thứ nhất đến thế kỷ thứ mười, vì đó là thời kỳ quan trọng nhất của công cuộc phiên dịch kinh điển, cùng sự hình thành và phát triển của các tông phái tại Trung Quốc, như Tam Luận tông, Thành Thật tông, Niết Bàn tông, Tịnh Độ tông, Hoa Nghiêm tông, Luật tông, Thiền tông, Pháp Tướng tông, Chơn Ngôn tông, Câu Xá tông, v.v... Những tông phái này đã ảnh hưởng sâu đậm đến Phật giáo Việt Nam.


Quyển Thần Tăng Thiên Trúc này đến tay với quý độc giả phần lớn là nhờ sự cộng tác nhiệt tình của các đạo hữu ẩn danh.


Kế đến, chúng con thành tâm kính lễ cầu nguyện mười phương ba đời chư Phật, chư Bồ Tát, chư hiền thánh Tăng, ân sư đại lão hòa thượng Tuyên Hóa, đồng hiển oai linh chứng minh cho quyển sách này. Chúng con cũng xin hồi hướng tất cả công đức để nguyện cầu cho Việt NamThế Giới mãi được thanh bình; Phật giáo Việt NamThế Giới mãi được trường tồn; tất cả chúng sanh trong pháp giới đồng sớm chứng quả Bồ Đề.


Sau cùng chúng con chân thành ngưỡng mong các bậc cao minh từ bi xá tội và chỉ dạy những lỗi lầm sơ sót trong quyển sách này.


Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.

Mùa xuân năm 2000.
Tỳ kheo Thích Hằng Đạt kính bút.

Mục Lục


Phần I

1. Tôn giả Nhiếp Ma Đằng (Kasyapa-Matanga, Ca Diếp Ma Đằng).
2. Tôn giả Trúc Pháp Lan (Dharmaraksa).
3. Ngài An Thế Cao (Parthamasiris).
Ý nghĩa của kinh An Ban Thủ Ý.
4. Ngài Chi Lâu Ca Sấm (Lokaraksa), nhà dịch giả kinh điển Đại Thừa.
5. Ngài Đàm Kha Ca La (Dharmakala).
6. Ngài Khương Tăng Khải.
7. Ngài Đàm Đế hay Đàm Vô Đế (Dharmasatya).
8. Ngài Khương Tăng Hội.
9. Chi Cương Lương Tiếp.
10. Ma Ha Kỳ Vực (Mahajivaka).
11. Chi Khiêm.
12. Ngài Duy Đề Nan (Vighna).
13. Ngài Bạch Thi Lê Mật Đa La (Srimitra).
14. Ngài Trúc Pháp Hộ.


Phần II


15. Ngài Phật Đồ Trừng, hưng long Phật pháp.

Những vị đại đệ tử của ngài Phật Đồ Trừng.
A/ Ngài Phật Điều.
B/ Ngài Đạo An, lập nền tảng vững chắc cho Phật giáo Trung Quốc.
I/ Ngài Huệ Viễn. Sơ tổ tông Tịnh Độ.
II/ Huệ Trì.
III/ Huệ Vinh.
IV/ Huệ Sung.
V/ Đàm Dực.
VI/ Pháp Ngộ.
VII/ Đàm Huy.
VIII/ Đạo Lập.
C. Ngài Trúc Pháp Nhã.
D. Ngài Tăng Lãng tại núi Thái Sơn, hưng khởi Phật giáoSơn Đông.


Phần III


16. Ngài Tăng Già Đề Bà (Sanghadeva).

17. Ngài Đàm Ma Nan Đề (Dharmanandi).
18. Ngài Ti Ma La Xoa (Vimalaksas).
19. Ngài Phật Đà Da Xá (Buddhayasas).
20. Ngài Cưu Ma La Thập (Kumarajiva).
Môn đệ của ngài Cưu Ma La Thập.
Ngài Đạo Sanh, thuyết đốn ngộ.
B. Thầy Tăng Triệu, nhà lý giải tư tưởng Bát Nhã.
C. Tăng Duệ, Giáo Tướng Hình Thể Phân Tích Nguyên Thủy.
D. Thầy Đạo Dung.
E. Thầy Đàm Ảnh.
G. Thầy Đạo Hằng và Đạo Tiêu.


Phần IV


21. Ngài Phật Đà Bạt Đà La (Buddhadhadra).

22. Ngài Phất Nhã Đa La ( Punyatara).
23. Ngài Đàm Ma Lưu Chi (Dharmaruci).
24. Ngài Đàm Vô Sấm (Dharmaraksa).
25. Ngài Tăng Già Bạt Trừng (Sanghabhata, dịch là Chúng Hiện).
26. Ngài Đàm Ma Da Xá (Dharmayasas).
27. Ngài Cầu Na Bạt Ma (Gunavarman).
28. Ngài Cầu Na Bạt Đà La (Gunabhadra).
29. Ngài Tăng Già Bạt Ma (Sanghavarman).
30. Ngài Đàm Ma Mật Đa (Pháp Tú).
31. Ngài Phật Đà La (Buddhajiva, dịch là Giác Thọ).
32. Ngài Phù Đà Bạt Ma (Buddhavarman, dịch là Giác Khải).
33. Ngài Cương Lương Da Xá (Kalayasas).
34. Ngài Tăng Già Đa La (Chúng Tế).
35. Ngài Mạn Đà La Tiên (Mandra, dịch là Hoằng Nhược).
36. Ngài Tu Bồ Đề (Subhuti, dịch là Thiện Kiết).
37. Ngài Tăng Già Bà La (Sanghabhadra).
38. Ngài Nguyệt Bà Thủ Na (Udasunya, dịch là Cao Không).
39. Ngài Đàm Ma Lưu Chi (Dharmaruci).
40. Bồ Đề Lưu Chi (Bodhiruci).
41. Tam tạng pháp sư Lặc Na Ma Đề (Ratnamati, dịch là Bảo Hỷ).
42. Tam tạng pháp sư Phật Đà Phiến Đa.
43. Ngài Cù Đàm Bát Nhã Lưu Chi.
44. Ngài Chân Đế (Paramatha).


Phần V


45. Ngài Na Liên Đề Lê Da Xá (Narendrayasas, dịch là Tôn Xưng).

46. Ngài Xà Na Quật Đa (Jnanagunta).
47. Ngài Đạt Ma Cấp Đa (Dharmagupta, dịch là Pháp Mật).
48. Ngài Xà Đề Tư Na.
49. Ngài Ba La Pha Ca La Mật Đa La (Prabhakaramitra).
50. Tam tạng pháp sư Na Đề (Punyopaya, dịch là Phước Sanh).
51. Ngài Nhã Na Bạt Đà La (Jnanabhadra, dịch là Trí Hiền).
52. Ngài Phật Đà Đa La (Buddhatrata, dịch là Giác Cứu).
53. Ngài Phật Đà Ba Lợi (Buddhapali, dịch là Giác Hộ).
54. Ngài Già Phạm Đạt Ma (Bhagavaddharma, dịch là Tôn Pháp).
55. Ngài Di Đà Sơn (Mitrasanata, dịch là Tịch Hữu).
56. Ngài A Di Chân Na (Ratnacinta, dịch là Bảo Tư Duy).
57. Ngài A Địa Cù Đa (Atigupta, dịch là Vô Cực Cao).
58. Ngài Bát Lật Mật Đế (Pramiti, dịch là Cực Lượng).
59. Ngài Thật Xoa Nan Đà (Siksamanda, dịch là Học Hỷ).
60. Ngài Địa Bà Ha La (Divakara, dịch là Nhật Chiếu).
61. Ngài Đề Vân Bát Nhã (Devaprajna, dịch là Thiên Trí).
62. Ngài Thi La Đạt Ma (Siladharma, dịch là Giới Pháp).
63. Ngài Bạt Nhật La Bồ Đề (Vajrabodhi, dịch là Kim Cang Trí).
64. Tam tạng pháp sư A Mục Khư Bạt Chiết La (Amonghavajra, dịch là Bất Không Kim Cang)
65. Tam tạng pháp sư Thú Bà Yết La Tăng Ha (Subhakarasimha, dịch là Thiện Vô Úy).
66. Ngài Bát Lặt Nhã (Trí Huệ).
67. Ngài Liên Hoa.
68. Ngài Mâu Ni Thất Lợi (Munisri, dịch là Tịch Mặc).
69. Ngài Mãn Nguyệt (Purnasoma).

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 19905)
Lửa trong Cái Trí là một quyển sách của sự thâm nhập quan trọng được hướng dẫn bởi Krishnamurti, Ông Không dịch
(Xem: 20970)
Một tấm lòng, một con tim hay một thông điệp mà Mặc Giang nhắn gởi: “Cho dù 10 năm, 20 năm, 30 năm. Năm mươi năm nửa kiếp còn dư, Trăm năm sau sỏi đá còn mềm...
(Xem: 19340)
Nữ Phật tử ở khắp nơi trên thế giới đang cố gắng đổi mới, và bộ sưu tập này đề cập đến các hoạt động của họ ở Ấn Độ, Tích Lan, Miến Điện, Thái, Campuchia, Nepal, Tây Tạng, Đại Hàn, Nhật, Đức, Anh...
(Xem: 40619)
Đa số dân chúng là Phật tử thuần thành và số lượng tu sĩ khá đông đảo nên Miến Điện mệnh danh xứ quốc giáo với hai đường lối rõ rệt cho chư Tăng Ni: PHÁP HỌC (Pariyattidhamma) và PHÁP HÀNH (Patipattidhamma).
(Xem: 21310)
Khi trình bày vấn đề, chúng tôi chọn văn học Phật giáo Lý-Trần để minh họa, bởi lẽ văn học Phật giáo Lý- Trần là kết tinh của những tinh hoa văn học Phật giáo Việt Nam.
(Xem: 41142)
Đức Phật là người đầu tiên xướng lên thuyết Nhân bản, lấy con người làm cứu cánh để giải quyết hết mọi vấn đề bế tắc của thời đại. Cuộc đời Ngài là cả một bài thánh ca trác tuyệt...
(Xem: 24155)
Tinh thần Bồ tát giới, không những được đề cao ở các kinh điển Bắc Phạn mà ngay ở trong kinh điển Nam Phạn hay Pàli cũng hàm chứa tinh thần này.
(Xem: 23090)
Không bao lâu sau khi Đức Thế Tôn nhập Niết bàn, tôn giả Đại Ca Diếp tập họp 500 vị đại Tỳ kheo tại giảng đường Trùng Các, bên dòng sông Di Hầu, thành Tỳ Xá Ly, để chuẩn bị kết tập kinh luật.
(Xem: 17883)
Biết Phật pháp, ứng dụng được Phật pháp vào đời sống của mình, đó là phước báu lớn nhất mà mình nhận được trong cuộc đời này. Bởi nhờ đó, mình đi không lầm lẫn.
(Xem: 27032)
Tập sách nhỏ này, là một tập tài liệu vô cùng quí giá, do sự tham khảo các kinh sách của Đức Thế Tôn để lại với các tài liệu tác giả đã sưu tầm và tham quan tại một số địa phương...
(Xem: 20783)
Trước khi Người nhập diệt Đại Bát-Niết-bàn, Phật đã khuyên những đệ tử kính đạo nên viếng thăm, chiêm bái bốn nơi để được tăng thêm sự truyền cảm về tâm linh của mình...
(Xem: 33690)
Trong giới biên khảo, sử gia giữ một địa vị đặc biệt, vì sức làm việc phi thường của họ. Họ kiên nhẫn, cặm cụi hơn hết thảy các nhà khác, hi sinh suốt đời cho văn hóa...
(Xem: 21090)
Sân hận không thể vượt thắng bằng sân hận. Nếu người ta biểu lộ sân hận đến chúng ta, và chúng ta thể hiện giận dữ trở lại, kết quả là một thảm họa.
(Xem: 29017)
Nền giáo học của Phật giáo có nội dung rộng lớn tận hư không pháp giới. Phật dạy cho chúng ta có một trí tuệ đối với vũ trụ nhân sinh, giúp chúng ta nhận thức một cách chính xác...
(Xem: 12727)
Tập sách Lối về Sen Nở bao gồm những bài viết, bản dịch, bài tham luận trong các kỳ hội thảo, đăng rải rác trên các tạp chí, nguyệt san Phật giáo mấy thập niên qua.
(Xem: 25390)
Mọi người đều biết là Đức Phật không hề bắt ai phải tin vào giáo lý của Ngài và Ngài khuyên các đệ tử hãy sử dụng lý trí của mình dựa vào các phương pháp tu tập...
(Xem: 19180)
Con ơi, hãy can đảm vươn mình đứng dậy hiên ngang như con mãnh sư để nhìn ngắm cuộc đời, đừng sợ hãi lẩn tránh, cũng đừng toan tính gì hơn cho cuộc đời này nữa.
(Xem: 17553)
Lắng nghe hay ngắm nhìn thực tại thì có thể thực hiện bất cứ ở đâu và lúc nào vì tâm và cảnh luôn có mặt tại đây và bây giờ mà không cần chờ đợi một thời gian...
(Xem: 25859)
Thật vậy, trên bất cứ một khía cạnh nào, Đức Phật đều giữ cho tôn giáo của Ngài không bị vướng mắc vào những thứ cành lá chết khô của quá khứ.
(Xem: 19052)
Krishnamurti đã quan sát rằng chính động thái của thiền định, trong chính nó, sẽ sáng tạo trật tự cho sự hoạt động của suy nghĩ mà không có sự can thiệp của ý muốn...
(Xem: 19029)
Trong Đạo Phật, khi tâm thức chúng tatrình độ khởi đầu, chúng ta được dạy cho những sự thực hành nào đấy để thực tập. Khi qua những thực tập ấy, tâm thức chúng ta đã phát triển một ít...
(Xem: 29089)
Đức Phật dạy rằng hạnh phúcvấn đề thiết thực hiện tại, không phải là những ước mơ đẹp đẽ cho tương lai, hay những kỷ niệm êm đềm trong quá khứ.
(Xem: 18944)
Tư tưởng Lão Tử rất nhất quán nên dù chỉ viết hai bài về Lão Tử Đạo Đức Kinh nhưng trong đó cũng liên quan hầu như toàn bộ tinh hoa đạo lý của nhà Đạo Học vĩ đại này.
(Xem: 33392)
Thầy bảo: “Chuyện vi tiếu nếu nghe mà không thấy thì cứ để vậy rồi một ngày kia sẽ thấy, tự khám phá mới hay chứ giải thích thì còn hứng thú gì.
(Xem: 38456)
Sở dĩ chúng ta mãi trôi lăn trong luân hồi sinh tử, phiền não khổ đau là vì thân tâm luôn hướng ngoại tìm cầu đối tượng của lòng tham muốn. Được thì vui mừng, thích thú...
(Xem: 31303)
Nếu không có cái ta ảo tưởng xen vào thì pháp vốn vận hành rất hoàn hảo, tự nhiên, và tánh biết cũng biết pháp một cách hoàn hảo, tự nhiên, vì đặc tánh của tâm chính là biết pháp.
(Xem: 18269)
Người muốn thấu triệt pháp môn tu tập, xứng lý, hợp cơ, trước hết cần phải tạo cho mình có cái nhìn căn bản tổng quát về tôn giáo mình... HT Thích Bảo Lạc
(Xem: 24549)
Ðức Thế Tôn muốn cho thầy vun trồng thêm niềm tin nên Ngài mới dạy thêm rằng: Này Upakàjivaka, những người hết phiền não trong thế gian này là người thắng hóa trong mọi nơi.
(Xem: 19477)
Một trong những nhân tố chính yếu cung cấp năng lượng cho Cách Mạng Hạnh Phúc đã là sự nghiên cứu khích động phơi bày nhiều lợi ích của hạnh phúc – những hạnh phúc trải rộng...
(Xem: 17946)
Truyện thơ Tôn giả La Hầu La - Tác giả: Tâm Minh Ngô Tằng Giao
(Xem: 23129)
Khi tại thế, Ðức Phật đi hoằng hóa nhiều nước trong xứ Ấn Ðộ, đệ tử xuất gia của ngài có đến 1250 vị, trong đó có Bà Ma Ha Ba Xà Ba Ðề...
(Xem: 18054)
Bởi vì sự mở mang một cái trí tốt lành là một trong những quan tâm chính của chúng ta, người ta dạy học như thế nào là điều rất quan trọng. Phải có một vun quén của tổng thể cái trí...
(Xem: 32283)
Tất nhiên không ai trong chúng ta muốn khổ, điều quan trọng nhất là chúng ta nhận ra điều gì tạo ra khổ, tìm ra nguyên nhân tạo khổ và cố gắng loại trừ những nhân tố này.
(Xem: 17417)
Ðối tượng của tuệ giác Phật họcthuyết minh tận cùng chân lý của vạn pháp. Khoa học đang khởi đầu bước lên trên con đường tận cùng chân lý của Phật học.
(Xem: 17451)
Với một sự sáng suốt tuyệt đối và một niềm thương cảm vô biên Ngài nhận thấy con người tác hại lẫn nhau chỉ vì vô minh mà thôi...
(Xem: 16110)
Muốn sáng tạo sự giáo dục đúng đắn, chắc chắn chúng ta phải hiểu rõ ý nghĩa của sống như một tổng thể, và muốn có điều đó chúng ta phải có thể suy nghĩ, không cố chấp...
(Xem: 18596)
Tôi thức dậy trong một sự yên tĩnh như thế ấy ở Pomona. Tiếng chim hót vang rừng những không thể nói là tiếng ồn. Nó lại càng làm cho sự yên lặng thêm sâu hơn về bề sâu là khác.
(Xem: 20808)
Ngày xưa có một chú tiểu Sa Di đến học Phật giáo với một vị thầy rất sáng suốt. Chú là một đứa đệ tử rất tốt. Chú rất lễ phép, thành thật và biết vâng lời.
(Xem: 18116)
Đóa sen, nếu nhìn dưới kính hiển vi và suy luận theo thiên văn học, là nền tảng của vũ trụ và cũng là một phương tiện giúp ta khám phá vũ trụ.
(Xem: 20153)
Mái Kim Các Tự làm bằng gỗ mịn thoai thoải dốc xuống. Đường nét kiến trúc vừa nhẹ nhàng vừa đẹp đẽ. Đó là một kiệt tác phẩm của lối kiến trúc đình viên...
(Xem: 14936)
Tác phẩm Đôi bạn hành hương (Công Chúa Tinh Khôi và Hoàng tử Ếch) là một điển hình trong cõi văn đầy màu sắc Phật giáo của Chiêu Hoàng.
(Xem: 20967)
Điều tôi muốn là con đường đưa đến sự chấm dứt mọi đau khổ, một con đường đã được khám phá hơn hai ngàn năm trăm năm nay nhưng mãi đến thời gian gần đây tôi mới ý thức được nó.
(Xem: 15091)
Đức Phậttiêu biểu tuyệt hảo về Từ, Bi, Hỷ Xả. Đó là Tứ Vô Lượng Tâm toàn bích, không một tỳ vết, thể hiện qua suốt cuộc đời thị hiện ta-bà của Ngài.
(Xem: 15802)
Cám ơn nàng. Nàng đã đem lại cho ta SỰ THẬT. Nàng đã cho ta thấy cái phi lý của tưởng tượng. Ta sẽ không còn ôm giữ một hình ảnh nào, vì Phật đã dạy: Pháp còn phải bỏ huống chi phi pháp.
(Xem: 12958)
Cha cô vẫn nói, cô giống mẹ từ chân tơ, kẽ tóc, vừa xinh đẹp, vừa tài hoa. Cha thương nhớ mẹ bao nhiêu là yêu quí cô bấy nhiêu.
(Xem: 14530)
Bàng bạc khắp trong tam tạng kinh điển, hằng hà sa số mẩu truyện, đức Phật thường nhắc đến sự liên hệ giữa Ngài và các đệ tử, giữa chúng sanh và Ngài trong những kiếp quá khứ.
(Xem: 14951)
Diệu nhắm mắt lại, không biết mình đang mơ hay tỉnh. Phép lạ nào đã biến đổi tâm hồn Quảng đến không ngờ?
(Xem: 29474)
“Chẳng có ai cả” là một tuyển tập những lời dạy ngắn gọn, cô đọng và thâm sâu nhất của Ajahn Chah, vị thiền sư lỗi lạc nhất thế kỷ của Thái Lan về pháp môn Thiền Minh Sát.
(Xem: 12791)
Giáo lý vô ngã đề cập trực tiếp đến cách thức mà chúng ta đang nhận hiểu về bản thân mình và thế giới quanh ta, chỉ ra những điểm hợp lý và bất hợp lý trong cách nhìn nhận đó.
(Xem: 14559)
Tôi thích nhìn ngắm những sự việc như chúng là và đối diện những sự kiện; thuộc cá nhân tôi không có cảm tính của bất kỳ loại nào, tôi xóa sạch tất cả điều đó.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant