Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Bài 10 - Trung hữu của Thời điểm chết

19 Tháng Bảy 201100:00(Xem: 10543)
Bài 10 - Trung hữu của Thời điểm chết

Kalu Rinpoche 
TÂM DIỆU MINH THƯỜNG TRỤ [Bài 10]
Trung hữu của Thời điểm chết

Bản dịch Việt: Đặng Hữu Phúc


“Khi trung hữu của thời điểm chết xuất hiện
tôi nguyện buông bỏ những ái luyến và những chấp thủ tâm ý,
và nguyện tinh tấn không tán loạn trên đạo lộ mà những chỉ giáo làm sáng tỏ.
Tâm đã phóng chiếu vào vô vi hư-không-xứ, đã li biệt cách tuyệt với thân, với thịt và máu, tôi sẽ tuệ tri tâm thì vô thườngnhư huyễn.”
Liên Hoa Sinh, Tử thư Tây Tạng.

---------------------------------------- 

Những thành tố chính yếu khác nhau cung cấp năng lực cho đời sống, chúng thoái hoá và biến mất ở lúc chấm dứt một cuộc đời. Sự tắt ngúm của một đời sống được miêu tả như là sự hoà tan hoặc sự tái hấp thu bên ngoài của các nguyên tố chính -- đất, nước, lửa, và khí – và sự tái hấp thu bên trong của các thứ loại khác nhau của những tâm niệm và những nhận thức. Trong suốt trung hữu này, nhiều khí làm sinh động thân thể bị phá hủy.

Tổng quát, thân thể của chúng ta được kiểm soát bởi năm (5) khí chính, được gọi tên là khí sinh-sự-sống (the life-bearing wind), khí vận-động-hướng-thượng (the upward-moving wind), khí lan-toả-khắp-thân (the pervasive wind), khí an-trú-lửa (the fire- dwelling wind) và khí đi-xuống-xoang-trống (the downward-voiding wind). Những khí này làm sinh động thân thể vật lí, và khi tác dụng đúng cách bảo đảm chắc chắn một sức khoẻ tốt. Vào thời điểm chết, một khí khác hiển hiện, được gọi là khí nghiệp và tái sinh hữu (At the moment of death, another wind manifests, calledthe wind of karma and becoming). Nó thì luôn luôn phát tán khắp toàn thân. Khi nó hiển hiện, nó khuấy đảo và can thiệp với các khí khác (When it manifests, it upsets and interferes with the other winds) ; những triệu chứng bệnh lý khác nhau xuất hiện khi thân thể tiếp cận cái chết.

Sự hoà tan bên ngoài

Khí điều hoà sự hấp thụ thức ăn, hoặc khí an-trú-lửa, là khí thứ nhất bị rối loạn (to be disturbed). Nó rời vị trí của nó ở luân xa rốn và ngừng chức năng, nghĩa là chúng ta không còn được nuôi dưỡng bởi thực phẩm nữa, thực phẩm cũng chẳng còn được hấp thu hoặc tiêu hoá nữa; các dưỡng chất bị sa thải nhanh chóng.

Kế tiếp, khí sinh-sự-sống bị rối loạn và rời vị trí của nó ở tim, gây ra những cảm xúc khốn khổ và không còn tâm ý minh mẫn. Sự rối loạn này kế đến ảnh hưởng khí đi-xuống-xoang-trống của các chức năng bụng dưới thế nên sự giữ lại phân và nước tiểu bị phá vỡ, gây ra đại tiện, tiểu tiện mất chủ động hoặc tắc ruột.

Sau đó khí vận-động-hướng-thượng bị làm yếu đi, gây ra thở ngắn, vất vả và khó khăn trong sự nuốt. Cuối cùng, khí lan-toả-khắp-thân bị ảnh hưởng, đem đến những cảm thức khổ về thân thể cũng như khó cử động tay chân.

Những rối loạn của những khí này làm cho chúng rời khỏi những vị trí thông thường của chúng trong cơ thể. Sự di chuyển này gây ra sự phá hủy các kinh mạch vi tế mà qua đó các khí này vẫn lưu thông một cách bình thường, cũng như hai trung tâm chính hoặc những luân xa (tiếng Phạn: cakras) .

Sự phá hủy của những kinh mạch này và các trung tâm của chúng xảy ra đem đến sự thoái hoá của các nguyên tố chính của thân thể và những phương diện vật lí nối kết với chúng: thân thể vật lí, hô hấp, thân nhiệt, máu và thịt, tương ứng thứ tự với các nguyên tố hư không, khí, lửa, nước và đất (không, khí, hoả, thủy, và địa đại). Những khí thứ cấp, vị trí ở trong năm trung tâm lớn đã nói đến trước đây, di cư và biến mất cùng một thời gian với những khí chính yếu. Sự phá hủy của những khí thứ cấp gây ra sự biến mất từng cấp bậc của các nhận thức cảm quan (sense perceptions)

Sự phá hủy của năm khí này duyên hội xảy ra đồng thời với sự hoà tan hoặc tái hấp thu của các nguyên tố (=các đại), nó xảy ra từ cái thô nhất đi tới cái vi tế nhất. Thế nên, nguyên tố đất hấp thu vào trong nguyên tố nước, nước vào trong lửa, rồi thì lửa vào trong khí, và khí vào trong thức (consciousness=thức; tâm thức; ý thức).

Sự hoà tan bắt đầu với sự tái hấp thu của nguyên tố đất (chất thể cứng) vào nguyên tố nước (chất thể ướt). Những triệu chứng vật lí hoặc bên ngoài gồm sự biến mất sức mạnh vật lí, thế nên cái đầu có khuynh hướng ngả xuống và phần ngực bụng thụt hóp lại; sự gấp lại và duỗi ra của tứ chi trở thành khó khăn và không còn có thể tiếp tục ngồi nữa. Đàm và nước miếng chảy ra ngoài.

Nhiều dấu hiệu bên trong tương ứng với những cảm quan trải nghiệm bởi người sắp chết trong suốt giai đoạn này. Tâm thiếu sự viên minh giác chiếu trong sáng, dường như nó bị phóng vào cõi đại u minh (The mind lacks clarity, as though it were plunged in great darkness). Người sắp chết có một sự thôi thúc muốn cử động, đổi vị trí hoặc trải đặt lại những chăn, vải giường, nhưng thân thể không còn khả năng nữa. Thật ra, thân bất động trở thành rất chậm chạp; người sắp chết cảm thấy nặng nề, dường như bị đo ván nằm luôn và bị chôn vùi dưới một trái núi. Hai mắt không còn thể nhìn thẳng nữa, có khuynh hướng trợn ngược vào trong đầu.

Những triệu chứng vi tế nhất hoặc ẩn mật là những trải nghiệm nhìn thấy hoặc những linh ảnh, chúng bắt đầu phát triển suốt thời gian có các triệu chứng bên ngoài và bên trong. Trong thời tái hấp thu thứ nhất này, linh ảnh của người sắp chết thì không vững bền, có vẻ như nhìn vào một ảo ảnh sóng nắng (mirage), hoặc có một sai lệch thị giác (visual distortion), giống như sự hiện tướng của nước trong một sa mạc nắng cháy nung trời hoặc dưới một mặt trời đổ lửa (During this first reabsorption, the dying person‘s vision is unstable, as if looking at a mirage, or there is a visual distortion, like the appearance of water in a scorching desert or under a blazing sun).

Triệu chứng bên ngoài của giai đoạn thứ nhì, nó tương ứng với sự tái hấp thu của nguyên tố nước vào trong nguyên tố lửa (sức nóng), là sự khô mũi, miệng và hai lỗ mũi, cùng với sự mất mát cao nhất là mất sự kiểm soát cơ thắt, nó gây ra sự không kiềm chế được, mất chủ động trong đại tiện, tiểu tiện. Những triệu chứng bên trong là tâm ý cực kì kích động: những tâm niệm khổ đau quấy động tâm. Người sắp chết cảm thấy dường như người ấy bị một giòng nước lũ mang đi và có cảm giác trong trạng thái chẳng còn thấy gì cả, và nghe âm thanh của một thác nước cuồn cuộn. Ở mức ẩn mật, linh ảnh của người sắp chết thì đầy sương mù và nhận thức sự sự vật vật như là pha trộn vào trong những đám mây khói.

Giai đoạn thứ ba là sự hoà tan của nguyên tố lửa vào trong nguyên tố khí. Những triệu chứng bên ngoài là sự giá lạnh của miệng và hai lỗ mũi, sự thở bị thu ngắn lại (shortened breathing), và mất các cảm giác liên tưởng trong tâm với sinh lực nhiệt bị giảm xuống, nó rời khỏi tay chân, bắt đầu từ cực biên (đầu ngón tay, đầu ngón chân) và tái hấp thu từ mặt ngoài đi tới cốt lõi của thân thể. Những triệu chứng bên trong gồm có sự mất tạm thời tính viên minh giác chiếu của tâm ý (mental clarity) và tính giác quang chiếu (quang = chủ thể năng chiếu) (lucidity). Sự sự vật vật không còn được thấy sáng tỏ nữa. Những triệu chứng ẩn mật gồm có những linh ảnh của quang sắc rực rỡ chói lọi (blazing light), dường như vũ trụ trong lửa cháy. Cái này thì cùng phối hợp với những ánh sáng lấp lánh giống như những con đom đóm.

Kế đến là sự tái hấp thu của nguyên tố khí vào trong tâm thức. Những triệu chứng bên ngoài là gắng sức để thở, thở hổn hển với những lần thở ra dài và những lần hít vào thì ngắn, tốn sức (The outer symptoms are gasping for breath with long exhalations and short, labored inhalations). Hai mắt thì trợn vào trong; sự thở chậm dần và đi đến chấm dứt. Những triệu chứng bên trong là hiện tướng của những ảnh hiện tương ứng với tác nghiệp của người sắp chết.Vào thời điểm chết, thân thể thì cực kì yếu đuối; tuy nhiên tâm thì rất mạnh mẽ. Cái yếu đuối của thân thể kết hợp với sức mạnh của tâm tạo ra những hiện tướng hư huyễn kịch liệt. Nếu người sắp chết đã tạo tác nhiều hành động tiêu cực trong đời người ấy, những linh ảnh này sẽ phản chiếu chúng và gây nên sợ hãi cực kì. Tỉ dụ, một kẻ đã giết nhiều súc sinh có thể thấy những súc sinh này đang săn đuổi và đang nuốt gọn người ấy.Vào thời điểm đó, thân và ngữ của người ấy có thể biểu tỏ sự khủng khiếp bằng cách thốt ra những kêu khóc hoặc rên rỉ thê thiết. Trái lại, một hành giả Chính Pháp có nghiệp tích cực có thể trải nghiệm giai đoạn này rất hạnh phúc, gặp nhiều thánh giả quang minh sáng chói. Những dấu hiệu hoặc triệu chứng bên trong ở giai đoạn này là nghe âm thanh của gió cực kì vũ bão, vù vù đầy hồi hộp, hoặc ầm ầm lăn chuyển rất ầm ĩ. Những triệu chứngcảm giác rằng người ấy đang biến mất hoặc đang phai mờ và trải nghiệm của một hiện tướng tương tự với ánh sáng đỏ rực của một cây nến.

Sự hoà tan bên trong

Tâm thức lúc đó hòa tan vào tính không (=chân không diệu viên). Ở điểm này, thân thể có một chút màu sắc, sự thở ngừng hoàn toàn, và sức nóng tụ hợp lại ngay bên phiá trên trái tim. Đây là thời điểm kết thúc của chết. Sự hoà tan của tâm thức vào trong tính không thì được đặc hữu hoá bởi những trải nghiệm quang minh được gọi là tính giác cảnh chiếu trắng, tính giác cảnh chiếu đỏ, và tính giác cảnh chiếu đen (quang: chủ thể năng chiếu; cảnh: đối tượng sở chiếu). Chúng thì tương ứng với sự tái hấp thu của những nguyên lí nam và nữ chứa trong thân thể.

(Dissolution of the consciousness into emptiness is characterized by luminous experiences called white luminosity, red luminosity, and black luminosity. These correspond to the reabsorption of the masculine and feminine principles containedin the body)

Thân vi tế của chúng ta thì thực sự kiến lập bởi hai nguyên lí, nam và nữ, vị trí tương ứng nam ở đỉnh đầu và nữ ở mức ngang của rốn.Vào thời điểm chết, chúng tái hấp thu vào nhau ở mức ngang trái tim.

Khởi sự, nguyên lí nam đi xuống từ đỉnh đầu hướng về trái tim. Vào thời điểm này, trải nghiệm tính giác cảnh chiếu trắng xảy ra, nó thì tương tự như quang sắc của mặt trăng.

Sự tái hấp thu của tâm thức xảy ra với những tâm niệm (= niệm tưởng) của nó. Những tâm niệm này có thể giản lược xuống thành tám mươi (80) loại ý niệm, trong đó ba mươi ba (33) sinh khởi từ sân (đối nghịch), bốn mươi (40) từ tham (dục tham), và bảy (7) từ vô trí hoặc si (=ngu si). Ba mươi ba (33) loại tâm niệm nối kết với đối nghịch, ghét bỏ, và giận dữ tan biến trong giai đoạn thứ nhất. Ngay cả nếu kẻ thù dữ dội nhất của chúng ta hoặc kẻ ám sát cha mẹ của chúng ta có đứng trước mặt chúng ta, chúng ta sẽ không còn một chút nào sân hận với kẻ đó.

Kế đến, nguyên lí nữ đỏ tái hấp thu, từ rốn đi lên, hướng về trái tim ; đây là trải nghiệm của tính giác cảnh chiếu đỏ giống như quang sắc của mặt trời. Bốn mươi (40) loại tâm niệm nối kết với dục (desire: dục) và luyến (attachment ; luyến: hâm mộ, ưa thích,yêu mến, quấn quýt, không rời ra, không quên) chấm dứt ở giai đoạn này. Ngay cả nếu một vị trời nam hoặc nữ lộng lẫy, rực rỡ, duyên dáng, quyến rũ, nếu có xuất hiện, chúng ta cũng chẳng còn trải nghiệm bất cứ một dục nào.

Khi hai nguyên lí nam nữ tái hấp thu trong tim, tâm thức đánh mất tính năng nhận biết sáng tỏ của nó. (When the two principles reabsorb in the heart, the consciousness loses its faculty of knowing). Đây là trải nghiệm của tính giác cảnh chiếu đen, tương tự như một màu lam thẫm nửa đêm hoặc một đêm tối thẫm (This is the experience of black luminosity, similar to a midnight blue or a dark night). Trong một người bình thường, tâm chìm vào trong đen tối toàn thể. Ở thời điểm này bảy (7) loại tâm niệm nối kết với vô trí (mental dullness) hoặc ngu si (stupidity) chấm dứt. Bất cứ cảnh nào có thể sinh khởi trong tâm sẽ chẳng còn được xem là tốt hoặc xấu.

Toàn thể tiến trình hoà tan, từ lúc khởi đầu cho tới lúc trải nghiệm tính giác cảnh chiếu đen được gọi là trung hữu của thời điểm chết.

Vào lúc chấm dứt của sự hoà tan, quang sắc giác chiếu (clear light), hoặc bản chất thật của tâm, được khai hiển. Tất cả hữu tình có một trải nghiệm của quang sắc giác chiếu, nhưng hữu tình bình thường không nhận định được nó. Đối với người đó, sự nhận định đó thì bị thay thế bởi một thời kì vắng mặt của trải nghiệm, hoặc bất thức (unconsciousness). Đó là sự thiếu vắng của thật chứng, hoặc vô minh, nó che lấp hữu tình bình thường trong suốt giai đoạn của bất thức hoàn toànbất thức hoàn toàn thay thế trải nghiệm của quang sắc giác chiếu. Nhưng ngay cả nếu nó cực kì thoáng qua và đi mất không được nhận ra, trải nghiệm này của quang sắc giác chiếu xảy ra với mọi hữu tình.

Về một mặt khác, nếu một người đã nhận định được bản chất thật của tâm trong cuộc đời người ấy—đó là đã thật chứng đại thủ ấn mahamudra – tâm có thể nhận định được quang sắc giác chiếu căn bản (= bản giác) vào lúc thời-điểm-của-trung-hữu-chết kết thúc và, dù ở bất cứ mức độ nào sự nhận định này thì vững bền, có thể duy trì hấp thu vào nó.

Đối với một hành giả du già như thế, quang sắc giác chiếu con gái, nó được trải nghiệm trong đời sống người ấy và quang sắc giác chiếu bản mẫu hợp nhất. Đây là trạng thái phật (=phật quả).

(For such a yogi the daughter clear light, which is experienced during his or her lifetime, and the fundamental mother clear light unte. This is the state of buddhahood)

-------------------------------

Chú thích

1. Emptiness; Openness; Skt. sunyata; tính không; chân không; chân không diệu viên; chân không diệu hữu.

Clarity; lucidity: Skt. prabhasvara; viên minh; giác chiếu;viên minh giác chiếu; tính giác viên chiếu; tính giác quang chiếu

Clear light; clear light transparence; Skt. prabhasvara; quang sắc giác chiếu ;quang minh giác chiếu; quang minh tự chiếu, tính giác viên chiếu ; linh tâm tự chiếu; thường tịch quang;…

Nếu dịch Light (trong Clear Light) là ánh sáng, thì độc giả có thể hiểu nhầm, như là ánh sáng của một đường hầm (light in the tunnel) – nên Light ở đây dịch là quang sắc (transparence) 

Luminosity: tính giác cảnh chiếu (quang: chủ thể năng chiếu; cảnh: đối tượng sở chiếu)

Prabha:Skt. quang minh

Daughter clear light : quang sắc giác chiếu con gái

Clear light fundamental mother: quang sắc giác chiếu bản mẫu. (bản mẫu = bản nguyên mẫu thân; mẫu thân vô thủy vô chung; mẫu thân muôn thuở )

Khi người con gái (= quang sắc giác chiếu con gái), ngày tháng lang thang sáu cõi, với cái tâm lang thang, dấu chân viễn mộng chỉ là phù vân, vào thời điểm trung hữu chết, li biệt với cái thân tứ đại, nhận biết sáng tỏ (=tuệ tri) quang sắc giác chiếu bản mẫu (bản trí, bản giác, trí tuệ bát nhã, tính bản phật phổ hiền, thường tịch quang, tự tánh di đà,…) chính là bà mẹ muôn thuở, bản lai diện mục, ta về gặp lại tình ta, và hợp nhất với bà mẹ muôn thuở, là trạng thái phật.

Wind of karma and becoming: khí nghiệp và tái sinh hữu. (gió nghiệptái sinh)

2. Quang cảnh: quang là chủ thể năng chiếu; Cảnh là đối tượng sở chiếu. Nếu năng sở (=chủ khách) hợp làm một thì gọi là Quang cảnh nhất như.

Nếu tâm chiếu vật và cảnh sở chiếu không đối lập nhau mà dung hợp nhau để đạt đến cảnh giải thoát, thì gọi là quang cảnh câu vong (=quang cảnh đều mất), Quang cảnh mẫn tuyệt (= quang và cảnh dứt bặt)

3. Kalu Rinpoche giảng:

Bản chất của tâm thanh tịnh có thể được nghĩ đến trong trạng thái có ba phương diện bản chất căn bản, kết hợp, và đồng thời:

1. chân không diệu viên [openness; emptiness ; open to possibilities for manifestations; Skt. sunyata; chân không là rỗng thông lìa các tướng và diệu viên là mở ra các khả hữu cho biến hiện -- gặp sắc trần thì cái thấy biến hiện, gặp thanh trần thì cái nghe biến hiện, v.v.. nên gọi diệu viên],

2. quang minh viên chiếu (clarity; lucidity; Skt. prabhasvara; quang minh viên chiếu; tràn đầy sáng tỏ chiếu khắp thường trụ; thường tịch quang…), và 

3. diệu minh biện biệt vô ngại (sensitivity; nhận biết phân biệt rành rẽ không bị ngăn ngại).

---------------------

Nguồn: Đặc san Hiện Thực. số 23/ 2011 . Năm thứ 8. Kính mừng Phật đản 2635.
Vietnamese Buddhist Magazine. Quán Âm Buddhist Monastery.

---------------------------------------------------------------------------------------------------------

Kalu Rinpoche

The Bardo of the Moment of Death

When the bardo of the moment of death appears may I abandon attachments and mental fixations, and engage without distraction in the path which the instructions make clear.
Mind projected into the sphere of uncreated space, separated from body, from flesh and blood, I will know that which is impermanence and illusion.
Padmasambhava. The Tibetan Book of the Dead.

-----------------------------------------------------------

The different vital factors that sustain life deteriorate and disappear at the end of a lifetime. The extinguishing of life is described as the dissolution or outer reabsorption of the principal elements – earth, water, fire, and air – and the inner reabsorption of the different types of thoughts and cognitions. During this bardo, the various winds that animate the body are destroyed.

In general, our body is controlled by five main winds, called the life-bearing wind, the upward-moving wind, the pervasive wind, th fire-dwelling wind, and the downward-voiding wind. These winds animate the physical body, and their proper functioning assures good health. At the moment of death, another wind manifests, called the wind of karma and becoming. It is usually diffused throughout the whole body. When it manifests, it upsets and interferes with other winds; different pathological symptoms appear as the body approaches death.

Outer Dissolution

The wind that regulates the absorption of nourishment, or the fire-dwelling wind, is the first wind to be disturbed. It leaves its location in the navel cakra and ceases to function, which means that we can no longer be nourished by food, nor can food that is absorbed be digested; nutrients are quickly rejected.

Next, the life-bearing wind is disturbed and leaves its location at the heart, which results in emotional distress and a lack of mental clarity. This disturbance next affects the downward-voiding wind of the lower abdominal functions so that retention of feces and urine is disrupted, causing incontinence or intestinal obstruction.

Then the upward-moving wind is impaired, causing short, labored breathing and difficulty with swallowing. Finally, the pervasive wind is affected, which brings on unpleasant physical sensations as well as difficulty moving the limbs.

The disturbances of these winds cause them to leave their usual location in the body.This migration brings about the destruction of the subtle channels through which the winds normally circulate, as well as their two main centers or wheels, cakras in Sanskrit.

The destruction of these channels and their centers occurs concomitantly with a deterioration of the body’s principal elements and the physical aspects connected with them: physical body, respiration, body temperature, blood, and flesh, corresponding respectively with the elements of space, air, fire, water and earth. The secondary winds, located in the five great centers already mentioned, migrate and disappear at the same time as the main winds.The destruction of these secondary winds causes the gradual disappearance of the sense perceptions.

The destruction of the five winds happens at the same time as the dissolution or reabsorption of the elements, which occurs from the grossest to the most subtle. So, the earth element absorbs into water element, water into fire, then fire into air, and air to consciousness.

The dissolution begins with the reabsorption of the earth element into the water element. The physical or outer symptons include the disappearance of physical strenghth, so that the head has a tendency to fall and the trunk of the body caves in; flexing and extending the limbs becomes difficult and remaining seated is no longer possible. Phlegm and saliva flow out.

Various inner signs correspond to sensations experienced by the dying person during this phase. The mind lacks clarity, as though it were plunged in great darkness. The dying person has the urge to move, to change position or rearrange the covers, but is physical unable to. In fact, the immobile body becomes very sluggish; the dying person feels heavy, as though knocked down and buried under a mountain. The eyes, which can no longer see straight, tend to roll up in the head.

The most subtle or secret symptoms are visual experiences or visions, which also begin to develop during the time of the outer and inner symptons. During this first reabsorption, the dying person’s vision is unstable, as if looking at a mirage, or there is a visual distortion, like the appearance of water in a scorching desert or under a blazing sun.

The outer symptom of the second phase, which corresponds to the reabsorption of the water element into the fire element, is the drying out of the nose, mouth, and nostrils, along with the eventual loss of sphincter control, which results in incontinence. Inner symptoms are extreme mental agitation; unpleasant thoughts disturb the mind. The dying person feels as though he or she is being carried away by a torrent and has the sense of falling and being swallowed up, and hears the sound of a violent waterfall. At the secret level, the dying person’s vision is foggy and perceives everything as blending into clouds of smoke.

The third phase is the dissolution of the fire element into the air element. Outer symptoms are the chilling of the mouth and nostrils, shortened breathing, and a loss of feeling associated with decreased vital heat, which leaves the arms and legs starting from the extremities and reabsorbs from the exterior to the core of the body. Inner symptoms include the momentary loss of mental clarity and lucidity. Things are no longer seen clearly. Secret symptoms include visions of blazing light , as if the universe were on fire. This is combined with visions of sparkling lights resembling fireflies.

Next comes the reabsorption of the air element into consciousness. The outer symptoms are gasping for breath with long exhalations and short, labored inhalations. The eyes roll back; breathing slows and approaches its eventual cessation.Inner symptoms are the appearance of apparitions that correspond to the dying person’s karma. At the moment of death, the body is extreme frail; however, the mind is very strong. This physical weakness combined with the strength of the mind produces very intense illusory appearances. If the dying person has performed many negative actions in his or her lifetime, these visions will reflect them and cause extreme fear. For example, a murderer who has killed many animals might see those animals chasing and devouring him. At that moment, his body and speech might show terror by emitting cries or moans. By contrast, a Dharma practictioner whose karma is positive could experience this phase very happily, meeting various luminous divine beings. Inner signs or symptoms at this phase are hearing the sound of an extremely violent wind, a throbbing hum, or a very loud rumble. Secret symptoms are the sense that one is vanishing or fading and the experience of an appearance similar to the glow of a candle.

Inner Dissolution

The consciousness then dissolves into emptiness. At this point, the body takes on a bit of color, breathing stops completely, and heat gathers just above the heart. This is the final moment of death. Dissolution of the consciousness into emptiness is characterized by luminous experiences called white luminosity, red luminosity, and black luminosity. These correspond to the reabsorption of the masculine and feminine principles contained in the body.

Our subtle body is actually made of two principles, masculine and feminine, located respectively at the crown of the head and at the level of the navel.At the moment of death, they absorb into each other at the level of the heart.

Initially, the white masculine principle descends from the crown of the head toward the heart. At this moment, the experience of white luminosity occurs, which is similar to the light of the moon.

The reabsorption of consciousness occurs with its thoughts. These can be reduced to eighty types of conceptions, of which thirty-three arise from aversion, forty from desire, and seven from mental dullness or stupidity. The thirty-three kinds of thoughts connected with aversion, hatred, and anger dissolve during this first phase. Even if our fiercest enemy or our parents’ assassin were in front of us, we would have no more aversion toward him.

Next, the red feminine principle reabsorbs, ascending from the navel toward the heart; this is the experience of red luminosity much like the light of the sun. The forty types of thought connected with desire and attachment cease during this phase. Even if a gorgeous, charming god or goddess were to appear, we would no longer experience any desire.

When the two principles reabsorb in the heart, theconsciousness loses its faculty of knowing. This is the experienceof black luminosity, similar to a midnight blue or a dark night. In an ordinary being, the mind sinks into total darkness. At this moment the seven kinds of thought connected with mental dullness or stupidity cease.Any spectacle that might arise in the mind will no longer be considered good or bad.

This whole process of dissolution, from the beginning up to the experience of black luminosity, is called the bardo of the moment of death.

At the end of the dissolution, the clear light, or mind’s basic nature, is revealed. All beings have an experience of the clear light, but the ordinary being does not regconize it. For him or her, that recognition is replaced by a period of absence of experience or unconsciousness.It is the lack of realization, or ignorance, which obscures the ordinary being during this phase of complete unconsciousness that replaces the experience of the clear light. But even if it is extremely fleeting and goes unrecognized, this experience of the clear light occurs to every being.

On the other hand, if a person has recognized the true nature of mind within his or her lifetime – that is, has realized mahamudra – the mind can recognize the fundamental clear light at this final moment of the bardo of the death and, to whatever degree this recognition is stable, can remain absorbed in it.

For such a yogi, the daughter clear light, which was experienced during his or her lifetime, and the fundamental mother clear light unite. This is the state of buddhahood.

-----------------------

Source: Kalu Rinpoche. Luminous Mind. The Way of the Buddha. Wisdom, 1997.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 10192)
Sự sinh ra cao quý, tự dothuận lợi này thật khó có được. Cầu mong con không lãng phísử dụng nó một cách có ý nghĩa.
(Xem: 11249)
Ta cần có những thiện hạnh để chấm dứt những dục vọng vô độ và việc coi mình là quan trọng; cách hành xử tránh điều độc hại như thuốc độc...
(Xem: 13592)
Xuất phát từ một nhận thức có tính thuyết phục về đạo Phật, quyển "Thuần Hóa Tâm Hồn" được viết với một văn phong hiện đại, trong sángtinh tế; nghiêm trang nhưng vẫn đan xen đôi nét hóm hỉnh.
(Xem: 13744)
Một cách khái quát, Thiền có thể hiểu là trạng thái tâm linh vút cao của một hành giả đã chứng ngộ. Với nghĩa này, Thiền cũng là Đạo, là Phật, là Tâm...
(Xem: 22218)
Các khoa học gia ngày nay trên thế giới đang có khuynh hướng chú trọng vào chế độ dinh dưỡng lành mạnh lấy chất bổ dưỡng từ nguồn thức ăn do thực vật đem lại...
(Xem: 21877)
Chúng tôi đi với hai mục đích chính: Thay mặt toàn thể Phật tử Việt Nam chiêm bái các Phật tích và viết một quyển ký sự để giới thiệu các Phật tích cho Phật Tử Việt Nam được biết.
(Xem: 27389)
Tâm tánh của chúng sinh dung thông không ngăn ngại, rộng lớn như hư không, lặng trong như biển cả. Vì như hư không nên thể của nó bình đẳng...
(Xem: 17783)
Tây phương Cực lạccảnh giới thanh tịnh giải thoát. Thanh tịnhvô nhiễm là thuần thiện, giải thoát là vượt ngoài ba cõi, vượt ngoài ba cõi là xả ly thế gian.
(Xem: 11741)
Tinh thần Đại thừa Phật giáo nhằm mục đích chuyển hóa cõi Ta-bà uế trược này trở thành Cực-lạc thanh lương. Sự phổ biến Phật giáo khắp mọi tầng lớp quần chúng là điều Phật tử phải thực hiện.
(Xem: 12331)
Là một tu sĩ Phật giáo Việt Namtrách nhiệm và nhiều nhiệt tình thì thấy điều gì hay trong Phật giáo tôi tán thán, biết việc gì dở tôi chê trách, đều nhằm mục đích xây dựng Phật giáo Việt Nam mà thôi.
(Xem: 25250)
Chúng ta tu Thiền là cốt cho tâm được thanh tịnh trong lặng. Từ tâm thanh tịnh trong lặng đó hiện ra trí vô sư. Trí vô sư hiện ra rồi thì chúng ta thấy biết những gì trước kia ta chưa hề thấy biết...
(Xem: 23290)
Đối tượng nghiên cứu của xã hội học là con người, trong khi đó, xã hội học Phật giáo có những bước nghiên cứu xa hơn không chỉ nói về con người mà còn đề cập đến các loài hữu tình khác...
(Xem: 28585)
Một chủ đề chính của cuốn sách này là qua thực hành chúng ta có thể trau dồi tỉnh giác lớn lao hơn suốt mỗi khoảnh khắc của đời sống. Nếu chúng ta làm thế, tự dolinh hoạt mềm dẻo liên tục tăng trưởng...
(Xem: 22773)
Chân thật niệm Phật, lạy Phật sám hối, giữ giới sát, ăn chay, cứu chuộc mạng phóng sinh. Đó là bốn điểm quan trọng mà sư phụ thường dạy bảo và khuyến khích chúng ta.
(Xem: 25717)
Con đường thiền tậpchánh niệm tỉnh giác, chứng nghiệm vào thực tại sống động. Khi tâm an định, hành giả có sự trầm tĩnh sáng suốt thích nghi với mọi hoàn cảnh thuận nghịch...
(Xem: 22307)
Với người đã mở mắt đạo thì ngay nơi “sắc” hiện tiền đó mà thấy suốt không chướng ngại, không ngăn che, nên mặc dù Sắc có đó vẫn như không, không một chút dấu vết mê mờ...
(Xem: 13994)
Trên đời này, hạnh phúc và khổ đau; chiến tranh và hòa bình; giàu và nghèo… nếu chúng ta chịu khó tu tập một chút và giữ tâm thật bình thản, chúng ta sẽ khám phá ra nhiều điều hay vô cùng.
(Xem: 13436)
Bước đường hành đạo của đức Phật thật sinh động trong khung cảnh Ấn Ðộ cổ đại được minh họa bằng các trích đoạn kinh kệ từ Tam Tạng Pàli nguyên thủy đầy thiền vị hòa lẫn thi vị...
(Xem: 22481)
Bắt đầu bằng cách bỏ qua một bên tất cả những mối quan tâm ở bên ngoài, và quay vào quán sát nội tâm cho đến khi ta biết tâm trong sáng hay ô nhiễm, yên tĩnh hay tán loạn như thế nào.
(Xem: 26393)
Kinh Nghĩa Túc đã bắt đầu dạy về không, vô tướng, vô nguyệnbất khả đắc. Kinh Nghĩa Túc có những hình ảnh rất đẹp về một vị mâu ni thành đạt.
(Xem: 18487)
Bản thể hiện tiền là Sự Sống Duy Nhất vĩnh hằng, luôn hiện tiền, vượt quá hằng hà sa số dạng hình thức sinh linh vốn lệ thuộc vào sinh và diệt.
(Xem: 18967)
Khi bạn chú tâm đến sự yên lặng, ngay lập tức có một trạng thái cảnh giác nhưng rất im lắng ở nội tâm. Bạn đang hiện diện. Bạn vừa bước ra khỏi thói quen suy tưởng của tâm thức cộng đồng...
(Xem: 34518)
Đây là phần thứ 2 trong 3 phần chính của cuốn Zen no Rekishi (Lịch Sử Thiền) do giáo sư Ibuki Atsushi soạn, xuất bản lần đầu tiên năm 2001 tại Tôkyô.
(Xem: 27389)
Thật ra chân lý nó không nằm ở bên đúng hay bên sai, mà nó vượt lên trên tất cả đối đãi, chấp trước về hiện hữu của Nhị Nguyên. Chân lý là điểm đến, còn hướng đến chân lý có nhiều con đường dẫn đến khác nhau.
(Xem: 28428)
Trong tiếng Phạn (Sanskrit), từ "Thiền" có ngữ nguyên là dhyâna. Người Trung Hoa đã dịch theo âm thành "Thiền na". Ý nghĩa "trầm tư mặc tưởng" của nó từ xưa trong sách vở Phật giáo lại được biểu âm bằng hai chữ yoga (du già).
(Xem: 21393)
Giác ngộ là sự hiểu biết đúng như thật; giải thoát là sự chấm dứt mọi phiền não khổ đau. Chỉ có sự hiểu đúng, biết đúng mới có sự an lạchạnh phúc...
(Xem: 14910)
Càng sống thiền định để thấu suốt cái vô thường, đau khổvô ngã trong đời sống thì ta càng dễ dàng mở rộng trái tim để có thể sống hòa ái và cảm thông cho tha nhân nhiều hơn.
(Xem: 19220)
Bồ Tát Quán Thế Âm là một trong những hình tượng gần gũi nhất với hầu hết tín đồ Phật giáo, dù ở bất cứ nơi đâu, dù thuộc tầng lớp nào. Ngài là biểu tượng của lòng đại bi...
(Xem: 10622)
Giáo dục của chúng ta là sự vun đắp của ký ức, sự củng cố của ký ức. Những thực hành và những nghi lễ của tôn giáo, đọc sách và hiểu biết của bạn, tất cả là sự củng cố của ký ức.
(Xem: 18576)
Đức Phật đã nhìn thấy rất rõ rằng, những trạng thái khác nhau của tâm và những hành động khác nhau của thân sẽ đưa đến những kết quả hoàn toàn khác biệt.
(Xem: 15665)
Phương pháp thiền tập được xuất phát từ phương Đông nhiều ngàn năm trước đây, sau khi được truyền sang phương Tây đã trở thành một phương pháp thực tập được nhiều người yêu thích...
(Xem: 13189)
Chư Bồ Tát, tùy theo hạnh nguyện thù thắng khác biệt mà mỗi vị mang một danh hiệu khác nhau, tựu trung hạnh nguyện của vị nào cũng vĩ đại rộng sâu không thể nghĩ bàn...
(Xem: 13423)
Tuy ra đời khá sớm trong dòng văn học Phật giáo, nhưng cho đến nay, điểm thú vị của độc giả khi đọc lại tập sách này là vẫn có thể nhận ra được những vấn đề quen thuộc với cuộc sống hiện nay của bản thân mình.
(Xem: 14028)
Chân lý chỉ có một, nhưng mỗi người đến với chân lý bằng một con đường khác nhau. Dù bằng con đường nào đi nữa thì đó cũng là hạnh phúc lớn nhất trong cuộc đời...
(Xem: 11793)
Đây là kết quả của 17 năm trường mà Ngài Huyền Trang đã ở tại Ấn Độ. Đi đến đâu Ngài cũng ghi lại từ khí hậu, phong thổ cho đến tập quán và nhất là những câu chuyện liên quan đến cuộc đời đức Phật...
(Xem: 11634)
Chính là nhờ vào con đường tu tập, vào sự bứng nhổ tận gốc rễ cái ảo tưởng rằng ta là một cá thể riêng biệt mà ta tìm lại được hạnh phúc chân thật sẵn có trong ta.
(Xem: 11343)
Đức Phật thuyết Pháp, chư tăng gìn giữ pháp Phật để vĩnh viễn lưu truyền làm đạo lý tế độ quần sanh. Vì thế, Phật, Pháp và Tăng là ba món báu của chúng sanh...
(Xem: 11898)
Sân chùa yên ả không một tiếng lá rơi. Mặt trời áp má lên những vòm cây xum xuê, chỉ để rớt nhiều đốm nắng rất nhỏ xuống đất, không nóng bức, không khó chịu...
(Xem: 19947)
Như những con người, tất cả chúng ta muốn an lạc hạnh phúc và tránh buồn rầu đau khổ. Trong kinh nghiệm hạn hẹp của mình, nếu chúng ta đạt đến điều này, giá trị bao la của nó có thể phát triển...
(Xem: 12399)
Ở xứ Tây Tạng, tạo hóa và dân sự dường như bảo nhau mà giữ không cho kẻ lạ bước vào! Núi cao chập chùng lên tận mây xanh có tuyết phủ...
(Xem: 13943)
Đức Phật Thích-ca Mâu-ni ra đời cách đây đã hơn 25 thế kỷ. Những gì ngài để lại cho cho chúng ta qua giáo pháp được truyền dạy khắp năm châu là vô giá...
(Xem: 13274)
Trong các vị cao tăng Trung Hoa, ngài Huyền Trang là người có công nghiệp rất lớn, đã đi khắp các nơi viếng Phật tích, những cảnh chùa lớn, quan sátnghiên cứu rất nhiều.
(Xem: 31985)
Những phương pháp và lời hướng dẫn mà Đức Phật đã đề ra giúp chúng ta có thể từng bước tiến đến một sự giác ngộ sâu xa và vượt bậc, và đó cũng là kinh nghiệm tự chúng Giác Ngộ của Đức Phật.
(Xem: 13438)
Vào một buổi chiều lười biếng ở Sydney, tôi mở Tivi và thấy chương trình Oprah Winfrey đang tranh luận về kiếp trước kiếp sau, cuộc tranh luận rất sôi nổi.
(Xem: 12759)
Đây là một cuốn nhật ký ghi chép cuộc hành trình đi về Ấn Độ để học đạo. Tác giả nhân khi chùa Văn Thù Sư Lợi tổ chức chuyến đi hành hương các Phật tích tại Ấn đã tháp tùng theo...
(Xem: 13334)
Sách gồm những lời phát biểu của Đức Đạt-Lai Lạt-Ma về Phật giáo và vài vấn đề liên quan đến Phật giáo, chọn lọc từ các bài diễn văn, phỏng vấn, các buổi thuyết giảng và các sách của Đức Đạt-Lai Lạt-ma.
(Xem: 11905)
Trời bên này đã thật sự vào thu rồi đó! Buổi chiều, con đường về nhà hai bên rừng có ngàn lá đổi sang màu trái chín, đẹp kỳ diệu.
(Xem: 21871)
Ni sư Ayya Khema viết quyển tự truyện này không vì mục đích văn chương, mà để chúng ta từ câu chuyện đời của Ni sư tìm được những bài học giá trị về con đường đạo Người đã đi qua.
(Xem: 11098)
“Đạo lý nhà Phật, là một nền đạo lý thâm trầm, siêu việt hơn hết”. Ấy là lời nói của nhiều nhà thông thái xưa nay trên hoàn võ, và cũng là một mối cảm của chúng tôi nữa.
(Xem: 12902)
Các chân sư thực hiện những kỳ công của các ngài mà không chút tự hào, với một thái độ giản dị hồn nhiên hoàn toàn như trẻ con. Các ngài biết rằng, năng lực của tình thương luôn che chở các ngài.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant